Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Chế độ bảo hiểm hưu trí trong pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 93 trang )

333333

NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ
TRONG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG

2015- 2017

HÀ NỘI – 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ TRONG PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH


NGUYỄN THỊ BÍCH HƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO THỊ HẰNG

HÀ NỘI – 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học Mở Hà Nội xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bích Hường

3


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đại học Mở Hà
Nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả

đó, trước hết tôi vô cùng cám ơn PGS.TS Đào Thị Hằng, là người đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên cứu
và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo của Khoa đào tạo sau
đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội, các quý cơ quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh
Ninh Bình, Thư viện tỉnh Ninh Bình, ... các đồng nghiệp, bạn bè đã giúp đỡ
tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Luận văn là công trình nghiên cứu nghiêm túc, khoa học của bản
thân, nhưng do khả năng cũng như thời gian nghiên cứu còn nhiều hạn chế
nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả rất mong nhận
được sự đóng góp của các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và các độc giả
quan tâm đến vấn đề này để luận văn được hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ký tên

Nguyễn Thị Bích Hường

4


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
HƯU TRÍ VÀ NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO

HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ……………………………………………..…………..5
1.1.Khái niệm, đặc điểm của chế độ bảo hiể xã hội hưu trí…………………..……..5
1.1.1. Khái niệm của chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí………...…………………………5
1.1.2. Đặc điểm của chế độ bảo hiểm hưu trí……………………………………….…...6
1.2 Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội hưu trí…………………………………………….7
1.3 Nội dung quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội hưu trí……..…….9
1.3.1 Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc………………………….……9
1.3.1.1 Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng………………………………….……..9
1.3.1.2 Chế độ bảo hiểm xã hội một lần……………………………………..…….21
1.3.2 Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội tự nguyện……………………….……26
1.3.2.1 Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng………………………………….……26
1.3.2.2. Bảo hiểm xã hội một lần…………………………………………..………27
1.3.3. Bảo hiểm hưu trí bổ sung……………………………………………..……..29
1.3.4.Trình tự, thủ tục giải quyết chế độ hưu trí…………………………..……… 30
1.3.4.1 Hồ sơ hưởng hưu trí hàng tháng……………...........................................…30
1.3.4.2.Hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội một lần……………………………………..31
1.3.4.3 Thời hạn giải quyết hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần……….....31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………...……………….33

5


Chương 2:THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ Ở
TỈNH NINH BÌNH……………………………………………..………………....34
2.1.Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội và cơ quan BHXH tỉnh Ninh Bình…34
2.1.1.Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội……………………….…..…34
2.1.2.Quá trình hình thành và phát triển Bảo hiểm xã hội tỉnh Ninh Bình………...35
2.2. Triển khai thực hiện chế độ hưu trí ở BHXH tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2012 –
2016………...…………………………………………………………………...….38
2.2.1.Thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt

buộc………………………………………………………………………………..38
2.2.1.1 Phát triển đối tượng tham gia và phát triển số thu BHXH bắt buộc……....38
2.2.1.2 Thực hiện chế độ hưu trí hàng tháng và bảo hiểm xã hội một
lần..............................................................................................................................41
2.2.2. Thực hiện chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội tự nguyện……………..…44
2.2.2.1. Đối tượng tham gia và số thu BHXH tự nguyện………………………….43
2.2.2.2. Chế độ bảo hiểm hưu trí trong BHXH tự nguyện…………………….…..47
2.2.3 Thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung…………………………………47
2.3. Thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm hưu
trí……………………………………………………………………………….…..48
2.3.1. Trong chế độ hưu trí hàng tháng…………………………………………….48
2.3.1.1. Công tác xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí…………………..…….…48
2.3.1.2. Công tác chi trả lương hưu………………………………………….….....49
2.3.2 Trong chế độ bảo hiểm xã hội một lần……………………………………….54
2.4.Một số nhận xét về thực tiễn thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí ở tỉnh
Ninh Bình……………………………………………………………………….….56
2.4.1. Ưu điểm…………………………………………………………….………..56
2.4.2.Những hạn chế vướng mắc…………………………………….………...…..59
2.4.3.Nguyên nhân của những hạn chế………………………………………...…..64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2:…………………………………………………………69

6


Chương 3:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BHXH HƯU TRÍ Ở
TỈNH NINH BÌNH………………………………………………………………..71
3.1.Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí và nâng cao hiệu quả
thực hiện……………………………………………………………………………71
3.2.Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí……………..……72

3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu
trí tại tỉnh Ninh Bình………………………….……………………………………73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3……………….………………………………………....80
KẾT LUẬN CHUNG……………………………………………………………..81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...83

