Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Vai trò của kiểm toán Nhà Nước trong việc giám sát, nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.57 KB, 40 trang )

Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang xây
dựng là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lí của nhà nước và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò
quản lí của NN là giữ đúng định hướng phát triển của nền kinh tế theo mục tiêu, quan
điểm và đường lối của Đảng, phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế đến mức
thấp nhất những tác động tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự tiến bộ của nền kinh tế, chi tiêu công ngày càng có vai trò quan trọng
trong thực hiện điều tiết vĩ mô của nhà nước. Tuy nhiên, xu hướng tăng liên tục của chi
tiêu công trên thế giới cũng như ở nước ta cùng với những chỉ trích, đánh giá thấp tác
động tích cực của nó đặt ra yêu cầu phải quản lý chi tiêu công ngày càng tốt hơn. Hơn
nữa, tình trạng tham ô, tham nhũng, lãng phí Ngân sách Nhà Nước (NSNN), các sai
phạm về quản lý và sử dụng ngân sách tài sản nhà nước ngày càng lớn và khá phổ biến ở
nhiều nơi; như: công ty xuất nhập cảng Tamexco làm NSNN thất thoát khoảng 400 tỉ
đồng,vụ Epco-Minh Phụng và gần đây là vụ của ban quản lý dự án 18 (PMU18) đã làm
cho NSNN bị thất thoát hàng nghìn tỉ đồng.
Trước thực trạng như vậy, Nhà nước phải có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả cũng như giảm thiểu rủi ro trong hoạt động chi tiêu công. Một trong số các biện pháp
đó là nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan kiểm toán tối cao (còn gọi là Kiểm toán
Nhà Nước) - công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của nhà nước. Với các chức
năng cơ bản là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn, hoạt động kiểm toán Nhà Nước
(KTNN) góp phần bảo đảm minh bạch, phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính
nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng gặp nhiều khó
khăn, vai trò của KTNN trong việc giám sát, quản lý chi tiêu công ngày càng trở nên


quan trọng. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài : “Vai trò của kiểm toán Nhà Nước
trong việc giám sát, nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước” cho đề án môn
học của mình.
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
1


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

2. Kết cấu đề tài:
Nội dung bài đề án gồm có 3 nội dung chính:
Chương I: Lý luận chung về Kiểm toán Nhà Nước và vai trò của
Kiểm toán Nhà Nước trong việc giám sát nâng cao hiệu quả quản lý NSNN
Chương II: Thực trạng việc giám sát và nâng cao hiệu lực quản lý NSNN của Kiểm toán Nhà
Nước Việt Nam.
Chương III. Nhận xét và một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò của KTNN trong việc giám
sát, nâng cao hiệu quả quản lý NSNN.
3.

Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, nghiên cứu những lý luận chung về KTNN và vai trò của KTNN đối với việc giám
sát, nâng cao hiệu quả quản lý NSNN.
Thứ hai, nghiên cứu để hiểu được thực trạng hoạt động của KTNN ở Việt Nam cũng như vai
trò của KTNN đối với việc nâng cao hiệu quả chi tiêu công, sau đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá
tổng quan.
Thứ ba, trên cơ sở những nhận xét đánh giá, đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của KTNN trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nguồn NSNN.
4.

Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài được thưc hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận như
khái quát hóa,dẫn giải, tổng hợp và phân tích. Ngoài ra, em còn thu thập tài liệu về thực
trạng hoạt động ở Việt Nam, qua đó đưa ra các nhận định, đánh giá cụ thể và một số đề
xuất nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động KTNN cũng như vai trò của KTNN trong
việc giám sát, quản lý NSNN.

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
2


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

Chương I: Lý luận chung về Kiểm toán Nhà Nước và vai trò của
KTNN trong việc giám sát nâng cao hiệu quả quản lý NSNN
I . Khái quát chung về Kiểm toán Nhà nước.
1. Khái niệm về Kiểm toán Nhà Nước.
Lịch sử của nhiều nước trên thế giới cho thấy, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) ra
đời rất sớm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước pháp quyền và sự phát triển
của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và phát triển của KTNN trước hết là do yêu cầu của
việc kiểm tra, giám sát một cách độc lập từ bên ngoài (ngoại kiểm) đối với quá trình quản
lý, điều hành và sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng và sử dụng các nguồn lực tài
chính công nói chung sao cho tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất. Kiểm toán hiện diện như
một công cụ không thể thiếu được đối với bất kỳ một mô hình kinh tế nào, một hình thái
xã hội nào và không hề bị chi phối bởi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm
toán chỉ thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính
quốc gia kể từ sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm đầu của

thế kỷ XX. Vương quốc Anh, việc hoạt động kiểm toán khu vực công đã được chú trọng
từ rất lâu. Năm 1314, tư tưởng cần có hoạt động kiểm toán các khoản chi tiêu Chính phủ.
Đến năm 1959, dưới thời Nữ hoàng Elizabeth I, việc kiểm toán các khoản chi tiêu chính
thức được đi vào hoạt động, đến năm 1834, hoạt động kiểm toán khu vực công mới được
phát triển. Kiểm toán Nhà nước Canada được thành lập từ năm 1878. Kiểm toán Nhà
nước Nhật Bản tiền thân là một phòng do Bộ Tài chính thành lập vào năm 1869. Sau đó,
năm 1880 Uỷ ban Kiểm toán Nhà nước Nhật Bản chính thức được thành lập. Kiểm toán
Nhà nước Australia có tên chính thức là Cơ quan Kiểm toán Quốc gia Liên bang
Australia (ANAO). ANAO là cơ quan trực thuộc Quốc hội Liên bang Australia thành lập
năm 1901.ANAO là một cơ quan đặc biệt, thực hiện hoạt động ở khu vực công, tiến hành
nhiều loại kiểm toán phục vụ Nghị viện, cơ quan khu vực công Liên bang và các tổ chức
pháp định khác.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước ở mỗi quốc gia có những tên gọi khác nhau. Ví dụ:
Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán Liên bang
Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ;
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
3


