Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng ở Ngân hàng thương mại Kĩ Thương Việt Nam chi nhánh Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.51 KB, 95 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

1

Khoa Ngân hàng Tài

MỤC LỤC
DANH

MỤC TỪ
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phấn
VIẾT
TẮT
KH
Khách hàng
DANH
MỤC SƠ
CVTD
Cho vay tiêu dùng
QTRR
Quản trị rủi ro
ĐỒ,
BẢNG,
UB
Ủy ban
BIỂU
TS
Tài sản


NHNN
Ngân hàng nhà nước
I..............................................................................................................................
32
CNTT
Công nghệ thông tin

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

2

Khoa Ngân hàng Tài

DANH MỤC SƠ ĐỜ BẢNG BIỂU
Trang
Sơ đơ
Sơ đờ 2.1: Sơ đờ tở chức chi nhánh Thăng Long………………………
Sơ đồ 2.2: Quy trình cho vay tiêu dùng…………………………………
Bảng
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh Thăng Long.................
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn phân theo thời gian tại chi nhánh.........

Bảng 2.3: Phân loại nợ chi nhánh Thăng Long…………………………..
Bảng 2.4: Tình hình kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh Thăng Long......
Bảng 2.5: Hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh Thăng Long……
Bảng 2.6: Kết quả kinh doanh của chi nhánh Thăng Long…………….
Bảng 2.7: Tình hình hoạt động CVTD tại chi nhánh Thăng Long............
Bảng 2.8: Cơ cấu CVTD theo mục đích vay vốn......................................
Bảng 2.9: Doanh số cho vay tiêu dùng xét theo kì hạn của khoản vay.....
Bảng 2.10: Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay .
Bảng 2.11: Tỷ trọng thu lãi CVTD trên tổng thu lãi hoạt động cho vay ..
Bảng 2.12: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ CVTD …………………...
Biểu
Biểu đồ 2.1: Doanh thu cho vay và thu nợ của chi nhánh Thăng Long…
Biểu đồ 2.2: Doanh số và dư nợ cho vay tiêu……………………………
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu CVTD theo mục đích sử dụng vốn …..……………
Biểu đồ 2.4: Dư nợ CVTD trong tổng dư nợ cho vay........………………

Trần Thị Nga
48B

31
46
33
35
36
37
37
38
54
55
56

57
59
60
36
52
54
59

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

3

Khoa Ngân hàng Tài

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Từ sau đổi mới hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại nước ta đã
có được bước phát triển đáng kể, trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh
tế. Nhưng có thể dễ dàng nhận thấy sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa những tổ
chức tham gia trong lĩnh vực Tài chính Ngân hàng. Trước tình hình đó, các Ngân
hàng thương mại đã cố gắng tìm ra những hướng đi mới để nâng cao hiệu quả hoạt
động và khẳng định vị thế của mình. “Ngân hàng bán lẻ” là một trong những hoạt
động đang được đông đảo các Ngân hàng thương mại hướng tới. Đây là một hướng
đi được các nước phát triển áp dụng từ lâu nhưng còn khá mới mẻ ở Việt Nam.Bởi
lẽ chúng ta luôn có suy nghĩ Ngân hàng thươmg mại là kênh huy động vốn chủ yếu
phục vụ cho doanh nghiệp. Chỉ trong vài năm trở lại đây, việc cung cấp các sản

phẩm tín dụng bán lẻ mới thực sự được các Ngân hàng thương mại chú trọng tới
sau khi nhận ra những lợi nhuận rất lớn có thể sẽ thu được từ hoạt động này.
Tuy nhiên trong điều kiện vật chất cũng như công nghệ ngân hàng của nước
ta hiện nay, không nên thực hiện một cách ồ ạt hoạt động bán lẻ tại các Ngân hàng
thương mại. Muốn có được bước phát triển bền vững và lâu dài, các Ngân hàng
thương mại trước hết nên tập trung vào hoạt động mang tính bước đệm, phù hợp
với những điều kiện hiện có. Cho vay tiêu dùng là một trong số các hoạt động đang
được chú trọng để nhằm vào mục tiêu như vậy.
Để có được hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh tốt trên thị trường, hoạt
động cho vay tiêu dùng phải thực sự là một hoạt động có chất lượng cao, đóng góp
đáng kể cho Ngân hàng thương mại trong quá trình hướng tới một Ngân hàng bán
lẻ hiện đại và quy mô.
Trong thời gian thực tập tại Techcombank chi nhánh Thăng Long, em có cơ
hội được tìm hiểu hoạt động cho vay tiêu dùng và thấy đây là một hoạt động đang
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

4

Khoa Ngân hàng Tài

được chi nhánh rất quan tâm phát triển. Tiềm năng phát triển mặc dù rất lớn, song
cũng không ít khó khăn, hạn chế trong việc đưa tín dụng tiêu dùng trở thành một
trong số những sản phẩm tín dụng trọng tâm và có chất lượng cao tại chi nhánh.

Chính vì vậy em đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động cho
vay tiêu dùng ở Ngân hàng thương mại Kĩ Thương Việt Nam chi nhánh Thăng
Long” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản liên quan tới hoạt động cho vay tiêu
dùng, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các Ngân
hàng thương mại.
Phân tích thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại Kĩ Thương
chi nhánh Thăng Long. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nâng cao chất
lượng của hoạt động này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay tiêu dùng, chất lượng các khoản
cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại Kĩ Thương chi nhánh Thăng Long.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn hoạt động cho vay tiêu dùng tại
chi nhánh Thăng Long giai đoạn từ năm 2007 đến 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích diễn giải, so sánh
kết hợp với phương pháp thống kê, tổng hợp.
Nguồn số liệu trong chuyên đề được lấy từ Ngân hàng thương mại Kĩ
Thương chi nhánh Thăng Long.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm có:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng của các Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại Ki
Thương chi nhánh Thăng Long
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng thương mại Ki Thương chi nhánh Thăng Long.
Em xin được chân thành cảm ơn Th.S Đoàn Phương Thảo, giảng viên khoa
Ngân hàng Tài chính và các cán bộ Ngân hàng thương mại Kĩ Thương chi nhánh

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


5

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

Khoa Ngân hàng Tài

Thăng Long đã đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thiện chuyên đề này.
Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức, chuyên đề còn có nhiều thiếu sót, em
rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô giáo và những người quan
tâm tới lĩnh vực tín dụng tiêu dùng để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề của
mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1, Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, sự ra đời của hàng loạt các tổ chức tài
chính như công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty thuê mua,v.v… đã khiến cho
các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải đối mặt với vấn đề thị phần đang bị tranh
giành bởi các đối thủ rất giàu tiềm lực và nhanh nhạy trong vấn đề khai thác thị
trường. Các NHTM phải tiến hành thay đổi cơ cấu, nâng cao chất lượng hoạt động,
đa dạng hóa sản phẩm, hướng tới nhiều đối tượng khách hàng (KH), nỗ lực hết

mình để giữ vững vị thế cũng như thị phần.
Trong giai đoạn này, sự phát triển của khoa học công nghệ khiến các NHTM
thay vì bị bó hẹp trong hoạt động cho vay thương mại truyền thống, nay có thể mở
rộng thêm các hoạt động cho vay mới. Việc mở ra một số lượng lớn các chi nhánh
cũng giúp cho các NHTM tiếp cận các KH một cách dễ dàng hơn, trong đó có một
số lượng đông đảo là các KH cá nhân.
Bên cạnh đó, cuộc sống phát triển hiện đại sẽ thôi thúc nhu cầu tiêu dùng,
hưởng thụ của cá nhân và hộ gia đình. Song ngay hiện tại, thu nhập của họ chưa
thể đáp ứng hết được. Vì thế, một nhu cầu tín dụng mới được hình thành - nhu cầu
tín dụng cho những người tiêu dùng. Cung cấp tín dụng cho vay tiêu dùng (CVTD),
các NHTM đã góp phần giải quyết vấn đề nhu cầu hiện tại và thu nhập trong tương
lai cho KH. Trong khi đó, NHTM cũng cung cấp tín dụng cho nhà sản xuất, một