7


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Để xã hội ổn định và phát triển, một trong những nền tảng cơ bản là đời sống
người dân được đảm bảo, cuộc sống an lành, hạnh phúc. Vì lẽ đó mà bảo hiểm xã
hội được hình thành là nhu cầu tất yếu khách quan, là một chính sách lớn của mỗi
quốc gia, mang trong nó bản chất nhân văn sâu sắc và được coi như là một quyền cơ
bản của con người, như trong “ tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp
quốc” đã nêu: “Mọi quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, xã hội,
không phân biệt giàu hay nghèo đều phải thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội”
[45]
Chính sách bảo hiểm xã hội thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức
mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi Quốc gia. Thực hiện tốt chính
sách bảo hiểm xã hội là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao
động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bảo hiểm xã hội là sự
bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động hay
sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ
tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và các nguồn thu
hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia
đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm hưu trí đóng một vai trò

hết sức quan trọng, là công cụ quan trọng để Nhà nước phòng ngừa, hạn chế và
khắc phục rủi ro cho mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là trong nền kinh tế thị
trường. Đây là chế độ bảo hiểm dài hạn, bảo hiểm tuổi già dành cho những người
không còn tham gia quan hệ lao động. Vì thế nó rất cần thiết và không thể thiếu
được bởi bất cứ người lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu, hết tuổi lao động
nhưng vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và lương hưu sẽ là nguồn thu nhập chính
của họ trong lúc này. Được hưởng trợ cấp khi về hưu là một trong những mục đích,

1


động lực cơ bản để người lao động tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội và nó có ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam – Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngay sau khi giành
chính quyền cũng đã quan tâm đến chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội ra
đời, phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của Nhà nước Việt Nam từ năm 1945,
thể hiện trong các điều khoản của Sắc lệnh số 29/SL (ngày 12/3/1947), sắc lệnh số
76 (ngày 20/5/1950). Tuy nhiên do điều kiện lịch sử, do hoàn cảnh chiến tranh kéo
dài, kinh tế còn nghèo nàn nên chính sách bảo hiểm xã hội ban hành trong thời kỳ
này nói chung và chế độ hưu trí nói riêng còn rất hạn chế. Đến nay, khi nền kinh tế
chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu về BHXH đa dạng ngày càng tăng, số lượng
người về hưu cũng ngày càng tăng thì đời sống của họ luôn luôn là mối quan tâm
lớn của Đảng và nhà nước ta. Do đó đặt ra yêu cầu là thực hiện BHXH đối với
người về hưu như thế nào trong thời kỳ mới. Để đáp ứng được yêu cầu này thì việc
xây dựng và hoàn thiện chế độ hưu trí cho phù hợp với cơ chế quản lý mới là hết
sức cần thiết. Chế độ hưu trí cùng với các chế độ bảo hiểm xã hội khác đã góp phần
rất to lớn vào việc ổn định đời sống của công nhân viên chức, lực lượng vũ trang,
người lao động tham gia BHXH (gọi chung là người lao động) và gia đình họ làm
cho họ yên tâm lao động sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất
nước trong thời kỳ hội nhập.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn: Chế độ bảo hiểm
hưu trí trong pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành luật kinh tế với hy vọng mong muốn đóng
góp một phần nhỏ vào công tác nghiên cứu trong lĩnh vực về bảo hiểm xã hội nói
chung và chế độ hưu trí nói riêng. Tuy nhiên Luận văn không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, rất mong được thầy cô và các nhà khoa học chuyên sâu nghiên cứu
trong vấn đề này lượng thứ và góp ý cho em.
2.Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Tác giả làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nội dung,
đặc điểm, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí, thực trạng của các quy định

2


của pháp luật Việt Nam hiện nay về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí và thực tiễn
thực hiện tại tỉnh Ninh Bình, từ đó chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của
sự bất cập để đưa ra những đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện hiệu quả các quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm hưu trí trong thực tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu với các nhiệm vụ sau:
- Luận giải một số vấn đề lý luận về chế độ BHXH hưu trí
- Phân tích và đánh giá thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm hưu trí và
thực tiễn thực hiện tại Ninh Bình
- Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
chế độ hưu trí ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
về bảo hiểm hưu trí và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Ninh Bình. Do Luật bảo hiểm xã
hội năm 2014 mới có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016 nên thời gian thực hiện
chưa dài, vì thế tác giả xin phép phản ánh cả số liệu về thực tiễn thực hiện trong
khoảng thời gian trước đó để có cơ sở nhận xét đánh giá.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các
văn bản pháp luật của Nhà nước về quy định chế độ bảo hiểm hưu trí, đặc biệt nội
dung chế độ bảo hiểm hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội.
Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học chuyên ngành và liên
ngành, trong đó coi trọng phương pháp thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, so
sánh, nhận xét thực tiễn…
4.Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn sẽ góp phần làm rõ và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận cơ
bản về chế độ bảo hiểm hưu trí như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế
độ BHXH hưu trí.
Luận văn cũng sẽ phân tích và đánh giá được thực trạng pháp luật về chế độ
BHXH hưu trí trên địa bàn Ninh Bình hiện nay.