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản; v.v.. Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ
chức các cơ quan kiểm toán tối cao của khu vực. Đồng thời các quốc gia cũng gia nhập
Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme
Audit Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 189 thành viên.
2. Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
Có thể nói, đối tượng được kiểm toán của KTNN rất rộng, phản ánh mong muốn
của KTNN và Uỷ ban kế toán công là góp phần giúp ngân sách nhà nước hoạt động có

hiệu quả và trung thực ở mức cao nhất có thể.Ngay như trong khái niệm của Kiểm toán
Nhà Nước, đối tượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là các hoạt động có liên quan
đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Theo đó, đối tượng của KTNN
có thể là các doanh nghiệp nhà nước, các chương trình dự án sử dụng nguồn NSNN, các
hoạt động thu, chi, lập dự toán NSNN. Kiểm toán Nhà Nước có thể kiểm toán một phần
hoặc toàn bộ nguồn vốn ngân sách cấp tại các doanh nghiệp hoặc KTNN tiến hành kiểm
toán các khoản chi tiêu tại địa phương do Nhà nước giải ngân và cũng có thẩm quyền đối
với các đơn vị cung cấp dịch vụ công cộng dù các đơn vị này thuộc quyền sở hữu và
quản lý của tư nhân.
3. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước.
Bên cạnh các định hướng về thiết chế và tổ chức, Tuyên bố Lima cũng đưa ra các
khuyến nghị về các hình thức kiểm toán, bao gồm việc kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm
tra nội bộ và kiểm tra từ bên ngoài. Kiểm tra trước đối với một nền tài chính lành mạnh là
cần thiết, nhưng đó không phải là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan kiểm toán tối cao.
Kiểm tra sau là hoạt động chính của cơ quan này.
Công tác kiểm toán mang tính Nhà nước cần có sự phân biệt rạch ròi giữa kiểm toán
ngoại vi (hay ngoại kiểm) và kiểm toán nội bộ (hay nội kiểm). Trong một Nhà nước pháp
quyền hiện đại, kiểm toán ngoại vi được thực hiện thông qua KTNN hay nói một cách
khác, cơ quan kiểm toán ngoại vi không nằm trong khối tổ chức các cơ quan bị kiểm tra.
Kiểm toán nội bộ được hiểu là hoạt động kiểm tra tài chính công trong phạm vi một tổ
chức, cơ quan, đơn vị và đặt dưới quyền của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị đó.
Các cơ quan, đơn vị, các tổ chức Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước có sử dụng
Kiểm toán nội bộ đều phải chịu sự kiểm tra của KTNN. KTNN có trách nhiệm đánh giá,
kiểm tra chất lượng kiểm toán và ấn định cả những chuẩn mực và quy trình kiểm toán áp
dụng cho các tổ chức Kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán ngoại vi không mang tính Nhà nước là sự kiểm toán đối với khu vực kinh tế
không phải do Nhà nước tổ chức, hoặc là những doanh nghiệp mà Nhà nước không phải
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
4



Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

là chủ sở hữu chính. Những doanh nghiệp như vậy, chịu sự kiểm toán của các tổ chức
Kiểm toán độc lập (hay còn gọi là các Công ty dịch vụ tư vấn kế toán và kiểm toán).
4. Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan kiểm toán tối cao.
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao, KTNN phải thực hiện 4
nhiệm vụ quan trọng:
Một là, KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề có liên quan
trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không chỉ vì Quốc hội là cơ quan giám
sát cơ quan hành pháp, mà còn với tư cách là cơ quan ban hành Luật NSNN và các đạo
luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính phủ, cụ thể
là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của những biện pháp đề ra.
Ba là, KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với bộ máy hành
chính Nhà nước nhằm chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng các phương tiện tài
chính của Nhà nước.
Bốn là, KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử dụng các
phương tiện tài chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
Bốn nhiệm vụ trên là biểu thị thước đo giá trị thành công của một cơ quan KTNN
với tư cách là cơ quan công quyền có chức năng kiểm tra tài chính công tối cao của NN.
Để cơ quan KTNN có thể đảm nhiệm được những chức năng, nhiệm vụ của mình
trong một Nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi 3 tiền đề cơ bản, đó là:
1. Tính độc lập của cơ quan KTNN với các cơ quan quyền lực khác của Nhà nước
phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật:
- Đảm bảo tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
- Đảm bảo quyền chủ động của cơ quan KTNN trong việc xây dựng Chương trình

kế hoạch kiểm toán, mục tiêu của mỗi cuộc kiểm toán và nội dung kiểm toán.
- Đảm bảo quyền được công khai kết quả kiểm toán trước công luận.
2. Nguyên tắc kiểm toán đầy đủ phải được thể chế hoá trong luật:
- Về nguyên tắc, cơ quan KTNN phải có thẩm quyền kiểm toán tất cả các chức năng
Nhà nước có tác động đến ngân sách, không phụ thuộc vào việc những chức năng đó
được thực hiện dưới bất cứ hình thức pháp lý nào. Nếu lĩnh vực nào đó (bí mật quốc gia)
mà không muốn kiểm toán thì cũng phải xác định rõ bằng luật và thông báo cho công
luận biết.
- Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan KTNN phải không bị hạn chế về thực chất.
Điều đó có nghĩa là, bao gồm cả việc kiểm tra tính hợp pháp, tính tuân thủ, tính kinh tế
và tính tiết kiệm của các hoạt động kinh tế nhà nước.
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
5


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

3. Phải có một tài phán độc lập để cơ quan KTNN có thể khiếu kiện khi tính độc lập
và thẩm quyền kiểm toán của mình bị xâm phạm:
- Khi tính độc lập của mình bị xâm phạm thì con đường pháp lý mở ra đối với cơ
quan KTNN là kiện lên Toà án tối cao.
- Đối với kiểm tra tài chính, khi có vướng mắc về thẩm quyền kiểm toán thì sẽ
được giải quyết thông qua các Toà hành chính.
5. Qui trình kiểm toán được thực hiện bởi KTNN
5.1. Chuẩn bị kiểm toán.
Cũng như các cuộc kiểm toán khác, cuộc kiểm toán được thực hiện bởi KTNN
cũng bao gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, giai đoạn thực hiện kiểm toán,
và giai đoạn lập và gửi báo cáo. Thông thường KTNN thường tiến hành kiểm toán căn cứ