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

6

Khoa Ngân hàng Tài

khi đã thực hiện tốt cả tín dụng cho nhà sản xuất và tín dụng cho người tiêu dùng,
thị trường có thêm một điều kiện thuận lợi để giải quyết mối quan hệ cung cầu.
Tại Trung Quốc: Các nhà quản lý Ngân hàng Trung Quốc đã nhận thấy
CVTD chính là “tương lai” của các NHTM, chính vì thế, họ tập trung rất nhiều

nguồn lực của mình để phát triển lĩnh vực này. Thời hạn các khoản vay tiêu dùng
được nâng từ 20 lên 30 năm, giá trị các khoản vay cũng được nâng từ 70% lên
80% giá trị của tài sản đảm bảo. Một số NHTM rất nhanh nhạy trong việc tìm các
đối tác để có thể hỗ trợ cho hoạt động CVTD như các công ty chuyên về bất động
sản, công ty du lịch lữ hành, các nhà cung cấp sản phẩm tiêu dùng,v.v…
Tại Mĩ: Tín dụng tiêu dùng là một trong những nguyên nhân chính gây ra
cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và sau đó là những hậu quả khôn lường ra toàn thế
giới. Những năm gần đây, thị trường bất động sản phát triển mạnh, NHTM đã cho
vay các hợp đồng tín dụng nhà ở dưới chuẩn. Đầu năm 2008, tổng số nợ trên thẻ tín
dụng ở Mỹ lên đến gần 900 tỉ USD. Nguy hiểm hơn, các tổ chức tài chính phố Wall
còn gom các hợp đồng cho vay mua nhà này làm tài sản đảm bảo để phát hành trái
phiếu chứng khoán hóa (MBS) ra thị trường Mỹ và thế giới. Khi giá bất động sản
giảm mạnh, một số lớn hợp đồng tín dụng để đảm bảo cho MBS trở thành nợ xấu,
MBS mất giá trên thị trường thứ cấp khiến cho NHTM và các nhà đầu tư nắm giữ
trái phiếu này mất khả năng thanh toán, gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Tại Việt Nam: Hoạt động CVTD bắt đầu xuất hiện từ những năm 1934-1935
với những hình thức cho vay khá đơn điệu. Vì chưa có một hành lang pháp lí ro
ràng nên các NHTM tỏ ra khá lúng túng khi tiến hành cung cấp hình thức tín dụng
cho vay này. Khoảng 10 năm trở lại đây, hầu hết các Tổ chức tín dụng Việt Nam
đều tiến hành CVTD, nhưng thị trường này chỉ thực sự sôi động từ năm 2006 khi
có sự tham gia của các NHTM, các công ty tài chính nước ngoài. Hiện nay, nhận
thấy tiềm năng của hoạt động tín dụng tiêu dùng, các NHTM đã giành nhiều quan
tâm và coi đây là một trong những chính sách tín dụng quan trọng của mình.
Dư nợ hoạt động cho vay tiêu dùng cả nước
Dư nợ CVTD (Tỷ đồng)
Dư nợ CVTD/ Tổng dư

Năm 2007
78.644
7,57%


Năm 2008
77.245
6,02%

Năm 2009
88.064
7,58%

nợ cho vay
(Nguồn: Báo cáo của NHNN Việt Nam)

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

7

Khoa Ngân hàng Tài

Hoạt động CVTD ở nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhất là vào năm
2007. Sang năm 2008, khi lạm phát tăng cao và lãi suất biến động mạnh, các
NHTM thắt chặt hoạt động CVTD. Năm 2009, sau khi Chính phủ có chủ trương
kích cầu và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho áp dụng lãi suất thỏa thuận, thị
trường CVTD bắt đầu sôi động trở lại và hứa hẹn một cuộc cạnh tranh khốc liệt.

Tuy vậy, tín dụng tiêu dùng ở nước ta hiện bị đánh giá là kém phát triển hơn
nhiều so với các nước trên thế giới. Tính trung bình, dư nợ vay tiêu dùng của một
người dân Việt Nam chỉ ở mức khoảng 921 ngàn đồng, thấp hơn nhiều so với tiềm
năng của đất nước 86,5 triệu dân và có mức tăng trưởng kinh tế vào hàng cao trên
thế giới. Tuy nhiên, với phần lớn là dân số trẻ, thu nhập liên tục được cải thiện, nhu
cầu tiêu dùng có xu hướng tăng cao, CVTD vẫn là hoạt động có tiềm năng lớn, thu
hút sự chú ý của các NHTM trong cũng như ngoài nước.
1.2, Khái niệm cho vay tiêu dùng
Các NHTM cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự
đa dạng trong mục đích vay vốn của KH. Có nhiều cách khác nhau để phân loại các
hình thức cho vay này. Chẳng hạn như tại Mĩ, căn cứ vào mục đích sử dụng, các
khoản vay được phân chia thành bẩy nhóm chính là: cho vay kinh doanh bất động
sản, cho vay đối với các tổ chức tài chính, cho vay hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, cho
vay công nghiệp và thương mại, cho vay cá nhân (hay CVTD), cho vay khác và tài
trợ thuê mua.
Có nhiều khái niệm về CVTD, song có thể hiểu một cách tổng quát nhất về
hoạt động này như sau: “CVTD được hiểu chung là hình thức cấp tín dụng, trong
đó Ngân hàng thương mại thỏa thuận để KH là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng
một khoản tiền với mục đích tiêu dùng theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi
sau một khoảng thời gian nhất định.”
Đây là một hình thức cấp tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu cầu mua,
sửa chữa nhà cửa, sắm phương tiện đi lại, du học, y tế, du lịch, giải trí,v.v…giúp
người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ trước khi có khả năng chi trả,
từ đó giúp họ cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời mang lại nhiều
ích lợi cho NHTM, nhà sản xuất cũng như cả nền kinh tế.

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

8

Khoa Ngân hàng Tài

CVTD có những đặc điểm khác biệt so với các hoạt động cho vay khác về
đối tượng vay vốn, quy mô, thời hạn, lãi suất các khoản vay, mức độ rủi ro, chi phí
cho vay,v.v…
Có thể nhận ra những đặc điểm của hoạt động CVTD như sau:
Một là, đối tượng của các khoản cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia
đình có nhu cầu tiêu dùng. Khác với đối tượng của các hình thức tín dụng truyền
thống là doanh nghiệp hay các dự án đầu tư, đối tượng của hoạt động CVTD rất
phong phú, đó là tất cả các cá nhân và hộ gia đình cá thể có nhu cầu cho tiêu dùng.
Nguồn trả nợ cho các khoản vay này thường được trích từ nguồn thu nhập thường
xuyên là tiền lương và lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác của người đi
vay (không phải là nguồn thu nhập có được từ kết quả sử dụng những khoản vay
đó). Chính vì vậy, bên cạnh yếu tố tài sản đảm bảo và năng lực tài chính thì tính ổn
định trong thu nhập của đối tượng vay tiền cũng là nhân tố rất được các NHTM chú
ý. Việc cho vay các KH có thu nhập cao sẽ mang tới cho NHTM những khoản vay
có giá trị lớn, việc thu lại gốc và lãi cũng dễ dàng hơn. Song phần đông dân số Việt
Nam là những người có thu nhập trung bình và thấp, chính họ là những người có
mong muốn cải thiện đời sống của mình hơn cả. Vì vậy, nhận thức và nghiên cứu
đúng đặc điểm của đối tượng trong hoạt động CVTD trong từng không gian nhất
định sẽ giúp NHTM có những quyết định về sản phẩm, điều kiện, quy trình cho
vay, cách đánh giá,v.v…sao cho phù hợp nhất để nâng cao chất lượng của hoạt
động CVTD.