3


Luận văn cũng đưa ra những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí đồng thời nâng cao hiệu quả việc
thực hiện chế độ BHXH hưu trí.
5.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí và nội
dung quy định pháp luật hiện hành về BHXH hưu trí.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chế độ BHXH hưu trí ở tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật BHXH hưu trí.

4



Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ
HỘI HƯU TRÍ VÀ NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ.
1.1.Khái niệm, đặc điểm của chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
1.1.1. Khái niệm của chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
Theo nghĩa chung nhất, chế độ hưu trí được hiểu là chế độ bảo hiểm xã hội
đảm bảo thu nhập cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ
lao động nữa. Hưu trí là tên gọi chỉ chung cho những người đã về hưu hoặc nghỉ
hưu theo chế độ và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Hưu trí thường là
người già, người có thâm niên trong công tác nhất định (ngoại trừ một số trường
hợp nhà nước cho nghỉ mất sức vì thực hiện các công việc nặng nhọc, độc hại…)
[43, tr.23]
Dưới góc độ pháp lý, chế độ bảo hiểm hưu trí là tổng hợp các quy phạm
pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia bảo
hiểm xã hội , khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động. [
44,Tr.181]
Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ
có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, nhà nước đã thực hiện chế độ bảo hiểm
xã hội hưu trí. Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí là chế độ dành cho
người lao động không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Vì thế mà nó rất quan
trọng và cần thiết, không thể thiếu được bởi bất cứ người lao động nào cũng sẽ đến
lúc già yếu, hết tuổi lao động nhưng vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và lương
hưu sẽ là nguồn thu nhập chính của họ trong lúc này. Được hưởng lương khi về hưu
là một trong những mục đích, động lực cơ bản để người lao động tham gia quan hệ
bảo hiểm xã hội. Bởi tiền lương hưu là phần tiền người lao động hưởng khi kết thúc
quá trình lao động. Khi người lao động còn trẻ, còn sức khỏe lao động đã tạo ra thu
nhập để nuôi sống chính họ trong quá trình lao động. Quá trình này người lao động

tích lũy khi họ tham gia vào quan hệ lao động ở các đơn vị sử dụng lao động, chủ sử

5


dụng lao động đóng nộp và chính bản thân người lao động cũng tham gia cùng đóng
nộp BHXH trong một thời gian dài. Do đó đến khi người lao động không còn khả
năng lao động nữa thì họ phải được nhận lại khoản tiền sau một thời gian dài họ
tham gia đóng góp.
1.1.2.Đặc điểm của chế độ bảo hiểm hưu trí
-Bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn, nằm ngoài quá trình lao
động
Xuất phát từ mục tiêu của chế độ hưu trí là góp phần đảm bảo thu nhập cho
người lao động khi họ không còn làm việc hưởng lương hưu nữa. Đây được coi là
đặc điểm đặc thù, khác biệt so với các chế độ bảo hiểm xã hội khác như chế độ ốm
đau, thai sản…Nếu như những chế độ này không quy định về tuổi hoặc khi được
hưởng thì mức hưởng nhỏ, thời gian ngắn hạn thì chế độ bảo hiểm hưu trí quy định
về tuổi để hưởng lương hưu và thời gian hưởng rất dài. Hưởng từ thời điểm đủ điều
kiện về thời gian đóng, tuổi nghỉ hưu theo luật định tới khi chết, ngay cả khi chết rồi
thân nhân của người về hưu vẫn được nhận một mức nhất định. Cũng vì lẽ đó mà
riêng tỉ lệ đóng cho quỹ hưu trí và tử tuất chiếm trên 2/3 số phải đóng bảo hiểm xã
hội.
Đặc điểm này thể hiện cả trong quá trình đóng và hưởng bảo hiểm xã hội
hưu trí. Người lao động tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian khá dài. Thời
gian đó liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ một trong những điều kiện để được
hưởng bảo hiểm hưu trí. Khi đã đủ các điều kiện thì người lao động sẽ được hưởng
trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc về hưu cho đến khi NLĐ chết. Quá
trình hưởng này dài ngắn bao nhiêu tùy thuộc vào tuổi thọ của từng người và những
người hưởng bảo hiểm hưu trí là những người đã kết thúc quá trình làm việc của
mình mà theo quy định được nghỉ ở nhà và hưởng lương hưu.