vào quyết định kiểm toán do Quốc hội đưa ra. Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, nhóm
kiểm toán bắt đầu khảo sát, thu thập thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ, tình hình tài
chính và các thông tin có liên quan về đơn vị được kiểm toán để có những hiểu biết về
đơn vị được kiểm toán, từ cách thức tổ chức bộ máy để hoàn thành chức năng, nhiệm
vụ ... đến những thách thức mà đơn vị được kiểm toán phải đối mặt trong môi trường
hoạt động của nó. Sau đó, sẽ tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và thông tin
đã thu thập về đơn vị được kiểm toán để xác định mục tiêu, nội dung, phạm vi kiểm toán
và phương pháp kiểm toán thích hợp.Các cuộc kiểm toán hoạt động thường tập trung vào
cách thức các đơn vị được kiểm toán kiềm chế những rủi ro hay gặp phải trong hoạt động
của mình. Do vậy, các KTV cần phải có sự cân nhắc cẩn trọng khi xây dựng tiêu chuẩn
đánh giá cho từng hoạt động kiểm toán cụ thể. Kết thúc giai đoạn chuẩn bị kiểm toán,
đoàn kiểm toán cần lập ra được kế hoạch kiểm toán cũng như xây dựng được chương
trình kiểm toán cụ thể.
5.2. Thực hiện kiểm toán.
Đoàn kiểm toán phải thực hiện kiểm toán đúng đơn vị được kiểm toán, mục tiêu,
nội dung, phạm vi, địa điểm và thời hạn kiểm toán được ghi trong quyết định kiểm
toán.Các thành viên Đoàn kiểm toán áp dụng các phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ
kiểm toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán; kiểm tra, đối chiếu, xác
nhận; điều tra đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán làm cơ
sở cho các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận, và kiến nghị về nội dung được kiểm toán.
5.3.

Lập và gửi báo cáo.
Sau khi thực hiện kiểm toán, Đoàn kiểm toán dự thảo báo cáo kiểm toán. Trong
giai đoạn này, Đoàn kiểm toán cùng với đơn vị được kiểm toán xem xét lại công việc và
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
6



Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

kết quả kiểm toán. Đơn vị được kiểm toán có thể giải trình hoặc trình bày các ý kiến về
kết quả kiểm toán và các kiến nghị của Đoàn kiểm toán. Báo cáo kiểm toán hoạt động
của KTNN gửi lên Quốc hội sẽ có những nội dung chính: Nội dung kiểm toán làm rõ
những vấn đề gì, sự cần thiết khi lựa chọn những vấn đề đó, mục tiêu của cuộc kiểm toán,
những những sai phạm được phát hiện cũng như những điểm mạnh, yếu mà đơn vị kiểm
toán cần phát huy, khắc phục; đồng thời nêu bật những vấn đề cần cải tiến và nâng cao.
Đoàn kiểm toán đã kiến nghị biện pháp gì để nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị
được kiểm toán.
6. Tổ chức bộ máy KTNN.
6.1. Khái niệm tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước.
Bộ máy KTNN là hệ thống tập hợp những viên chức nhà nước để thực hiện chức
năng kiểm toán ngân sách và tài sản công. Tổ chức bộ máy KTNN bao gồm cả yếu tố con
người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng của
kiểm toán. Bộ máy KTNN được xây dựng dựa trên các nguyên tắc: Nguyên tắc thống
nhất, tập trung quyền lực và nguyên tắc tập trung, dân chủ.
6.2. Các mô hình tổ chức bộ máy KTNN.
Hiện nay, trong số 189 thành viên chính thức của tổ chức quốc tế các cơ quan
kiểm toán tối cao (INTOSAI) thì mô hình tổ chức các cơ quan KTNN không giống nhau.
Một số KTNN trực thuộc quốc hội còn một số trực thuộc Chính phủ, số còn lại trực thuộc
tổng thống, trực thuộc nhà vua hoặc độc lập hoàn toàn với quốc hội và chính phủ. Theo
thống kê sơ bộ, trong số 85 nước được khảo sát có 36 nước có cơ quan KTNN trực thuộc
quốc hội (Hoa Kỳ, Nga, Anh, Đan Mạch..), 16 nước có cơ quan KTNN trực thuộc chính
phủ (Trung Quốc, Nhật Bản, Arập Xêút, Thái Lan, Lào…), 14 nước có cơ quan KTNN
trực thuộc tổng thống (Hàn Quốc, Chi-lê, Băng-la-đét…), 2 nước có cơ quan KTNN trực
thuộc nhà vua (Nê-pan, Bru-nây), 17 nước có cơ quan KTNN độc lập hoàn toàn (Đức,
Malaixia, Síp, Pháp…). KTNN Việt Nam hiện nay là cơ quan trực thuộc Quốc hội.
7. Kinh nghiệm quốc tế về KTNN.

Trên thế giới, KTNN được hình thành xuất phát từ yêu cầu quản lý chi tiêu công,
quản lý nguồn NSNN. Hoạt động này đã được hình thành cách đây khá lâu, từ khi xuất
hiện Nhà nước, tuy nhiên, nó chỉ được phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong
khoảng vài trăm năm trở lại đây. Ở mỗi quốc gia trên thế giới, hoạt động của KTNN có
sự khác nhau nhất định, tuy nhiên, KTNN đều hướng đến mục tiêu chung là nâng cao
hiệu quả hoạt động thu chi NSNN. Lấy hoạt động kiểm toán của cơ quan kiểm toán tối
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
7


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

cao ở một số nước có lịch sử phát triển của KTNN lâu đời để thấy được rõ nét các hoạt
động của KTNN trên thế giới.
Đối tượng của Kiểm toán Nhà Nước.
Đối với Đan Mạch, đối tượng kiểm toán của KTNN bao gồm: Chính phủ Liên
bang;Các đơn vị không thuộc sở hữu của Nhà nước nhưng do Chính phủ tài trợ; Các
ngân hàng có nguồn vốn từ chính quyền liên bang, tỉnh và địa phương hoặc các đơn vị tự
chủ được hưởng trợ cấp một phần từ Chính phủ; Các doanh nghiệp do chính quyền liên
bang, tỉnh và địa phương sở hữu hoặc quản lý.
Đối tượng kiểm toán của Uỷ doanh của nhà nước với các đối tác nước ngoài hoặc
các doanh nghiệp khác.ban Kiểm toán Nhật Bản là tất cả các cơ quan Nhà nước, chia làm
hai loại: Các đối tượng bắt buộc kiểm toán - là các cơ quan Nhà nước và các đơn vị có sử
dụng 50% vốn Nhà nước trở lên; và Các đối tượng kiểm toán được lựa chọn - là các đối
tượng có sử dụng một phần NSNN.
Với hơn 100 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, KTNN Canada
đặc biệt quan tâm các mục tiêu và phương pháp thực hiện kiểm toán hoạt động. Luật
Tổng Kiểm toán cho phép KTNN Canada có quyền lựa chọn đối tượng, lĩnh vực để kiểm