Hai là, số lượng các món vay lớn nhưng giá trị mỗi khoản vay nhỏ. Việc
CVTD chủ yếu phục vụ cho việc mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, nhu cầu học
hành,v.v…và cũng chỉ dừng lại ở phương diện cá nhân nên các món vay này có giá
trị tương đối nhỏ. Đôi khi KH có nhu cầu vay một số lượng tiền lớn nhưng họ bị
giới hạn bởi hạn mức CVTD tại NHTM và những yêu cầu cần có của tài sản đảm
bảo nên khó lòng tiếp cận được những khoản vay này. Người Việt Nam vốn có tâm
lí e ngại khi tới NHTM vay tiền, khi muốn mua sắm đồ vật gì, họ cố gắng tiết kiệm,
giành dụm được một số tiền nhất định, số vay tại NHTM chỉ là số còn thiếu nên
thường không lớn. Tuy vậy, số lượng lớn các cá nhân cùng với nhu cầu vô cùng
phong phú của họ đã tạo ra một lượng KH rất đông đảo cho các NHTM. Tại
NHTM, các nhân viên phải quản lí kho hồ sơ CVTD có số lượng rất lớn. Mặc dù
tốn nhiều thời gian, công sức cũng như phải huy động thêm nhân viên để quản lí,
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

9

Khoa Ngân hàng Tài

song điều đó phần nào giúp được NHTM giảm thiểu rủi ro do đa dạng hóa được đối
tượng KH vay tiền.
Ba là, các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao. KH của hoạt động
CVTD là những đối tượng cá nhân có thu nhập khác nhau và khó thẩm định năng
lực tài chính thực sự của họ. Không phải địa phương nào cũng có một trung tâm

chuyên cung cấp thông tin về năng lực tài chính của tất cả các cá nhân trong khu
vực, vì thế việc đánh giá khả năng tài chính thực sự của KH phụ thuộc rất nhiều
vào trình độ chuyên môn của nhân viên thẩm định. KH tới vay tiêu dùng tại các
NHTM với kì vọng rằng thu nhập trong tương lai cao và ổn định, phần tiết kiệm
sau khi chi tiêu hàng tháng có thể dần chi trả hết được cho khoản vay. Tuy vậy, có
rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới thu nhập của họ, chẳng hạn như suy thoái
kinh tế, công ty phá sản, tai nạn bất ngờ,v.v...đó là những rủi ro khách quan mà
NHTM cũng như chính KH không thể lường trước được. Bên cạnh đó, có những
rủi ro chủ quan mang tới từ phía KH mà NHTM không thể thẩm định được hết như
KH vay vốn tiêu dùng tại NHTM để mua bán chứng khoán, đầu tư bất động sản và
dùng chính tài sản này để thế chấp vay tiền tại một NHTM khác. Liên quan tới vấn
đề này, NHNN đã từng cảnh báo việc xin vay tiền tiêu dùng để đổ vào thị trường
chứng khoán và bất động sản sẽ gây ra vòng luẩn quẩn rất tổn hại cho các NHTM,
gây ra tình trạng tăng trưởng ảo cho các thị trường.
Để giảm thiểu được những rủi ro có thể xảy ra, các NHTM thường yêu cầu
KH vay tiền phải có tài sản đảm bảo. Theo Fredric S.Mishkin trong cuốn Tiền tệ
Ngân hàng và thị trường tài chính, “Tài sản đảm bảo hay vật thế chấp là vật sở hữu
được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Nếu người vay không trả được
khoản nợ vay, Ngân hàng có thể bán vật thế chấp và dùng tiền thu được để bù đắp
các tổn thất của mình do món cho vay đó gây ra”. Trên thế giới, vật thế chấp cũng
có một dạng riêng gọi là số dư bù, nhưng ở Việt Nam hình thức này chưa được sử
dụng nhiều. Số dư bù là hình thức mà KH sau khi nhận được khoản vay phải giữ lại
một số vốn tối thiểu bắt buộc trong tài khoản séc tại NHTM cho vay.
Tuy vậy, hiện nay có một hình thức CVTD không cần phải có tài sản đảm
bảo, đó là hình thức cho vay bằng tín chấp, mặc dù rủi ro cao song do cạnh tranh
nên các NHTM vẫn cho vay nhiều theo hình thức này. Vay tín chấp không yêu cầu
KH phải có tài sản đảm bảo, mà chỉ có sự bảo lãnh của các cơ quan đoàn thể nơi họ
làm việc. Để tránh được những rủi ro có thể gặp phải trong hình thức cho vay này,
Trần Thị Nga
48B


Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

10

Khoa Ngân hàng Tài

các NHTM đưa ra rất nhiều quy định để kiểm soát như tăng cường thẩm định KH,
thời hạn khoản vay chỉ được kéo dài từ 24 tới 60 tháng hoặc thấp hơn. Song trái lại,
các NHTM cũng đưa ra những điều khoản hấp dẫn để thu hút KH và tăng khả năng
cạnh tranh như tăng hạn mức cho vay, giảm điều kiện thu nhập tối thiểu để xét
duyệt cho vay,v.v...Điều đó, sẽ tạo ra những khe hở có thể tạo nên rủi ro cho hoạt
động vay tín chấp tại NHTM.
Bốn là, các khoản cho vay tiêu dùng thường có chi phí cao. Xét trên cả
phương diện của NHTM cũng như KH, chi phí của các khoản vay tiêu dùng là rất
cao. Đối với KH, vay tiêu dùng có chi phí cao bởi lẽ lãi suất của nó rất cao và cứng
nhắc. Thông thường, lãi suất đầu vào và đầu ra CVTD phải chênh lệch ít nhất từ
3,5- 4,5% thì NHTM mới bắt đầu có lãi. Ở nước ta hiện nay, CVTD là một trong
những hình thức cho vay có lãi suất cao nhất tại NHTM mặc dù các khoản vay này
không nhằm mục đích sinh lợi. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các
NHTM, lãi suất CVTD có xu hướng giảm đi đáng kể song vẫn còn khá cao so với
mặt bằng chung của hoạt động cho vay trong nước.
Về phía NHTM, các đối tượng KH tới vay tiêu dùng rất lớn, lại trải rộng
trong nhiều địa bàn, thông tin về nhân thân, lai lịch, tình hình tài chính của KH
thường không đầy đủ và khó thu thập khiến cho các nhân viên tín dụng phải mất
nhiều thời gian và chi phí hơn trong việc thẩm định thông tin của cá nhân vay tiền.

Với một hoạt động cho vay chứa đựng nhiều rủi ro như CVTD thì chi phí cao cũng
là điều phù hợp với mối quan hệ lợi nhuận, chi phí và rủi ro. Song nếu có thể giảm
thiểu được chi phí thì các NHTM có thể tăng được doanh số cho vay một cách dễ
dàng hơn.
Năm là, cho vay tiêu dùng mang lại những khoản lợi nhuận lớn cho các
NHTM. Với mức lãi suất cao, số lượng các khoản cho vay cực lớn, tiền lãi thu
được định kì từ hoạt động này đã mang lại những khoản lợi nhuận rất lớn cho
NHTM. Ở nước nào có hoạt động tiêu dùng của dân cư càng phát triển thì vai trò
của CVTD trong hoạt động tín dụng tại NHTM càng trở nên quan trọng. Tại những
nước phát triển, đóng góp từ hoạt động này vào tổng thu nhập từ tín dụng luôn
chiếm tỷ lệ tới hơn 60%. Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, khi mà tín dụng
doanh nghiệp mang lại mức sinh lợi ngày càng thấp thì trái lại, tín dụng tiêu dùng
ngày càng phát triển mạnh mẽ và mang lại nhiều khoản lợi nhuận lớn.

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

11

Khoa Ngân hàng Tài

Các khoản vay tiêu dùng thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm cả
phần bù rủi ro lãi suất) đến mức cả chi phí huy động lẫn những tổn thất tín dụng
phải tăng lên một cách đáng kể mới có thể làm cho các khoản tín dụng tiêu dùng