- Chế độ bảo hiểm hưu trí có sự tách biệt giữa người đóng và hưởng.
Đây là một chế độ nằm ngoài quá trình lao động, cho nên để được hưởng
chế độ hưu trí khi về hưu thì NLĐ phải tham gia đóng phí trong quá trình lao động
của mình. Trong suốt quá trình lao động, số tiền người lao động đóng góp vào quỹ
bảo hiểm hưu trí dùng để chi trả lương hưu cho thế hệ trước. Như vậy có sự kế thừa

6


giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí, qua đó thể hiện
nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm.
Nếu như các chế độ bảo hiểm xã hội khác chỉ áp dụng cho một số đối tượng
nhất định như chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chỉ áp dụng cho
những người bị tai nạn lao động hay bị bệnh nghề nghiệp, chế độ thai sản chủ yếu
áp dụng đối với lao động nữ sinh con còn chế độ hưu trí lại được áp dụng cho hầu
hết đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội khi đủ các điều kiện về thời gian tham gia
và tuổi nghỉ hưu và hưởng khi đã kết thúc quá trình lao động, kết thúc quá trình
tham gia bảo hiểm xã hội. Đối với người lao động tiền lương hưu mà họ nhận được
là kết quả tích lũy trong suốt quá trình làm việc thông qua việc đóng vào quỹ bảo
hiểm xã hội. Khi người lao động tham gia vào quan hệ lao động, cùng với việc bỏ ra
sức lực và trí tuệ để tạo ra của cải vật chất, người lao động cũng phải bỏ ra một
phần, một tỉ lệ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội trong đó có quỹ hưu trí.
1.2.Ý nghĩa của bảo hiểm xã hội hưu trí.
* Đối với bản thân người lao động
Với bản chất bảo hiểm hưu trí là sự đảm bảo cuộc sống ổn định khi người lao
động hết tuổi lao động. Trong quá trình lao động tạo ra của cải vật chất để đáp ứng
nhu cầu của bản thân và góp phần vào xây dựng đất nước. Người lao động tạo ra
thu nhập để nuôi sống chính mình trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Quá trình này diễn ra trong các cơ quan, đơn vị, nhà máy, xí nghiệp hay
môi trường lao động sản xuất kinh doanh khác. Họ đã lao động, cống hiến sức lực,

trí tuệ, tuổi trẻ để tạo ra của cải vật chất cho xã hội để có nguồn thu nhập nuôi sống
bản thân. Đến một độ tuổi nhất định người lao động không còn sức khỏe để cống
hiến nữa thì họ cần phải được sự quan tâm, bù đắp ngược lại từ phía xã hội đối với
họ để đảm bảo cuộc sống ổn định. Đó là khoản tiền hưu trí người lao động được
hưởng khi trải qua quá trình tích lũy trước kia họ đóng góp trong suốt quá trình lao
động. Khoản tiền này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó là khoản thu
nhập chủ yếu và là chỗ dựa chính đáng nhằm đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn
tinh thần cho người lao động trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Có thể

7


khi về già, nhiều người lao động cũng có những khoản tích lũy, có chỗ dựa là con
cháu song phần lớn là họ trông cậy vào khoản lương hưu lĩnh thường xuyên hàng
tháng. Họ cảm thấy yên tâm mà không phải phụ thuộc vào con cháu bởi con cháu
chu cấp đôi khi không mang tính thường xuyên mà bị lệ thuộc. Vì thế chế độ bảo
hiểm hưu trí có ý nghĩa vô cùng lớn đối với tuổi già khi sức lực suy yếu, khả năng lao
động để tạo ra của cải vật chất không còn nhiều.
Với việc hàng tháng người lao động đóng một khoản tiền nhất định vào quỹ
BHXH, người lao động đã tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình làm
việc để đảm bảo cuộc sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho người
thân, gia đình và xã hội. Nói cách khác chế độ hưu trí đã góp phần nâng cao hiệu
quả trong việc chi dùng cá nhân, cân đối chi tiêu, dự phòng cho những lúc già cả,
mất sức lao động một cách chủ động và khoa học. Đây cũng là cơ hội để mọi người
trong xã hội thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những thành viên khác khi gặp
khó khăn, rủi ro làm mất hoặc giảm thu nhập.
* Đối với xã hội
Chế độ bảo hiểm hưu trí thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội, của
người sử dụng lao động đối với những người đã có quá trình lao động, đóng góp
vào sự phát triển chung của đất nước, nay hết tuổi lao động. Thể hiện tính nhân văn,

nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội dung nòng cốt của chính sách an sinh
xã hội, là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu
nhập một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho
ngân sách Nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.
Thực tế cho thấy ở các nước thực hiện tốt chính sách chế độ đối với người
nghỉ hưu đã tạo ra một cơ sở xã hội bền vững. Ngược lại ở những nước chưa thực
hiện tốt chính sách đối với người nghỉ hưu, xã hội mất ổn định, người lao động luôn
phải đối mặt với những khó khăn khi phải nghỉ việc do hết tuổi lao động mà không
có những đảm bảo cho cuộc sống phía trước. Điều này dẫn đến nguy cơ mất ổn định
về chính trị và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phát triển của nền kinh tế.