toán. Do đó, KTNN Canada có thể quyết định kiểm toán một chương trình hoặc đề án, dự
án riêng lẻ hoặc một lĩnh vực có liên quan, ảnh hưởng tới nhiều Bộ, ngành (như lĩnh vực
bảo vệ di sản văn hoá hoặc an ninh công nghệ thông tin). Trong quá trình xác định lĩnh
vực kiểm toán, cơ quan KTNN Canada sẽ tập trung vào những lĩnh vực có rủi ro cao nhất
của các Bộ, ngành.Cơ quan KTNN Canada cũng có thể xem xét những lĩnh vực khác như
kiểm soát và quản lý tài chính); hoặc có sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội và nhân dân
(như an ninh quốc gia hoặc theo yêu cầu kiểm toán của các Uỷ ban của Quốc hội. Tuy
nhiên, Tổng Kiểm toán là người quyết định cuối cùng đối với việc chọn lĩnh vực kiểm
toán. KTNN Canada không thực hiện kiểm toán hoạt động đối với các đặc quyền của
Quốc hội và Chính phủ, các lĩnh vực thuộc phạm vi quyền lực của chính quyền các tỉnh
và thành phố.
Nguyên tắc hoạt động của cơ quan kiểm toán tối cao.
Tính độc lập của mỗi cơ quan kiểm toán tối cao được thể hiện ở các khía cạnh
khác nhau. Đôi với Đan Mạch, Cơ quan KTNN của quốc gia này có tính độc lập rất cao,
thể hiện ở các khía cạnh:
- Vai trò độc lập của Tổng KTNN: do Quốc hội bầu ra, có nhiệm kỳ không giới
hạn cho đến khi nghỉ hưu ở tuổi 70. Ngoài ra, Tổng KTNN còn được trao đặc quyền chỉ
định và luân chuyển cán bộ; kiểm soát toàn bộ ngân sách của đơn vị; độc lập trong việc
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
8


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

lập kế hoạch hoạt động cho KTNN; được bảo vệ khỏi mọi ảnh hưởng trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ; và được tham gia mọi cuộc họp của Chính phủ.
- KTNN Đan Mạch độc lập về mặt tài chính: Dự toán ngân sách hoạt động hàng
năm do KTNN lập được trình lên Uỷ ban kế toán công (cơ quan duy nhất có quyền yêu

cầu KTNN thực hiện kiểm toán theo đề xuất của mình) , Uỷ ban này đánh giá và trình lên
Quốc hội; Quốc hội sẽ bỏ phiếu để thông qua bản dự toán này. Ngoài ra, cũng có một số
cơ chế để đảm bảo trách nhiệm giải trình của KTNN như: quy định về việc một công ty
tư nhân sẽ kiểm toán hoạt động của KTNN; quy định về quyền lực, tính độc lập, nội dung
và quy trình kiểm toán của KTNN trong luật KTNN.
Chức năng của cơ quan kiểm toán tối cao.
Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản Nhà Nước. Mỗi quốc gia khác nhau, cơ quan kiểm toán tối cao sẽ thực hiện các chức
năng khác nhau, trong đó chủ yếu là thực hiện hai chức năng: kiểm toán báo cáo tài chính
và kiểm toán hoạt động. Cơ quan KTQG Mông Cổ thực hiện chủ yếu hai loại hình kiểm
toán: Kiểm toán báo cáo tài chính và Kiểm toán hoạt động. Việc thực hiện kiểm toán báo
cáo tài chính để bảo đảm rằng báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán có trình bày
khách quan tình hình tài chính, kết quả hoạt động và lưu chuyển tiền tệ theo những
nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận chung và các chuẩn mực kế toán quốc tế và quốc
gia hay không. Trong khi đó, kiểm toán hoạt động lại hướng đén kiểm toán tính kinh tế,
tính hiệu quả và hiệu lực sử dụng các nguồn lực của đơn vị được kiểm toán khi thực hiện
chức năng của mình, đánh giá và đưa ra kiến nghị.Trong khi đó, KTNN Đan Mạch đang
thực hiện 2 loại hình kiểm toán là kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán hoạt động.
Việc kiểm toán được thực hiện dựa trên các nguyên tắc đảm bảo “thực hiện tốt cuộc kiểm
toán tài chính công”. Phạm vi của Kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động kế toán công
tại các cơ quan, đơn vị Nhà nước. Việc kiểm toán trong năm tài chính bao gồm việc xem
xét và đánh giá về hệ thống quy trình và kiểm soát nội bộ của đối tượng được kiểm toán.
Kiểm toán sau khi năm tài chính kết thúc liên quan đến việc phân tích tài chính để xác
định liệu các hoạt động kế toán có chứa đựng các sai sót trọng yếu và rõ ràng không.
Kiểm soát sự phân bổ liên quan đến sự so sánh giữa ngân sách phân bổ với hoạt động của
đơn vị trong mối quan hệ về số liệu cũng như các mục tiêu và kết quả đạt được. KTNN
thực hiện các cuộc Kiểm toán hoạt động (KTHĐ) theo kế hoạch do KTNN lập hoặc theo
yêu cầu của Uỷ ban kế toán công. Đối với các cuộc KTHĐ, nội dung không thể thiếu khi
thực hiện kiểm toán là các đánh giá về tình hình quản lý tài chính. Điều này giúp đảm