không mang lại lợi nhuận. Chính điều đó đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của
các nhà kinh doanh trong lĩnh vực tài chính. Hoạt động NHTM vốn là một hoạt
động kinh doanh rủi ro, nhưng mức độ chấp nhận rủi ro đến đâu còn phụ thuộc rất
nhiều vào khoản lợi nhuận mà nó mang lại. Thực tế, lợi nhuận có được từ các hoạt
động CVTD đã vượt xa những gì các nhà quản lí mong đợi, chính vì vậy họ sẵn
sàng chấp nhận những rủi ro lớn có thể xảy ra để theo đuổi một mức lợi nhuận kì
vọng mang lại từ hoạt động này.
Sáu là, hoạt động cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế.
Tâm lí chi tiêu của người dân thường phụ thuộc nhiều vào tình hình chung của nền
kinh tế. Trong giai đoạn kinh tế thịnh vượng, thu nhập người tiêu dùng không
ngừng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là đối với hàng hóa xa xỉ đắt tiền
sẽ tăng mạnh. Ngược lại trong tình trạng nền kinh tế suy thoái, người ta sẽ quan
tâm tới ăn no, mặc ấm hơn là ăn ngon, mặc đẹp. Trong giai đoạn phục hồi kinh tế
sau suy thoái, Chính phủ thường đưa ra các chính sách kích cầu tiêu dùng, đây là cơ
hội tốt cho hoạt động CVTD tại các NHTM. Các nhà quản trị NHTM thường dựa
vào suy đoán trước sự vận động của chu kì kinh tế để đón đầu những cơ hội đầu tư
trong lĩnh vực CVTD.
Sự khác nhau giữa cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh
Thứ nhất, đối tượng của hoạt động CVTD là các KH cá nhân hay hộ gia
đình. Trong khi đó, cho vay kinh doanh hướng tới các đối tượng là công ty, hãng
sản xuất, chủ đầu tư của dự án. Chính vì thế, số lượng các đối tượng là KH của hoạt
động CVTD đông đảo hơn nhiều so với cho vay kinh doanh, và việc đánh giá các
khoản CVTD thật không đơn giản. Lí do thứ nhất là cá nhân dễ dàng giữ kín các
thông tin đáng ra phải trình bày (như triển vọng công việc cũng như sức khỏe của
họ) hơn là các hãng kinh doanh (vì các hãng này sẽ phải gửi kèm theo đơn xin vay
mọi giấy tờ tài chính đã được kiểm toán). Hơn nữa các cá nhân và hộ gia đình
không dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài chính so với một hãng kinh doanh.
Thứ hai, CVTD nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu tiêu dùng phục vụ
cho cuộc sống, trong khi đó cho vay kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận
trong quá trình sản xuất cũng như thực hiện dự án.

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

12

Khoa Ngân hàng Tài

Thứ ba, quy mô của mỗi một khoản vay của CVTD nhỏ hơn nhiều so với
các khoản cho vay kinh doanh.
Thứ tư, các bước tiến hành trong hai quá trình này cũng có sự khác biệt lớn.
Các khoản vay tiêu dùng bắt đầu bằng việc KH tới NHTM gặp nhân viên, ghi các
thông tin cần thiết vào đơn xin vay. Việc vay kinh doanh bắt đầu bằng việc tiếp xúc
của nhân viên tín dụng với đại diện của các hãng kinh doanh. KH là cá nhân khi
vay vốn sẽ phải trả lời các câu hỏi về tiền lương, loại hình công việc, các tài khoản
ngân hàng, những tài sản khác, các khoản nợ tồn đọng, thẻ tín dụng,v.v...Khi doanh
nghiệp tới xin vay vốn kinh doanh, NHTM sẽ cử cán bộ tín dụng tới tận doanh
nghiệp, đánh giá quy mô sản xuất, các tài sản tại cơ sở kinh doanh, thu thập những
tài liệu và báo cáo tài chính về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, tài sản nợ và tài sản có
của doanh nghiệp. Các bước tiến hành sẽ có phần phức tạp hơn so với các khoản
CVTD.
1.3, Vai trò của cho vay tiêu dùng
Trên thế giới, CVTD là một hoạt động xuất hiện từ lâu, và cho tới nay, đây
vẫn là một hoạt động rất được quan tâm phát triển. Bên cạnh những hạn chế khó có
thể phủ nhận trong quá trình tồn tại và phát triển của nó như rủi ro và chi phí lớn,

CVTD cũng đã thể hiện được những vai trò hết sức to lớn đối với nhiều đối tượng
trong nền kinh tế.
1.3.1, Đối với Ngân hàng thương mại
Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi (huy động vốn) và dùng số
vốn huy động được đem kinh doanh (sử dụng vốn) để sinh lời. Các hoạt động sử
dụng vốn của NHTM rất đa dạng như: tín dụng, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ,
mua bán chứng khoán,v.v...trong số đó, cho vay là hoạt động chiếm thị phần cao
nhất, khoản mục này thông thường sẽ chiếm quá nửa tổng giá trị tài sản và tạo ra từ
1/3 tới 2/3 nguồn thu của các NHTM. Trước sự cạnh tranh gay gắt đang diễn ra trên
thị trường tài chính, những hoạt động tín dụng mang tính truyền thống như cho vay
kinh doanh, tài trợ dự án,v.v...dường như không đủ để thực hiện hết tham vọng về thị
phần, KH cũng như lợi nhuận của các NHTM. Tìm đến với hình thức tín dụng tiêu
dùng, NHTM đã tìm ra một hướng giải quyết mới trong bài toán thị trường và lợi
nhuận của mình. Những lợi ích mà hình thức tín dụng này mang lại đã được thể hiện
ngay từ thời gian đầu xuất hiện. Cho tới nay, hầu hết NHTM tại các quốc gia trên thế

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

13

Khoa Ngân hàng Tài

giới đều quan tâm và ít nhiều muốn giành một lượng vốn đầu tư vào loại hình tín

dụng này.
Những tác dụng cụ thể mà hoạt động CVTD mang lại cho NHTM là:
Thứ nhất, CVTD giúp tăng khả năng cạnh tranh của NHTM đối với các
NHTM và tổ chức tín dụng khác. Các NHTM lớn thường tập trung nhiều vào các
khoản vay giành cho doanh nghiệp và các dự án đầu tư vì chúng có quy mô lớn nên
mang lại nguồn lợi nhuận rất cao. Những NHTM này có lợi thế hơn nhiều về quy
mô nguồn vốn cũng như công nghệ so với các NHTM nhỏ. Chính vì vậy, việc các
NHTM nhỏ có thể cạnh tranh được với các NHTM lớn hơn là điều rất khó khăn. Tuy
vậy, khi tiếp cận với CVTD, các NHTM có thể tìm đến với một số lượng đông đảo
KH cá nhân trên thị trường, kiếm được khoản thu nhập lớn mà không đòi hỏi phải
có quy mô quá lớn hay công nghệ cực kì hiện đại. Chính điều đó góp phần tạo cơ
hội cho NHTM nhỏ phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong điều kiện hiện hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, có rất nhiều NHTM
liên doanh hay 100% vốn nước ngoài tham gia hoạt động tại thị trường nội địa, việc
cạnh tranh của các NHTM có quy mô nhỏ trong nước với những NHTM này là thực
sự khó khăn do kém hơn về vốn, công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lí điều
hành. Tuy vậy, hoạt động CVTD lại hướng vào đối tượng KH cá nhân cùng với
những hành động mua sắm của họ, với lợi thế là việc hiểu biết về tập tục, thói quen
sinh hoạt của người dân trong nước, các NHTM trong nước hoàn toàn có thể tăng
cường sức mạnh cạnh tranh của mình trên thị trường.
Thứ hai, CVTD cũng là một công cụ Marketing rất hữu ích, bởi lẽ đây là
cách quảng bá hình ảnh NHTM đến với công chúng một cách nhanh chóng và hiệu
quả. Một trong những hình thức xúc tiến hỗn hợp của Marketing ngân hàng chính là
các giao dịch các nhân. Đây là những giao dịch trực tiếp của nhân viên giao dịch với
KH nhằm giới thiệu và thực hiện cung ứng các dịch vụ của NHTM cho KH. Giao
dịch tốt sẽ giúp cho NHTM đạt được những mục tiêu sau: nâng cao uy tín hình ảnh
của mình, làm cho KH hiện tại chấp nhận sản phẩm dịch vụ mới, duy trì sự trung
thành của KH, thu thập thông tin thị trường,v.v...Ngoài ra, bằng việc mở rộng mạng
lưới chi nhánh, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm CVTD, số lượng KH
tìm đến với NHTM ngày càng nhiều hơn. Trong ý nghĩ của công chúng, NHTM là

tổ chức không chỉ quan tâm đến các doanh nghiệp mà NHTM còn rất quan tâm tới
những nhu cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