8


1.3.Nội dung quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội hưu trí
1.3.1.Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.3.1.1.Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng
* Đối tượng hưởng chế độ hưu trí
Tại điều 53 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định đối tượng áp dụng
chế độ hưu trí là:
Người lao động là công dân Việt Nam tham gia BHXH bắt buộc theo quy
định tại Nghị định này, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao
động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật
của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3
tháng;
`


c) Cán bộ công chức viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công

chức viên chức;
d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu;
đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm
công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được
hưởng sinh hoạt phí;
g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người
lao động Việt Nam đi làm iệc ở nước ngoài theo hợp đồng;
h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương;

9


e) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn;
Với quy định trên đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí cũng tương đồng
đối với đối tượng tham gia BHXH. Bởi khi đã tham gia vào quan hệ BHXH thì
cũng sẽ là đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí, thể hiện nguyên tắc có đóng có
hưởng.
* Điều kiện hưởng lương hưu
Theo quy định tại điều 54 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định:
1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2
của Luật bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ
việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu

thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;
b) Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ
15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7
trở lên;
c) Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo
hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong
hầm lò;
d) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
2. Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật
này nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu
khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi, trừ trường hợp Luật sĩ quan quân đội nhân
dân Việt Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu có quy định khác;
b) Nam từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi và có đủ
15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã

10


hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7
trở lên;
c) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
3. Lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở
xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến
dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi thì được hưởng lương hưu.
Điều 54 của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 được hướng dẫn cụ thể tại Điều

15 Thông tư số 59/2015/BLĐTB&XH hướng dẫn luật Bảo hiểm xã hội, điều kiện
chung để được hưởng chế độ hưu trí là:
Đối với lao động nam đủ 60 tuổi, lao động nữ đủ 55 tuổi và có 20 năm đóng
bảo hiểm xã hội trở lên. Trong một số trường hợp nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi,
nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh
mục do Bộ lao động-Thương binh và xã hội, Bộ y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm
làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Người lao động từ đủ 50 tuổi
đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15
năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;
Riêng về điều kiện đối với lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc
không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc
mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi thì được
hưởng lương hưu. Đây là điểm hoàn toàn mới so với các quy trịnh trước kia về chế
độ bảo hiểm hưu trí.
Quy định này của pháp luật về cơ bản đã phù hợp với thực tế và tương đồng
với pháp luật của một số nước trên thế giới. Hầu hết người lao động ở khu vực sản
xuất kinh doanh và người lao động làm những công việc nặng nhọc độc hại cho
rằng tuổi nghỉ hưu theo quy định hiện hành là phù hợp với họ. Tuy nhiên trên thực
tế hiện nay cho thấy ở một số ngành thuộc khu vực hành chính sự nghiệp như
nghiên cứu khoa học, quản lý nhà nước, người lao động (đặc biệt là lao động nữ)
vẫn đủ sức khỏe để làm việc. Ở mức tuổi đó sau nhiều năm nghiên cứu, làm việc, cọ

11


sát với công việc thực tế, người lao động tích lũy, phát huy được kinh nghiệm đã
có cho công việc. Một số trong số đó sau khi về hưu vẫn tiếp tục đi làm, vừa
hưởng lương theo hợp đồng, vừa hưởng bảo hiểm hưu trí. Đó có thể là vấn đề cần
được xem xét trong thời gian tới để có quy định phù hợp hơn, đáp ứng được nhu