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
9


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

bảo rằng các mục tiêu của đối tượng được kiểm toán đã được thực hiện theo cách tốt nhất
có thể để đảm bảo các khía cạnh kinh tế, hiệu quả và hiệu lực.
II. Vai trò của Kiểm toán Nhà Nước trong giám sát và quản lý NSNN.
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước.
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là phạm
trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước"
được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về
ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân
sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Có nhiều quan niệm
khác nhau về NSNN. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê
các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Có quan niệm
khâc lại cho rằng, Ngân sách nhà nước là bản dự trù thu chi tài chính của nhà nước trong
một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm, hoặc Ngân sách nhà nước là quỹ tiền
tệ tập trung của nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước. Mặc dù có nhiều
quan niệm khác nhau về NSNN tuy nhiên, có thể kết luận, về thực chất, Ngân sách nhà
nước phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử
dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài
chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
1.1. Thu ngân sách nhà nước.
Thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để
tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của nhà nước.Có nhiều khoản thu: Thu thuế: Thuế là 1 khoản thu

bắt buộc,không được hoàn trả trực tiếp của nhà nước đối với các cá nhân nhằm mục đích
trang trải các khoản chi phí vì lợi ích; thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước; thu từ
các hoạt động vay nợ;các hoạt động bán và cho thuê TNTN và các tài sản thuộc quyền sở
hữu của nhà nước và các khoản thu khác…Trong đó, thuế là khoản thu chủ yếu nhất,
đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào nguồn thu NSNN.
1.2.

Chi ngân sách Nhà Nước.

Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước
cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc cung cấp các
phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ. Theo chức năng nhiệm vụ, chi
ngân sách nhà nước gồm: Chi đầu tư phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng, trong đó phần
lớn là xây dựng cơ bản, khấu hao tài sản xã hội và Chi bảo đảm xã hội. Khi tổng chi tiêu
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
10


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

của NSNN vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước
sẽ tạo ra thâm hụt NSNN, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân
sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo
tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà
nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực.
2. Vai trò của KTNN trong việc giám sát và quản lý NSNN.
Kiểm toán nhà nước bước đầu khẳng định được vai trò không thể thiếu được của
mình trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát của nhà nước ta. Những kết quả kiểm toán trung

thực, chính xác , khách quan của cơ quan kiểm toán nhà nước không chỉ giúp chính phủ,
quốc hội đánh giá đúng tình hình thực trạng tài chính ngân sách nhà nước mà còn cung
cấp các thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế , ra các quyết
định có hiệu lực cao , đề ra các biện pháp tăng cường quản lý thu chi ngân sách đồng thời
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong việc sử dụng NSNN.
2.1. Vai trò của KTNN trong việc nâng cao hiệu lực chi tiêu công.
Cơ quan kiểm toán tối cao (còn gọi là KTNN) là công cụ kiểm tra tài chính công
quan trọng của nhà nước. Với các chức năng cơ bản là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư
vấn, hoạt động KTNN góp phần bảo đảm minh bạch, phân bổ, quản lý, sử dụng các
nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Mọi
hoạt động liên quan đến tài chính nhà nước và tài sản nhà nước, mọi cơ quan, tổ chức,
đơn vị có quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản nhà nước đều
chịu sự kiểm tra của cơ quan KTNN. Ngoài chức năng, nhiệm vụ này, cơ quan KTNN
còn thực hiện kiểm toán tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả việc quản lý,
sử dụng các nguồn lực tài chính và tài sản nhà nước.
Vai trò của KTNN trong quản lý và nâng cao hiệu lực quản lý chi tiêu công biểu hiện trên
những khía cạnh cơ bản sau:
2.1.1. Vai trò của KTNN trong kiểm soát chi tiêu công để kiềm chế lạm phát.
2.1.1.1. Lạm phát và mối quan hệ giữa chi tiêu công với lạm phát.
Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục.Nghiên cứu của các nhà kinh tế dựa
vào mô hình tổng cung và tổng cầu đã chỉ ra, lạm phát có thể xảy ra do tổng cầu tăng
(lạm phát do cầu kéo) hoặc do tổng cung giảm (lạm phát do chi phí đẩy). Tăng đầu tư và
chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng làm tăng tổng cầu. Do vậy,
muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu công,
đặc biệt là đầu tư công, chấp nhận hy sinh mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn để có
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
11



Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

được tăng trưởng cao, bền vững trong tương lai. Việc duy trì liên tục chi tiêu công ở mức
cao, nhưng cũng có tác động làm tăng mức giá, gây ra lạm phát.
- Trước hết, liên tục tăng chỉ tiêu công cao gây ra bội chi NSNN tăng dần theo
thời gian. Tăng chi NSNN để kích cầu tiêu dùng, kích thích đầu tư và tăng đầu tư phát
triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho phép của nền
kinh tế, dẫn đến thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay từ hai
nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài. Việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn
huy động từ bên ngoài góp phần trực tiếp làm tăng cung tiền vào thị trường trong
nước,do đó gây ra lạm phát
- Thứ hai, tăng chi tiêu công thông qua phát hành trái phiếu, công trái giáo dục
cho đầu tư các dự án. Chương trình mục tiêu không trong cân đối NSNN, làm tăng số
bội chi thực tế. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước phải cung ứng một lượng tiền không nhỏ
để xử lý thiếu hụt tạm thời NSNN, theo quy định phải được hoàn trả trong năm ngân
sách, nhưng trên thực tế thường không được hoàn trả đúng hạn; phát hành tiền ra để kích
cầu đầu tư, phát hành tiển ra để tăng vốn các Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân
hàng chính sách xã hội. Điều đó dẫn đến sự tích tụ tiền tệ qua các năm và góp phần làm
cho lượng tiền trong lưu thông tăng cao.
- Thứ ba, sự gia tăng quy mô chi tiêu công cao cho đầu tư, nhưng không kiểm
soát được hiểu quả của nguồn vốn đầu tư công; tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư
cao, làm cho nhu cầu chi đầu tư phát triển càng gia tăng không thực chất, cao hơn mức
cần thiết. Ngoài ra, công tác quản lý tài chính công nói chung,chỉ tiêu công nói riêng còn
bất cập, hiệu quả chưa cao, điều này làm cho tổng cầu tăng lên, là một nguyên nhân gây
ra lạm phát.
2.1.1.2. Vai trò của KTNN trong kiểm soát chi tiêu công, kiềm chế lạm phát.
KTNN là công cụ quan trọng để phối hợp, gắn kết chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ, hạn chế tác động qua lại bất lợi của hai chính sách này. Chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ là hai công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước, có

quan hệ mật thiết, ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau. Trong quản lý, kiểm soát chi
tiêu công để kiềm chế lạm phát, vai trò của KTNN thể hiện trên một số khía cạnh sau:
- Kết quả kiểm toán quyết toán NSNN các cấp hàng năm sẽ xác nhận tổng thu
chi và chi tiết đến từng khoản mục, đồng thời phân tích, đánh giá về tính hợp lý, bền
vững trong cơ cấu thu, chi và cân đối thu, chi. KTNN kiến nghị các giải pháp tăng thu,
bố trí hợp lý chi NSNN cho mục tiêu khác nhau, cắt giảm các khoản chi thường xuyên,
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
12