14

Khoa Ngân hàng Tài

đời sống của họ. Hình ảnh của NHTM sẽ tới gần hơn với người dân, từ đó, thói quen
tới ngân hàng để giao dịch vay hay gửi tiền sẽ trở nên phổ biến.
Thứ ba, CVTD tạo điều kiện mở rộng, đa dạng hoá kinh doanh, từ đó nâng
cao thu nhập và phân tán rủi ro cho NHTM.
Thu nhập của NHTM là tổng hợp của rất nhiều nguồn thu khác nhau trong
đó, CVTD mang lại nguồn thu lớn cho các NHTM. Trong đặc điểm của CVTD đã
trình bày, đây là hoạt động có lợi nhuận rất lớn do có doanh số cho vay lớn và
khoản thu nhập từ tiền lãi cũng rất đáng kể. Ở các nước phát triển, khi người dân có
nhu cầu tiêu dùng rất lớn, tín dụng tiêu dùng thường có vị trí chủ chốt trong việc
đóng góp vào thu nhập của NHTM. Khi tới vay tiêu dùng, KH rất ít để ý tới lãi suất
mà chủ yếu quan tâm tới số tiền mình phải trả hàng tháng, hàng năm là bao nhiêu.
Chính điều đó đã tạo cơ hội cho các NHTM nâng mức tỷ suất lợi nhuận mình thu
được lên rất cao. Ban đầu các NHTM không mấy để ý tới hoạt động này vì thấy
quy mô của mỗi khoản vay rất nhỏ. Nhưng tín dụng tiêu dùng đã trở thành cứu
cánh của NHTM từ thập niên 70, khi mà tín dụng doanh nghiệp bị cạnh tranh khốc

liệt bởi các công ty tài chính, các quỹ đầu tư và thị trường chứng khoán.
Vì NHTM là một loại hình kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn, song có nhiều
rủi ro nên mỗi một NHTM thường trang bị cho mình rất nhiều biện pháp để hạn chế
những rủi ro có thể xảy ra. Đa dạng hóa lĩnh vực, sản phẩm kinh doanh, đối tượng
KH là một trong những biện pháp như thế. Khi CVTD xuất hiện, các NHTM đã có
thêm một hình thức tín dụng mới bên cạnh các loại hình tín dụng truyền thống. Đối
tượng KH của CVTD là hàng triệu các cá nhân, họ việc trong nhiều lĩnh vực khác
nhau và có mức thu nhập không giống nhau. Các khoản vay này nếu có được áp
dụng những biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định KH, tăng cường tài sản đảm
bảo,v.v...sẽ là một biện pháp hạn chế rủi ro rất tốt cho các NHTM.
1.3.2, Đối với người tiêu dùng
Nhờ CVTD họ được hưởng các tiện ích của cuộc sống như sở hữu một căn
nhà to đẹp hơn, một chiếc xe đắt tiền hơn, hay để thỏa mãn ước mơ được đi du lịch,
giải trí trước khi tích lũy đủ tiền. Điều đó góp phần nâng cao mức sống cho người
dân. Khi đã có một nơi ở thoải mái, có phương tiện đi lại dễ dàng, KH có cơ hội để
tiếp cận thêm nhiều tiện ích trong cuộc sống. Các món vay tiêu dùng cũng đặc biệt
quan trọng trong các trường hợp cá nhân và gia đình có nhu cầu cấp bách để chi tiêu
cho giáo dục, y tế,v.v...Khi tiến hành vay nợ để mua sắm tiêu dùng, người tiêu dùng
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

15

Khoa Ngân hàng Tài


luôn có tâm lí muốn nhanh chóng trả được nợ để trở thành người chủ thực sự của
những vật dụng đã mua sắm, điều đó làm khích lệ việc kiếm thêm thu nhập đối với
người dân. Tuy vậy, nếu lạm dụng việc đi vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại vì nó
có thể làm cho người đi vay chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết
kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, còn rất nghiêm trọng hơn trong trường hợp mất
khả năng chi trả, người này có thể gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.
Hiện nay không chỉ có NHTM là nơi duy nhất cung cấp tín dụng tiêu dùng
mà các công ty bảo hiểm, công ty tài chính thậm chí là tiệm cầm đồ hay những nơi
chuyên cung cấp tín dụng chợ đen cũng có thể giúp cho người tiêu dùng đạt được
những nhu cầu của mình. Tuy vậy, khi vay tiêu dùng tại NHTM, lãi suất mà KH phải
trả sẽ thấp hơn, các khoản vay có độ an toàn cao hơn, và quan trọng là họ được
hưởng những tiện ích đi kèm như sử dụng thẻ tín dụng, thẻ ưu đãi mua hàng đối với
loại thẻ của NHTM có liên kết với đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ và rất nhiều
tiện ích khác.
1.3.3, Đối với nhà sản xuất
Đối với doanh nghiệp, tín dụng tiêu dùng kéo nhu cầu của người tiêu dùng
trong tương lai về hiện tại, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, đẩy nhanh mức
độ đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm tại các doanh
nghiệp để có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của KH. Chính điều này đã làm cho
toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng diễn ra nhanh chóng và
hiệu quả, đó chính là nền tảng tăng trưởng kinh tế.
Hàm cung hàng hóa là một hàm phụ thuộc vào yếu tố cầu thị trường của hàng
hóa đó. Khi CVTD thực hiện được chức năng của nó là cấp vốn cho người tiêu
dùng, thì đương nhiên nó đã góp phần làm cho cầu hàng hóa tiêu dùng phát triển.
Với nguồn tài trợ an toàn từ phía NHTM, người tiêu dùng sẽ được khích lệ nhiều
hơn trong việc mua sắm, đây thực sự là một cơ hội tốt cho các nhà sản xuất trong
việc tung ra các sản phẩm tiêu dùng để thu lợi nhuận. Đặc biệt trong giai đoạn nền
kinh tế suy thoái, thu nhập của người dân giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, người
dân thường không chú ý tới những sản phẩm tiêu dùng đắt tiền, nhưng nếu NHTM

đưa ra những khoản vay với nhiều ưu đãi thì KH sẽ có nhiều lưu tâm hơn tới các sản
phẩm của doanh nghiệp, tránh được tình trạng tồn đọng hàng hóa và thua lỗ cho
doanh nghiệp. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất được hưởng lợi từ hoạt động
CVTD mà các nhà cung ứng hàng hóa dịch vụ cũng được lợi theo. Chính vì vậy, ta
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

16

Khoa Ngân hàng Tài

thường thấy sự liên kết của NHTM đối với những đối tác là các siêu thị lớn, các nhà
hàng, trung tâm mua sắm nhằm tốt cho cả ba phía: KH, NHTM và nhà cung cấp.
1.3.4, Đối với nền kinh tế
CVTD góp phần khơi thông luồng chuyển dịch hàng hoá. Quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng
hoá không tiêu thụ được dẫn tới doanh nghiệp bị ứ đọng vốn và đương nhiên quá
trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò của NHTM lúc này trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. NHTM cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho
họ trước khi họ tích luỹ đủ số tiền cần thiết. KH có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp
mua hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, sau đó mới có khả năng thanh
toán nợ cho NHTM. Khi đã tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản
xuất và sẽ tìm tới NHTM để tiếp tục vay vốn. Như vậy, NHTM thực hiện hoạt động
CVTD sẽ có lợi cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và NHTM hay chính là có lợi

cho cả nền kinh tế.
Tóm lại, CVTD được dùng để tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ
trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Song, nếu các khoản CVTD không được dùng như vậy thì chẳng
những không kích được cầu mà nhiều khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong
nước, gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống của con người.
1.4, Phân loại cho vay tiêu dùng
1.4.1, Căn cứ vào mục đích vay tiêu dùng
1.4.1.1, Cho vay tiêu dùng bất động sản
Là khoản tín dụng tài trợ cho các nhu cầu mua, xây dựng, cải tạo nhà ở cho
KH. Các món vay này thường có quy mô lớn và thời hạn dài. Đối với các khoản
CVTD thông thường, cơ sở để NHTM quyết định có cho KH vay tiền hay không là
thu nhập tương lai của họ. Nhưng đối với các khoản vay nhằm mục đích tiêu dùng
bất động sản, tài sản đảm bảo lại là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Đối với những
vật đảm bảo có giá trị thấp, thời gian sử dụng ngắn, chất lượng kém, giá trị lại dễ bị
biến động thì KH rất khó được NHTM chấp nhận cho vay. Nhu cầu vay tiêu dùng
bất động sản có quan hệ chặt chẽ với tình hình bất động sản tại một địa bàn nhất
định. Nơi có một loạt các khu trung cư và khu nhà mới được xây dựng nên, lại có
thêm điều khoản ưu đãi trong giá cả và chính sách, thủ tục, mua nhà thì nhu cầu
tiêu dùng bất động sản sẽ tăng một cách rất nhanh.
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