cầu của đa số người lao động, tránh lãng phí sức lao động và bội chi quỹ bảo hiểm.
Trong trường hợp người lao động đã đủ điều kiện về tuổi hưởng lương hưu
mà thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thiếu tối đa 06 tháng thì người lao
động được lựa chọn đóng một lần cho số tháng còn thiếu với mức đóng hằng tháng
bằng tổng mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động theo mức tiền
lương tháng đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ việc vào quỹ hưu trí và tử tuất để
hưởng lương hưu. Người lao động được hưởng lương hưu tại tháng đủ điều kiện về
tuổi hưởng lương hưu và đã đóng đủ bảo hiểm xã hội cho số tháng còn thiếu.
Trong trường hợp bình thường, khi hết tuổi lao động (nam 60 tuổi, nữ 55
tuổi; trong một số trường hợp là nam 55 tuổi, nữ 50 tuổi) và có thời gian đóng bảo
hiểm xã hội từ đủ 20 năm trở lên người lao động sẽ được hưởng chế độ hưu trí hàng
tháng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vì nhiều lý do khác nhau ( như ốm đau, bệnh tật,
tai nạn lao động) làm người lao động bị suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao
động khiến họ khó có thể tiếp tục tham gia được quan hệ lao động nữa, cần phải
nghỉ việc trước tuổi. Trong những trường hợp đó tuy chưa đủ tuổi về hưu theo quy
định nhưng nếu đảm bảo một số điều kiện, người lao động cũng vẫn được hưởng
chế độ hưu trí hàng tháng song mức lương hưu háng tháng của họ bao giờ cũng thấp
hơn so với những người nghỉ hưu đúng tuổi.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, người lao động nếu thuộc một
trong các trường hợp sau đây sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng với mức
lương thấp hơn. Theo điều 55 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 thì điều kiện hưởng
lương hưu khi suy giảm khả năng lao động là:
Từ ngày 1/1/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng
lao động. Sau đó cứ mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ

12


55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả

năng lao động từ 61% trở lên;
Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động 81% trở
lên;
Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm
nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ y tế ban hành.
Người lao động là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân
dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan,
chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời
hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí.
Khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, bị suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều
kiện hưởng lương hưu quy định đó là: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; Nam từ đủ
55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề
hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban
hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a,Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi trở lên;
b,Có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ y tế ban hành.
Như vậy, Nhà nước đã quy định mức hưu trí thấp cho những người lao động
vì họ chưa đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định chung và mất tới 61% sức lao động, rất
khó có thể làm việc một cách bình thường; nếu có thời gian đóng bảo hiểm ở mức
luật định, đủ để cân đối quỹ kết hợp với khả năng tương trợ cộng đồng thì có thể
đảm bảo cho đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí hàng tháng

13



Đơn cử như quy định về tuổi đời, đây là một trong những điều kiện bắt
buộc để người lao động nghỉ hưu. Theo quy định hiện tại của Luật BHXH năm
2014, tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi. Đối với một số trường
hợp khác và bị giảm trừ tỉ lệ hưởng thì đối với nam hiện tại là 52 tuổi, đối với nữ là
47 tuổi và phải có thêm giám định mất khả năng lao động 61%. Các quy định đối
với nữ giới đều là nghỉ hưu trước nam giới 5 tuổi, và cách tính thêm mỗi năm đóng
BHXH là 2% đối với nam và 3% đối với nữ. Nếu quy định như thế thì tạm ổn đối
với nữ và có phần ưu việt, ưu tiên hơn cho giới nữ. Nhưng bắt đầu từ năm 2018, cả
nữ và nam thêm mỗi năm đóng BHXH thì đều cộng thêm tỉ lệ 2%. Đối với lao
động nữ ít nhất phải có 30 năm công tác mới được hưởng mức tối đa là 75%. Còn
nam giới thì có lộ trình. Trong khi đó việc quy định độ tuổi của nữ trong mọi
trường hợp đều kém hơn nam giới 5 tuổi nghỉ hưu. Đây cũng là khó khăn vướng
mắc trong việc giải quyết chế độ hưu trí từ khi luật BHXH năm 2014 có hiệu lực,
đặc biệt cụ thể năm 2017, đã có rất nhiều lao động nữ đề nghị về hưu trước tuổi để
được cộng thêm tỉ lệ thêm mỗi năm đóng BHXH là 3%.
Với quy định đối với nữ như hiện tại và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2018 mà
không có lộ trình đối với nữ như đối với nam thì thực chất là sự thiệt thòi về mức
hưởng đối với nữ bởi mức hưởng lương hưu thấp hơn so với nam giới do về trước
nam giới 5 năm. Trong khi đó chưa có công trình khoa học nào chứng minh rằng
sức khỏe của nam giới ở độ tuổi nghỉ hưu khỏe hơn nữ giới. Ngoài ra phụ nữ lại có
sự bền bỉ hơn nam giới, công việc đạt hiệu quả cũng không kém gì so với nam, nhất
là những người làm việc trong khối cơ quan Nhà nước. Hơn nữa tuổi nghỉ hưu sớm
hơn mong muốn thật sự khó khăn đối với phụ nữ là những người có mức hưu thấp
hơn những đồng sự nam giới khác do trước đó thu nhập thấp hơn vì giai đoạn tham
gia BHXH ngắn hơn. Chính lẽ đó kéo theo thời gian hưởng lương hưu của nữ dài
hơn. Ở nước ta hiện nay, trung bình phụ nữ hưởng lương hưu là 28 năm với thời
gian đóng BHXH là 29 năm. Trong khi đó, nam giới đóng trung bình 32 năm và
được hưởng khoảng 25 năm. Mặt khác tuổi thọ của nữ giới cao hơn nam giới dẫn
đến việc thời gian đóng ít, hưởng nhiều.