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

chi đầu tư cho các công trình chưa thực sự cần thiết, hiệu quả thấp để giảm bội chi, tập
trung chi đầu tư cho các dự án, công trình cần thiết khác.
- Tư vấn xây dựng chính sách, chế độ quản ý chi tiêu công chặt chẽ, hiệu quả,
ngăn ngừa tham nhũng, thất thoát lãng phí. KTNN giúp các cơ quan, đơn vị quản lý, sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu công,
thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
2.1.2. KTNN có vai trò ngăn ngừa, phát hiện các hành vi lãng phí, tiêu cực trong sử
dụng nguồn tài chính công.
Tăng cường minh bạch trong quản lý tài chính, đặc biệt là chi tiêu công là giải
pháp cơ bản trong phòng, chống tham nhũng và tiết kiệm, chống lãng phí, góp phân nâng
cao hiệu quả chi tiêu công, giảm bội chi ngân sách. Tham nhũng làm thất thu, thất thoát,
giảm hiệu quả chi ngân sách, làm nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giảm hiệu
lực của pháp luật quản lý kinh tế, tài chính, NSNN…góp phần làm trầm trọng thêm hậu
quả của lạm phát, giảm hiệu lực, hiệu quả của các chính sách chống lạm phát.KTNN thực
hiện kiểm toán tài chính, tuân thủ và hoạt động các khoản chi tiêu công thông qua hai
phương thức: kiểm toán trước (tiền kiểm) và kiểm toán sau (hậu kiểm), góp phần ngăn

ngừa rủi ro, răn đe sai phạm, nâng cao hiệu quả trong chi tiêu công.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, luật pháp quy định KTNN có trách nhiệm thực hiện
kiểm toán dự toán ngân sách nhà nước hằng năm trước khi trình quốc hội quyết định. Đối
với hậu kiểm, tức kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán chi tiêu của chính phủ,
các cấp chính quyền địa phương và tại các đơn vị sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà
nước về việc tuân thủ chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do nhà nước quy định không chỉ
nhằm mục đích xác nhận số liệu quyết toán, minh bạch tài chính mà còn góp phần răn đe
sai phạm, tham nhũng, lãng phí trong chi tiêu công, ngăn ngừa rủi ro phát sinh trong cả 4
loại nghĩa vụ nói trên. Dựa trên các kiến nghị của KTNN, các khoản chi sai chế độ, tiêu
chuẩn, định mức, sử dụng sai mục đích sẽ bị thu hồi, hoàn trả cho NSNN; cá nhân phê
duyệt chi sai sẽ bị xem xét, xử lý trách nhiệm. Những ý kiến của KTNN sẽ góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, hệ thống định mức phân bổ ngân sách,
định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu; đồng thời là cơ sở để các cơ quan quản lý đề ra các
biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, kiểm soát chi tiêu
công. Thực tế trong quá trình kiểm toán đã chứng minh: kiểm toán báo cáo tài chính kết
hợp với kiểm toán hoạt động có tác động trong việc hỗ trợ đơn vị sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản và các nguồn lực được giao, ngăn ngừa và hạn chế lãng phí.
2.2. Vai trò của KTNN trong lập dự toán NSNN.
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
13


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

Việc tham gia của cơ quan KTNN trong việc thẩm tra dự toán ở mỗi nước có hình
thức và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều là đưa ra ý kiến đánh giá phản biện về
dự toán NSNN do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định dự
toán NSNN. Cơ quan KTNN với chức năng của mình, xem xét tính hợp lý, khả thi của

dự án ngân sách do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo trước khi đệ trình Quốc hội. Cơ
quan này sẽ cung cấp những thông tin đánh giá mang tính ngược chiều về mục tiêu, tính
tiết kiệm, hiệu quả của dự toán NSNN. KTNN cần đồng thời tham gia thẩm tra Tổng dự
toán NSNN và thẩm tra NSNN tại các địa phương.Trước khi dự toán NSNN trình Quốc
hội, KTNN thực hiện thẩm tra và đưa ra ý kiến đánh giá tổng thể có tính độc lập với dự
toán ngân sách do Chính phủ thông qua. Theo đó, một trong các nhiệm vụ quan trọng của
KTNN là trình bày ý kiến tư vấn trong quá trình lập và quyết định dự toán NSNN, cơ sở
để KTNN thực hiện kiểm toán dự toán NSNN (tiền kiểm), khẳng định vai trò không thể
thiếu và phát huy đầy đủ hơn vai trò của KTNN trong việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực
của các hoạt động có sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
14


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

Chương II. Thực trạng KTNN Việt Nam và việc giám sát và nâng cao
hiệu lực quản lý NSNN của KTNN Việt Nam
1.

Thực trạng về tổ chức hoạt động của KTNN Việt Nam.

Để tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước
và công quỹ quốc gia, bảo đảm tính trung thực, chính xác, hợp pháp và hợp lệ của việc sử
dụng nguồn lực tài chính công; ngăn ngừa đối với sự xâm phạm tài sản Nhà nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền có hiệu lực trong việc quản lý kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải
thành lập một cơ quan độc lập với cơ quan trực tiếp quản lý ngân sách và tài sản Nhà

nước. Cơ quan này sẽ kiểm tra tính tuân thủ trong việc sử dụng tiền của của nhân dân
theo những quy định của pháp luật hiện hành; đảm bảo sự minh bạch về tài chính và hiệu
quả sử dụng nguồn lực tài chính này.
Chính vì vậy, ngày 11/7/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/CP về việc
thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước nhằm
"giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp
pháp của các tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các
đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội
có sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp" (Điều 1); đánh giá sự tuân thủ pháp luật
và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán.
Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo cáo quyết toán ngân sách của các địa
phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân; Tổng quyết toán NSNN trước khi trình ra
Quốc hội; báo cáo quyết toán của các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách, các chương
trình, dự án, công trình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, các DNNN cần phải được
KTNN tiến hành kiểm toán và xác nhận.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước thực hiện nhiệm vụ được
giao gồm: 4 tổ chức KTNN chuyên ngành (Kiểm toán Ngân sách Nhà nước; Kiểm toán
Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự án, vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm
toán Doanh nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Chương trình đặc biệt: an ninh, quốc phòng, dự
trữ quốc gia)...; Văn phòng Kiểm toán Nhà nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán
bộ; Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ và 4 tổ chức KTNN khu vực (KTNN khu vực
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
15