17

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính


Khoa Ngân hàng Tài

1.4.1.2, Cho vay tiêu dùng thông thường
Tiêu dùng thông thường được đề cập tới ở đây là các hoạt động như mua
phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình, học hành, du lịch, dịch vụ y tế,
giải trí,v.v...Các khoản vay này có quy mô nhỏ, thời hạn ngắn, dó đó mức độ rủi ro
đối với NHTM cũng thấp hơn các khoản CVTD bất động sản.Yếu tố để xem có
quyết định cho KH vay hay không sẽ phụ thuộc vào khả năng trả nợ của KH, sau
đó có thể xét tới giá trị của tài sản đảm bảo. Các khoản CVTD thông thường xuất
phát từ những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống nên có tính ổn định hơn so với
CVTD bất động sản.
1.4.2, Căn cứ theo phương thức hoàn trả
1.4.2.1, Cho vay tiêu dùng trả góp (Installment Consumer Loan)
Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các
NHTM hiện nay. Hình thức của các khoản vay này là KH vay tiền sau đó sẽ trả cho
NHTM thành nhiều lần theo những kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay. CVTD
trả góp thường áp dụng đối với những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập của
KH không đủ để trả hết trong một lần. Hình thức này có ưu điểm là giảm thiểu rủi
ro cho NHTM vì đã sớm thu được một phần gốc vay, đồng thời có thể sử dụng số
tiền này vào các món cho vay mới. KH cũng sẽ giảm bớt được gánh nặng chi trả
dồn vào một lần khi khoản vay đáo hạn.
Số tiền thanh toán định kì Tk mà KH phải trả cho NHTM được tính theo các
phương pháp sau:
Cách1: Tính theo phương pháp lãi gộp (Add-on Method)
Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân
với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn
phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán định kỳ.
Tk =


C+I
n

Trong đó: C là tiền gốc vay NHTM
I là tổng số tiền lãi phải trả trong thời hạn vay Ngân hàng, I= C×i×n
n là số kì hạn
Lãi được tính trên cơ sở vốn gốc ban đầu cho toàn bộ thời hạn vay. Trong khi
đó, vào mỗi kỳ, người đi vay phải thanh toán vốn gốc cho nên vốn gốc ban đầu sẽ
giảm dần. Với cách tính như vậy, lãi suất được dùng để tính lãi không phải là lãi suất
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


18

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

Khoa Ngân hàng Tài

thực sự được áp dụng. Để bảo vệ quyền lợi của người vay, khi tính toán theo phương
pháp này, pháp luật các nước thường yêu cầu NHTM phải quy đổi từ lãi suất tính
toán sang lãi suất hiệu dụng và niêm yết để người vay dễ dàng cân nhắc chi phí vay
mượn mà mình sẽ phải trả cho NHTM, từ đó có quyết định lựa chọn hợp lý.
Cách 2: Tính theo lãi đơn (Simple Interest Method)
Số tiền phải trả mỗi kì bao gồm tiền gốc chia đều đặn ra các kì và tiền lãi
tính trên số dư còn lại của gốc vay.


Tk = T0 + Ik
Trong đó: To =

C
là số tiền gốc phải trả trong kì
n

Ik : Tiền lãi phải trả trong kì, được tính = Dư gốc trong kì× Lãi suất
Phương pháp này khắc phục được những hạn chế mà KH phải chịu so với
tính theo phương pháp lãi gộp. Tuy vậy, khi NHTM đưa ra lãi suất niêm yết, lãi
suất tính lãi đơn thường cao hơn so với lãi gộp, mức độ thu hút KH sẽ thấp hơn. Ví
dụ ở Việt Nam, có NHTM công bố lãi suất chỉ từ 0,8 - 0,82%/ tháng, trong khi có
NHTM lại niêm yết lãi suất tới 1,08-1,25%/ tháng. Khi không có giải thích ro ràng
sẽ dễ dàng gây hiểu lầm cho những người đến NHTM để vay tiền.
Cách 3: Tính theo phương pháp hiện giá (Present Value Method)
Các khoản trả của KH được tính thành những khoản niên kim cố định, có
tính tới yếu tố thời gian của tiền.

Tk =

(1 + i ) n
C.i
(1 + i ) n − 1

Phương pháp này tính toán có phần phức tạp song đảm bảo được tính chính
xác và công bằng vì có tính tới quy luật giá trị của tiền tệ. Các NHTM cũng rất ít áp
dụng phương pháp tính lãi này vì tính toán không hề đơn giản do số lượng các
khoản vay rất lớn, điều quan trọng là không phải KH nào vay tiền tại NHTM cũng
hiểu hết được cơ sở của cách tính này.
Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn. Nếu

tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp giá hiện hành thì
vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu và lãi
vay của kỳ hạn hiện tại (nếu có) cho NHTM. Tuy nhiên, nếu tiền trả góp được tính
bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo phương pháp gộp,
lãi được tính dựa trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được KH sử dụng cho đến lúc
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

19

Khoa Ngân hàng Tài

kết thúc hợp đồng, nếu KH trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời
hạn nợ giả định ban đầu và như vậy số tiền lãi phải trả cũng có sự thay đổi. Trong
trường hợp này, các NHTM thường áp dụng các phương pháp giống như các phương
pháp phân bổ lãi cho vay nói trên để tính ra số lãi thực sự phải thu, dựa trên thời hạn
nợ thực tế.
Nhìn chung, các khoản CVTD trả góp mang lãi suất cố định, tuy nhiên loại
lãi suất thả nổi cũng đang có xu hướng được sử dụng tới nhiều hơn, chiếm khoảng
1/4 trong số các khoản vay tiêu dùng. Hiện nay nhiều NHTM khi tiến hành cho vay
trả góp đã thực hiện thông qua một công ty tài chính thuộc sở hữu của NHTM.
Điều này đã tạo ra lợi thế rất lớn vì không hề có sự giới hạn địa lí nào với việc thiết
lập trụ sở cho công ty tài chính, trong khi đó việc NHTM mở thêm chi nhánh lại bị
hạn chế bởi những điều luật liên quan lĩnh vực hoạt động. Hơn nữa các công ty tài

chính có thể chấp nhận các khoản tín dụng cho vay có độ rủi ro cao hơn cũng như
mức lợi nhuận dự tính cao hơn so với các NHTM.
1.4.2.2, Cho vay tiêu dùng phi trả góp (Non-installment Consumer Loan)
Tiền vay được thanh toán một lần khi đáo hạn. Hình thức này thường áp
dụng cho các khoản vay có giá trị nhỏ, thời hạn không dài, vì đây là những khoản
vay ít rủi ro hơn cho NHTM và KH cũng có đủ khả năng để thanh toán hết cả gốc
lẫn lãi trong một lần. Ở phương thức này, các NHTM cũng đỡ tốn thời gian hơn so
với thu tiền thành nhiều kì. Thực tế, việc cho vay phi trả góp chỉ chiếm một tỷ trọng
rất nhỏ trong cơ cấu CVTD của các NHTM.
1.4.2.3, Cho vay tiêu dùng theo hình thức thẻ tín dụng (Revolving Consumer Credit)
Hay còn gọi là các khoản CVTD tuần hoàn. Đây là các khoản CVTD trong
đó NHTM cho phép KH sử dụng thẻ tín dụng (VISA, Mastercard) hoặc phát hành
loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Những người sở hữu thẻ tín
dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần vì họ họ có thể tính tiền mua hàng vào thẻ
tín dụng của mình. KH có thể thanh toán hết tiền trước khi hóa đơn tới NHTM, và
họ sẽ không phải chịu phí tài chính, hoặc có thể trả dần nhưng chịu mức phí tài
chính hàng tháng dựa theo lãi suất năm khoảng 12-18%.Các NHTM và công ty
phát hành thẻ tín dụng nhận ra rằng, phương pháp này mang lại cho họ nhiều lợi
nhuận hơn so với việc KH thanh toán hết trong một lần (người vay tất toán khoản
vay rất nhanh chóng khi mà lãi suất còn chưa kịp tính). Các NHTM cũng thu được
phí giảm giá (thường từ 1- 6% doanh thu bán thẻ) từ những nhà buôn, nhà cung cấp
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính


20

Khoa Ngân hàng Tài

dịch vụ chấp nhận thẻ của họ. Thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng thường
xuyên và quay vòng liên tục giúp cho KH có thể sử dụng tới bất cứ khi nào có nhu
cầu. Tuy nhiên, đôi khi thẻ tín dụng bị đánh cắp hoặc sử dụng một cách gian lận
đang có diễn biến ngày càng gia tăng khiến cho các NHTM phải thắt chặt hơn nữa
sự quản lí đối với hình thức tín dụng này.
1.4.3, Theo nguồn gốc khoản nợ
1.4.3.1, Cho vay tiêu dùng gián tiếp (Indirect Consumer Loan)
NHTM không trực tiếp kí kết hợp đồng với người tiêu dùng mà kí với nhà
cung cấp. Thực chất của hoạt động này là NHTM mua lại các khoản nợ từ phía các
doanh nghiệp bán lẻ trên cơ sở việc mua bán chịu giữa người tiêu dùng và doanh
nghiệp.
Hợp đồng ký kết giữa NHTM và nhà cung cấp quy định ro điều kiện bán
chịu như: đối tượng KH được bán chịu, loại hàng được bán chịu, số tiền được bán
chịu,v.v....Thông qua những điều kiện đó mà nhà cung cấp sẽ thoả thuận với KH
của mình về việc bán chịu hàng hoá. Phương pháp này thường áp dụng cho các
khoản vay có giá trị không lớn, người vay phân tán, ở cách xa NHTM.
Phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp
NHTM

(1)

Doanh nghiệp
bán lẻ

(3)
(4)


(2)
Người tiêu
dùng

(1). NHTM và nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán nợ. Các doanh nghiệp được
lựa chọn thường là các doanh nghiệp có uy tín và quan hệ tài chính với NHTM để
tránh rủi ro cho NHTM.
(2). Nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán chịu và giao hàng cho người tiêu
dùng.
(3). Nhà cung cấp bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho NHTM để được
thanh toán. Sau khi kiểm tra tính chính xác của hợp đồng cũng như thông tin và
khả năng tài chính người mua, NHTM sẽ thanh toán cho doanh nghiệp cung cấp.
(4). Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho NHTM
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

21

Khoa Ngân hàng Tài

Phương pháp này giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn mà
lại không lo tới rủi ro không thanh toán từ phía KH. NHTM được lợi do tiếp cận
được một số lượng lớn các KH có nhu cầu tiêu dùng cụ thể, giảm được chi phí

trong khâu tiếp cận KH (do các doanh nghiệp sẽ là người thực hiện).
Tuy vậy, do không trực tiếp tiếp xúc với KH là người tiêu dùng nên NHTM
không thể biết một cách chính xác thông tin cũng như tình trạng tài chính của
những KH này. Hơn nữa, thay vì phải thẩm định chỉ mình đối tượng vay tiền,
NHTM cũng sẽ thêm công đoạn để xử lí các khâu liên quan tới doanh nghiệp.
Trong nhiều trường hợp, do không thể kiểm soát được, NHTM có thể bị các nhà
cung cấp lừa đảo, giả mạo giấy tờ, hoặc đưa hàng chất lượng kém nhưng bán đắt để
thu tiền thanh toán từ phía NHTM.
Để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra, NHTM thường sử dụng tới các cam
kết đi kèm để áp dụng cho các nhà cung cấp. Có bốn cam kết chính thường được sử
dụng tới là:
Thứ nhất, tài trợ truy đòi toàn bộ
Doanh nghiệp bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho NHTM toàn bộ các khoản
nợ trong trường hợp người tiêu dùng không thanh toán số tiền nợ tại NHTM. Trong
trường hợp này, doanh nghiệp cũng rất thận trọng trong việc lựa chọn các hợp đồng
mua bán của mỗi một KH để quyết định kí hợp đồng với NHTM. Trong trường hợp
này, chi phí tài trợ mà doanh nghiệp phải chịu sẽ rất thấp.
Thứ hai, tài trợ truy đòi hạn chế
Khi KH không thanh toán cho NHTM, nhà cung cấp sẽ phải trả một phần
nào đấy tiền hàng cho NHTM. Số tiền này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả
năng thanh toán của KH, uy tín của doanh nghiệp bán lẻ, khả năng có thể xảy ra rủi
ro,v.v…và sẽ được thỏa thuận ngay khi NHTM và doanh nghiệp kí kết hợp đồng.
Thứ ba, tài trợ miễn truy đòi
Doanh nghiệp sẽ không chịu trách nhiệm gì cho dù người tiêu dùng không
thanh toán cho NHTM. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí tài
trợ rất cao do khả năng NHTM gặp phải rủi ro là lớn nhất trong số các phương thức
tài trợ và NHTM cũng chỉ lựa chọn các doanh nghiệp có uy tín làm đối tác tài trợ
của mình.
Thứ tư, tài trợ có mua lại


Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

22

Khoa Ngân hàng Tài

Khi thực hiện CVTD theo phương thức miễn truy đòi hoặc truy đòi hạn chế,
nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả được nợ thì NHTM sẽ thanh lý tài sản
để thu hồi nợ. Còn trong trường hợp có tài trợ thỏa thuận trước thì NHTM có thể
bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán. Giá tiền mua lại
các sản phẩm sẽ ưu ái hơn so với việc thanh lí cho các doanh nghiệp bên ngoài.
1.4.3.2, Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct Consumer Loan)
Đây là hình thức cho vay trong đó NHTM trực tiếp tiếp xúc với KH của
mình, việc thu nợ cũng được tiến hành trực tiếp bởi chính Ngân hàng. Đây được coi
là một hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, cấp cho những KH
có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Đây được đánh giá là một hình thức tài trợ rất linh hoạt do có sự đàm phán
trực tiếp giữa NHTM và KH. Mọi quyết định về cho vay như số tiền cho vay, thời
gian cho vay, tài sản đảm bảo đều do NHTM đảm nhận. Hơn nữa, khi KH quan hệ
trực tiếp với NHTM, có nhiều khả năng họ sẽ sử dụng các dịch vụ khác của NHTM
như mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ chuyển tiền,v.v....và như vậy quyền lợi
của cả hai phía NHTM và KH đều được thỏa mãn trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp
của cả hai bên.

Phương thức cho vay tiêu dùng trực tiếp
Ngân hàng

(5)

(3)

(1)

Doanh nghiệp
bán lẻ
(4)

(2)

Người tiêu
dùng
(1). NHTM và người tiêu dùng ký hợp đồng tín dụng với nhau.
(2). Người tiêu dùng trả trước nhà cung cấp một phần số tiền mua hàng hoá
(3). NHTM thanh toán số tiền còn thiếu cho nhà cung cấp.
(4). Nhà cung cấp giao hàng hoá cho người tiêu dùng.
(5). Người tiêu dùng thanh toán khoản nợ cho NHTM.
*Sự khác nhau giữa cho vay tiêu dùng trực tiếp và cho vay tiêu dùng gián tiếp

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

23

Khoa Ngân hàng Tài

Thứ nhất, nếu NHTM có quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ thì CVTD
gián tiếp sẽ mang lại độ an toàn cao hơn cho NHTM. Rủi ro trong hoạt động cho
vay này sẽ được san sẻ giữa NHTM với các doanh nghiệp bán lẻ. Đây cũng là một
trong những biện pháp được các NHTM áp dụng để giảm thiểu mức độ rủi ro có
thể xảy ra. Còn trong CVTD trực tiếp mọi rủi ro sẽ do NHTM tự gánh chịu.
Thứ hai, trong hoạt động CVTD trực tiếp, các quyết định của NHTM trong
việc có cho vay hay không đạt độ chuẩn mực cao hơn nhiều lần so với các quyết
định của nhà cung cấp. Bởi lẽ nhân viên tín dụng là những người được đào tạo
vững về chuyên môn nghiệp vụ, trong khi đối với nhà cung cấp thì những nhân
viên của họ lại mạnh về khía cạnh bán hàng hơn là thẩm định tín dụng.
Mặt khác, các nhân viên bán lẻ tại các doanh nghiệp chỉ chú trọng vào việc
làm sao bán cho được nhiều hàng hóa nên đôi khi quyết định của họ là rất vội vàng
chưa có sự thẩm định KH một cách kĩ càng, dẫn đến nhiều khoản tín dụng không
được cấp một cách chính đáng. Việc NHTM tiếp xúc trực tiếp với KH cũng tạo
điều kiện cho ngân hàng có thể xử lí linh hoạt các tình huống phức tạp có thể xảy ra
như: KH bổ sung thêm một số yêu cầu về hạn mức cho vay hay thời hạn vay, KH
yêu cầu về phương thức hoàn trả, một vài điều kiện của KH không đúng theo mẫu
quy định,v.v…Trong khi đó, với phương thức cho vay gián tiếp thì nhà cung cấp
không thể đáp ứng được hết những yêu cầu này, tức là với họ mọi quy định trong
hợp đồng phải nhất nhất tuân thủ theo.
1.5, Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay tiêu dùng
1.5.1, Nhân tố thuộc về phía Ngân hàng thương mại
1.5.1.1, Chính sách tín dụng của Ngân hàng thương mại