14


Mức độ suy giảm khả năng lao động để được hưởng chế độ hưu trí
Mặc dù từ 1/1/2016 có tính đến lộ trình khi người lao động bị suy giảm 61%
trở lên sẽ được hưởng chế độ hưu trí mà cụ thể là: năm 2016 thì nữ 46 nam 51 tuổi
và cứ mỗi năm tăng lên 1 tuổi, đến khi nào nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì
không tăng số tuổi lên nữa. Mặc dù đã có lộ trình rõ nhưng vẫn không phù hợp bởi
những người lao động này đang trong độ tuổi có nhiều kinh nghiệm để đạt hiệu quả
cao, khả năng đóng góp cho xã hội vẫn còn khá lớn. Một số lao động sau khi hưởng
chế độ hưu trí vẫn đi làm thêm bên ngoài rất nhiều và ở vị trí tư vấn hoặc làm trực
tiếp. Nhưng về cơ bản vẫn làm lãng phí sức lao động hoặc phần đóng góp tạo ra của
cải vật chất, tinh thần. Bên cạnh đó với việc về hưu trước tuổi cũng làm lãng phí
một phần tiền không nhỏ của quỹ BHXH phải chi trả tiền lương hưu cho những
người hưởng hưu sớm. Trên thực tế những người này vẫn tham gia vào một quan hệ
lao động nào đó để tiếp tục làm việc và không phải đóng BHXH. Hơn nữa sự ưu đãi
này cũng bị lạm dụng rất nhiều do sự kê khai không đúng sự thật, sự thông đồng
giữa đương sự và cơ quan giám định để xác định sai tỷ lệ suy giảm khả năng lao
động để trục lợi cho bản thân.
* Mức hưởng
Mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng được tính trên cơ sở thời gian đóng
BHXH và mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH. Nguyên tắc
này được thực hiện từ khi có Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993, khác hẳn với cách
tính mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng trước đó, chủ yếu trên cơ sở thời gian
công tác của người lao động và mức tiền lương của người lao động trước khi nghỉ
việc. Có sự thay đổi này bởi trước năm 1993, quỹ bảo hiểm thực chất là do ngân
sách nhà nước tài trợ. Chỉ có người lao động là công nhân viên chức làm việc theo
hình thức tuyển dụng vào biên chế của Nhà nước được tham gia bảo hiểm và họ
không phải đóng góp bất kỳ một khoản nào vào quỹ bảo hiểm xã hội. Điều đó

không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường nên từ năm 1993, chế độ hưu trí được
áp dụng cho cả những đối tượng là lao động hợp đồng làm việc trong các thành
phần kinh tế khác nhau. Người lao động và người sử dụng lao động đều có trách

15


nhiệm đóng góp và đó là nguồn cơ bản hình thành quỹ bảo hiểm xã hội. Vì vậy,
mức hưởng bảo hiểm phải được tính dựa trên cơ sở sự đóng góp của chính bản thân
người lao động thông qua mức tiền công và thời gian đóng bảo hiểm. Tuy nhiên,
theo pháp luật hiện hành, mức hưởng bảo hiểm cao nhất bằng 75% mức bình quân
tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm. Điều 56 Luật BHXH năm 2014 có quy
định:
Từ ngày Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực thi hành cho đến trước
ngày 1/1/2018, mức lương hưu hàng tháng của người lao động đủ điều kiện quy
định tại Điều 54 của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng 45% mức bình quân tiền
lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật bảo hiểm xã hội
tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối
với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
Từ ngày 1/1/2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều
kiện quy định tại điều 54 của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng 45% mức bình
quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật bảo
hiểm xã hội và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội như sau:
a,Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm,
năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm;
b,Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm. Sau đó cứ thêm mỗi
năm, người lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản này được tính thêm 2%;
mức tối đa bằng 75%.
Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại
Điều 55 của Luật bảo hiểm xã hội được tính như quy định tại khoản 1 và khoản 2

Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%.
Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là
1%, từ trên 6 tháng thì không giảm tỉ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi.
Mức lương hưu hằng tháng của người lao động nữ đủ điều kiện hưởng lương
hưu theo quy định tại khoản 3 điều 54 được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội
và mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội như sau: đủ 15 năm đóng