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy


phía Bắc, KTNN khu vực miền Trung, KTNN khu vực phía Nam và KTNN khu vực
miền Tây Nam Bộ).
Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước
phụ trách từng lĩnh vực công tác của KTNN có các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước. Tổng
Kiểm toán Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm và miễn nhiệm. Đứng đầu các Kiểm toán chuyên ngành và KTNN khu vực là
Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng); giúp việc Kiểm toán trưởng có các Phó Kiểm toán
trưởng. Kiểm toán trưởng và Phó Kiểm toán trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ
nhiệm và miễn nhiệm.Kinh phí hoạt động của hệ thống KTNN do NSNN cấp. Biên chế
của hệ thống KTNN thuộc biên chế quản lý Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước xây
dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt biên chế và kinh phí hoạt động của hệ
thống kiểm toán. Hiện nay, KTNN Việt Nam là cơ quan trực thuộc Quốc hội. Năm 1996,
KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán
tối cao - INTOSAI). Năm 1997, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (Asian Organization of Supreme Audit Institutions
– ASOSAI). Có thể nói, hiện nay KTNN Việt Nam là một trong những thành viên non trẻ
nhất của tổ chức này. . Ra đời năm 1994, tháng 7/1996 KTNN Việt Nam mới trở thành
thành viên của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Tối cao (INTOSAI) và đầu năm 1997 trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức các cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á
(ASOSAI). Ngành kiểm toán Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2010 đạt quy mô trung
bình, đạt trình độ kiểm toán vào loại khá so với các nước trong khu vực và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
2. Thực trạng vai trò của KTNN Việt Nam trong những năm vừa qua.
Sự ra đời và tồn tại của kiểm toán nhà nước là một tất yếu khách quan. Đáp ứng
yêu cầu quản lý và phục vụ quản lý trong nền kinh tế chuyển đổi.
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống thanh tra, kiểm tra nhà nước, hệ thống thanh
tra, kiểm tra nội bộ, KTNN đã từng bước khẳng định vai trò là công cụ quản lý trong nền
kinh tế thị trường, góp phần làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế ngăn ngừa nạn tham nhũng, thất thoát
lãng phí tài sản quốc gia. Có thể khẳng định rằng, việc Chính phủ ban hành Nghị định số

70/CP ngày 11/7/1994, Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 và những điều khoản quy
định trong Luật Ngân sách Nhà nước đã tạo lập hành lang pháp lý cho hoạt động của
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
16


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

KTNN. Sự hình thành và phát triển cơ quan KTNN hoàn toàn phù hợp với tiến trình cải
cách hành chính quốc gia và thông lệ quốc tế. Đó là một tất yếu khách quan, là sản phẩm
trí tuệ của quá trình đổi mới; đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, nhằm tăng cường sự
kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng NSNN và tài sản quốc gia. Vai trò
của KTNN Việt Nam được thể hiện trên các mặt sau:
2.1.

Vai trò của KTNN trong việc kiểm soát chi tiêu công, kiềm chế lạm phát.

Sự ra đời và hoạt động của kiểm toán nhà nước nhằm tăng cường sự kiểm soát của
nhà nước trong việc sử dụng ngân sách và công quỹ quốc gia đảm bảo tính trung thực
chính xác hợp pháp và hợp lệ của nguồn lực sử dụng tài chính công, ngăn ngừa sự xâm
hại đối với tài sản nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền có hiệu lực và hiệu quả
trong nền kinh tế xã hội. Trong quá trình hoạt động vai trò của KTNN không ngừng củng
cố và tăng cường, đáp ứng yêu cầu và củng cố của Quốc hội trong việc kiểm tra, giám sát
hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản lý , điều hành ngân sách nhà nước, qua các mặt:
- Kiểm tra việc chấp hành những quy định về nghĩa vụ nộp NSNN, thực hiện
không đúng nộp đủ theo quy định của pháp luật. Góp phần cải cách tổ chức và quản lý
thu chi ngân sách có hiệu quả. Một mặt tập trung tăng nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi
tiêu NSNN, điều quan trọng là lập lại trật tự trong việc chấp hành luật Nhà nước, trả lại

sự công bằng trong môi trường kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc
doanh.
- Kiểm soát chặt chẽ và sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng
cao hiệu quả sử dụng NSNN có một ý nghĩa quan trọng. Để đạt được yêu cầu đó, công
tác kiểm toán còn giúp các đối tượng sử dụng NSNN tuân thủ những quy định của pháp
luật về các mặt thủ tục, trình tự, chi đúng mục đích, đối tượng. Đúng định mức dự toán
được duyệt của các nhà lãnh đạo quản lý kinh tế tài chính, kết quả KTNN cung cấp thông
tin dữ liệu chính xác, kịp thời trong việc xây dựng dự toán, điều chỉnh dự toán phù hợp
với thực trạng và điều kiện kinh tế địa phương, ngành nghề nói riêng và của NN nói
chung.
- Đề xuất kiến nghị với NN giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế tài
chính phù hợp với từng nghề, đối tượng sản xuất kinh doanh hoặc thụ hưởng NSNN, góp
phần từng bước đồng bộ, chuẩn hóa các thể chế, luật định, chế độ chính sách NN trong
lĩnh vực kinh tế chính trị, kinh tế xã hội ở mọi phương diện sản xuất kinh doanh, giáo