Chính sách tín dụng được hiểu là một tuyên bố về tiêu chuẩn đối với danh
mục tín dụng của NHTM, trong đó có hoạt động cho vay, nó hướng dẫn đội ngũ
nhân viên tín dụng các bước, các thủ tục cần phải tuân thủ theo, cũng như chỉ ro
trách nhiệm của họ, giúp NHTM hướng tới được một danh mục cho vay hiệu quả,
tăng khả năng sinh lời, hạn chế rủi ro và đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của cơ
quan quản lí. Một trong những biện pháp quan trọng nhất mà một NHTM có thể
vận dụng để đảm bảo cho các khoản vay thỏa mãn được những tiêu chuẩn do cơ
quan quản lí NHTM đặt ra đó là thiết lập một chính sách cho vay bằng văn bản.
Thông thường văn bản chính sách tín dụng có các khoản mục sau: tiêu chuẩn danh
mục cho vay của NHTM, hạn mức tín dụng, các loại hình cho vay mà NHTM thực
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

24

Khoa Ngân hàng Tài

hiện, quy định về tài sản đảm bảo, quyền hạn và trách nhiệm của từng cán bộ tín
dụng và ban thẩm định tín dụng, kỳ hạn của các khoản tín dụng, hướng giải quyết
phần tín dụng vượt quá hạn mức cho vay, cách thức thanh toán nợ,v.v…
Nếu trong chính sách tín dụng của một NHTM không quy định về CVTD thì
KH khó lòng có thể tiếp cận tới những khoản vay tiêu dùng sao cho phù hợp với
nhu cầu của mình tại NHTM đó. Ngược lại, khi CVTD là một hướng kinh doanh
đang được chú trọng, hoặc là mục tiêu để NHTM hướng tới, trong chính sách tín

dụng của họ có những điểm rất đầy đủ, ro ràng về CVTD thì đây chính là nơi những
KH có nhu cầu tiêu dùng cần tìm tới. Như vậy, doanh số cũng như chất lượng các
khoản vay tiêu dùng phần nào chịu chi phối bởi những quy định mà chính sách tín
dụng của NHTM đưa ra. NHTM nào đưa ra các sản phẩm tiêu dùng càng đa dạng,
phong phú, có mức lãi suất phù hợp với từng đối tượng KH, từng kì hạn cho vay, có
quy trình tín dụng đơn giản nhưng vẫn đảm bảo an toàn, có chính sách sản phẩm
hấp dẫn thì càng thu hút được KH đến với NHTM, tạo điều kiện cho NHTM mở
rộng hoạt động CVTD.
1.5.1.2, Uy tín, quy mô, năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại
Khi có nhu cầu vay vốn tiêu dùng, các KH luôn mong muốn tìm đến một
NHTM có thể cấp tín dụng tiêu dùng đáp ứng đủ cho nhu cầu của mình, lãi suất
thấp, thủ tục đơn giản,v.v… Nhưng trong điều kiện chưa biết được chính xác chất
lượng và cách thức làm việc của NHTM thì KH thường để ý tới quy mô và năng
lực tài chính của NHTM. Một NHTM có năng lực tài chính mạnh sẽ là một sự đảm
bảo tốt cho các khoản tín dụng ngân hàng. Năng lực tài chính của NHTM được xác
định dựa trên một số yếu tố như số lượng vốn chủ sở hữu, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận
năm sau so với năm trước, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ, số lượng tài sản
có tính thanh khoản cao,v.v…Nếu NHTM có vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ phần trăm
lợi nhuận lớn, nợ quá hạn thấp và có số lượng tài sản thanh khoản lớn, khả năng
huy động vốn lớn trong thời gian ngắn thì có thể coi là có sức mạnh về tài chính.
Khi NHTM có sức mạnh tài chính thì NHTM có thể đầu tư vào các danh mục mà
NHTM quan tâm thì hoạt động CVTD có cơ hội phát triển, nhưng ngược lại, nếu
NHTM không có được số vốn cần thiết để tài trợ cho cho các hoạt động được ưu
tiên hơn thì hoạt động CVTD sẽ ít có cơ hội để mở rộng.
Quy mô cũng là nhân tố quan trọng quyết định cấu trúc danh mục cho vay
của từng NHTM. Quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định mức cho vay
Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính

25

Khoa Ngân hàng Tài

tối đa đối với một KH. Các NHTM lớn thường là những NHTM bán buôn chủ yếu
cung cấp các khoản tín dụng có giá trị lớn cho công ty và hãng kinh doanh. Trong
khi đó, các NHTM có quy mô nhỏ thường tập trung chủ yếu vào tín dụng bán lẻ
dưới dạng cho vay cá nhân và hộ gia đình với giá trị nhỏ, cho vay trả góp, cho vay
mua nhà có thế chấp và cho vay kinh doanh đối với chủ trang trại.
1.5.1.3, Chất lượng và sự đa dạng của các sản phẩm cho vay tiêu dùng
KH luôn mong muốn có được sản phẩm chất lượng tốt, xứng đáng với
những chi phí phải bỏ ra. KH có nhu cầu và đủ điều kiện để vay tiêu dùng, nhưng
đôi khi họ ngần ngại vì chất lượng các khoản vay tín dụng của NHTM không cao.
Các khoản CVTD có mức độ chất lượng cao tới đâu là điều không thể đo lường
chính xác được. Người ta chỉ có thể cảm nhận được chất lượng dịch vụ thông qua
tính chính xác, cẩn trọng trong việc xử lí các giao dịch trong vay tiêu dùng, tốc độ
xử lí các giao dịch liên quan, tốc độ giải ngân, tính khoa học trong việc thu gốc và
lãi của KH,v.v…
NHTM nào cung cấp được một hệ thống các sản phẩm CVTD đa dạng, chất
lượng cao sẽ thu hút được một lượng lớn KH tìm đến để thực hiện giao dịch.
Ngược lại, NHTM nào có một cơ cấu sản phẩm tín dụng tiêu dùng nghèo nàn thì
chỉ có thể tiếp cận với những KH thực sự quen thuộc hoặc nhóm KH có những nhu
cầu đã được xác định cụ thể.
1.5.1.4, Đạo đức và năng lực của đội ngũ nhân viên Ngân hàng thương mại
Có người nhận xét: “Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vị trí hàng

đầu trong các nhân tố khách quan thì đạo đức cán bộ ngân hàng được xếp vào vị trí
hàng đầu tư trong các nhân tố chủ quan”. Cán bộ ngân hàng là những người trực
tiếp tiếp xúc, giải quyết giấy tờ, xem xét, quyết định để cho KH vay tiền. Nếu như
không có đạo đức nghề nghiệp, họ có thể đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể,
gây tổn hại tới NHTM. Bên cạnh đó, người cán bộ ngân hàng cần có trình độ
nghiệp vụ cao, khả năng giao tiếp, Marketing tốt, trình độ ngoại ngữ, vi tính thành
thạo,v.v…thì mới thẩm định chính xác KH, xử lí công việc nhanh chóng và đưa ra
các quyết định đúng đắn được.
Thái độ, cách giao tiếp và phong cách làm việc của nhân viên ngân hàng sẽ
cho KH sự nhìn nhận về chính NHTM đó, và quyết định xem họ có quay trở lại để
tìm cơ hội hợp tác với NHTM nữa hay không. Cán bộ ngân hàng có mối quan hệ

Trần Thị Nga
48B

Tài chính doanh nghiệp


×