16


bảo hiểm xã hội tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã
hội quy định tại Điều 62 của Luật bảo hiểm xã hội. Từ đủ 16 năm đến dưới 20 năm
đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm đóng tính thêm 2%.
Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất của người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 và Điều 55
của Luật bảo hiểm xã hội bằng mức lương cơ sở, trừ trường hợp quy định tại điểm I
khoản 1 điều 2 và khoản 3 điều 54 của Luật bảo hiểm xã hội.
Pháp luật quy định mức lương hưu hàng tháng tối đa của người lao động chỉ
bằng 75% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
không được cao hơn mức tiền lương khi người lao động đang làm việc nhưng cũng
không được thấp hơn mức trợ cấp bảo hiểm tối thiểu. Thực tế, trước đây đã có thời
gian chúng ta quy định mức lương hưu hàng tháng tối đa lên đến 95% mức tiền
lương của người lao động trước khi nghỉ hưu (Nghị định số 236/HĐBTngày
18/9/1985). Đó là biểu hiện của sự bình quân trong phân phối thu nhập của Nhà
nước trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Tuy nhiên, tỷ lệ tiền
lương hưu tương đối cao này cũng mới chỉ tính trên phần tiền lương bằng tiền,
không tính hết phần lương được cấp bằng hiện vật. Còn tiền lương hưu hiện nay tuy
có quy định tối đa không quá 75% lương bình quân nhưng đó lại là khoản tiền
lương đã được tiền tệ hóa cơ bản.
Tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bao gồm mức lương cấp

bậc, chức vụ, hợp đồng, phụ cấp chức vụ, thâm niên chức vụ bầu cử, hệ số chênh
lệch bảo lưu…nếu có. Cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng
bảo hiểm xã hội đã được quy định khá rõ nét, có phân biệt đối tượng đóng bảo hiểm
xã hội ở các thời điểm khác nhau để thực hiện lộ trình hợp lý khi chuyển đổi chính
sách.
Mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng trong trường hợp này cũng được
tính dựa trên mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và thời gian đóng
bảo hiểm xã hội. Vì vậy, cách tính lương hưu trong trường hợp này cũng tương tự
như trường hợp nghỉ hưu đúng tuổi. Song vì những người lao động này nghỉ hưu

17


trước tuổi nên cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi giảm đi 1% mức bình quân của tiền
lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Và từ ngày 1/1/2018 cứ mỗi năm
nghỉ hưu trước tuổi giảm đi 2% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ
đóng bảo hiểm xã hội.
Với cách tính lương hưu như hiện nay, mức lương hưu hàng tháng tối đa của
người lao động bằng 75% mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo
hiểm xã hội. Mức này chỉ tương ứng với mức hưởng của lao động nữ có 25 năm
đóng bảo hiểm xã hội và lao động nam có 30 năm đóng bảo hiểm xã hội.
Nhưng theo Luật bảo hiểm xã hội hiện hành, từ ngày 1/1/2018 cách tính
lương hưu hàng tháng tối đa của người lao động bằng 75% mức bình quân tiền
lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Mức này tương ứng với thời gian
đóng của lao động nữ phải có 30 năm đóng bảo hiểm xã hội và lao động nam có
31năm đóng bảo hiểm xã hội, vào năm 2019 là 32 năm, năm 2020 là 33 năm, năm
2021 là 34 năm, năm 2022 là 35 năm. Với quy định này đối với nam về hưu trong
điều kiện nào cũng lệch hơn nữ 5 năm thì điều kiện về thời gian tham gia bảo hiểm
xã hội vẫn được đảm bảo hơn nữa điều kiện về số năm đóng bảo hiểm xã hội đối
với nam giới có lộ trình từ năm 2018 đến năm 2022. Nhưng đối với nữ, không có lộ

trình tăng số năm đóng bảo hiểm xã hội, điều này là khá thiệt thòi đối với lao động
nữ và không đảm bảo được nguyên tắc phân phối theo lao động, theo mức đóng
góp.
Người lao động nghỉ việc tuy chưa đủ tuổi nghỉ hưu nhưng đã có đủ 20 năm
đóng bảo hiểm xã hội thì có thể chờ đến khi đủ tuổi nghỉ hưu để hưởng chế độ hưu
trí hàng tháng hoặc bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để khi có điều kiện thì
tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội. Trong thời gian nghỉ chờ, nếu người lao động lại tiếp
tục tham gia quan hệ lao động và đóng bảo hiểm xã hội thì thời gian đóng bảo hiểm
xã hội này được cộng với thời gian đóng bảo hiểm xã hội bảo lưu trước đó để tính
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Trường hợp chưa được giải quyết chế độ hưu trí mà
bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì được giải quyết chế độ hưu trí
theo quy định của pháp luật hoặc nếu chết thì gia đình được hưởng chế độ tử tuất.

18


×