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
17


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

dục, y tế , văn hóa xã hôi. Thực hiện đúng phương châm sống và làm việc theo chính
sách của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động, vai trò của KTNN không ngừng được củng cố và tăng
cường thông qua kết quả kiểm toán đã đạt được, thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành những quy định hiện hành về nghĩa
vụ nộp NSNN, thực hiện nộp đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kết quả kiểm
toán ở các đơn vị và địa phương trong 7 năm qua, KTNN đã phát hiện và kiến nghị tăng

thu, tiết kiệm chi cho NSNN gần 4000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế trên 2000 tỷ
đồng, tiết kiệm chi NSNN gần 1000 tỷ đồng và đưa vào quản lý qua NSNN trên 800 tỷ
đồng.
Thứ hai, cung cấp dữ liệu phục vụ các cơ quan quản lý tài chính và NSNN sát thực
và có hiệu quả hơn. Thông qua việc kiểm tra tài chính, KTNN đã chỉ ra những điểm bất
hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm vụ chi NSNN và tình hình chấp
hành dự toán thu-chi ngân sách; góp phần tạo lập căn cứ để xây dựng dự toán NSNN cho
những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ, chống thất thu cho NSNN; đồng thời kiến nghị
việc phân bổ NSNN cho các ngành, lĩnh vực, địa phương một cách hợp lý, thực hành tiết
kiệm và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Thứ ba, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã đề xuất kiến nghị một số giải
pháp, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính, kế toán Nhà nước phù hợp với
tình hình thực tiễn của các ngành, các lĩnh vực hoạt động.
2.2.
Vai trò của KTNN trong việc ngăn ngừa, phát hiện các hành vi lãng phí, tiêu
cực trong sử dụng nguồn tài chính công.
Trong những năm vừa qua, KTNN Việt Nam đã thể hiện được vai trò quan trọng
trong việc kiểm soát việc sử dụng NSNN, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn và tài sản Nhà nước. Trong điều kiện nhu cầu chi NSNN rất lớn, khả
năng đáp ứng các nhu cầu này còn hết sức hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN,
hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội đã được hoạch định. Ngoài việc
phát hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng do chi sai chính sách chế độ,
lập quỹ trái phép... KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý những sai phạm về quản lý
kinh tế- tài chính góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
và tài sản của Nhà nước. Vấn đề lãng phí nguồn tài chính công chủ yếu là sự lãng phí,
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
18



Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

thất thoát trong quản lý chi đầu tư phát triển ở nước ta. Do đó, vai trò của KTNN trong
việc ngăn ngừa, phát hiện các hành vi lãng phí, tiêu cực trong chi tiêu công được thể hiện
rõ nét qua kiểm toán các chương trình dự án đầu tư có nguồn vốn từ NSNN.
Vốn đầu tư từ NSNN ngày một tăng cao, số lượng dự án ngày một nhiều và sự
phân cấp cho các bộ ngành, địa phương ngày một lớn. Nên vấn đề đặt ra là làm thế nào
để quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính này một cách có hiệu quả nhất.Thực tế trong
thời gian qua, đầu tư phát triển luôn là vấn đề nóng được nhiều người quan tâm. Tình
hình triển khai các dự án đầu tư gặp khá nhiều khó khăn. Tình trạng chậm tiến độ xảy ra
phổ biến ở nhiều dự án và có xu hướng gia tăng so với các năm trước. Theo báo cáo của
các bộ, ngành và địa phương thì các dự án chậm tiến độ trong các năm là rất cao, cụ thể
là năm 2008 mặc dù Chính phủ đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, tháo gỡ nhưng số dự án
chậm tiến độ cũng chiếm ở mức 16,6% (2007 là 14,8% và năm 2006 là 13,1%). Tình
trạng chậm tiến độ các công trình, dự án đã làm tăng chi phí và giảm hiệu quả của các dự
án đầu tư, trong đó có nhiều dự án hạ tầng quan trọng. Bên cạnh đó cũng có nhiều dự án
xây dựng giữa chừng không có nguồn vốn để hoàn thành đã gây ra thất thoát lãng phí
lớn. Nhiều bộ, ngành, địa phương có tình trạng nợ vốn nhiều và kéo dài nhiều năm không
xử lý được cũng gây ra kém hiệu quả của đồng vốn đầu tư phát triển (cả nước nợ hàng
chục ngàn tỷ đồng). Nguyên nhân của chậm tiến độ đầu tư và nợ lớn có nhiều nhưng có
thể tóm tắt một số điểm chính như: chậm tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, tư vấn
kém, năng lực thi công và tổ chức hạn chế, thời gian thẩm định, phê duyệt dự án kéo dài
và cũng do tình hình giá cả biến động nhiều, chủ đầu tư và nhà thầu không điều chỉnh dự
toán ngay mà có tâm lý chờ. Bên cạnh những điều nêu trên là sự thất thoát, lãng phí trong
đầu tư phát triển đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội. Thực chất của vấn đề đến đâu,
hiện chưa có lời giải xác đáng, đang rất cần các cơ quan chức năng nghiên cứu và có giải
pháp nhằm đưa ra câu trả lời cụ thể. Một trong những cơ quan có vai trò quan trọng trong
giải quyết vấn đề này chính là KTNN. Với sự phân cấp mạnh mẽ trong quản lý đầu tư

phát triển hiện nay và trong tương lai, bên cạnh giao quyền chủ động rộng rãi cho các bộ,
ngành và địa phương trong quản lý vốn đầu tư phát triển thì cũng cần xây dựng hệ thống
giám sát và kiểm tra tương ứng. Đặc biệt, trong tình hình mới lượng vốn đầu tư phát triển
ngày một tăng như trên đã nêu thì vai trò của các cơ quan kiểm tra, giám sát và kiểm toán
càng ngày càng cần phải được nâng lên. Trong thời gian qua KTNN đã tiến hành kiểm
toán nhiều bộ, ngành và địa phương trong quản lý và chi tiêu NSNN cũng đã phát hiện
nhiều vụ việc và thu hồi lại cho nhà nước một lượng tài chính khá lớn. Điều này đã và
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
19


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

đang khẳng định KTNN là một trong những cơ quan kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn
đúng mục đích, đúng pháp luật và hiệu quả. Để KTNN có thể tham gia làm tốt nhiệm vụ
của mình trong quản lý chi đầu tư phát triển đòi hỏi KTNN nên tham gia ngay từ đầu và
nắm bắt thông tin về quá trình xây dựng kế hoạch tài chính và kế họach đầu tư và phát
triển của các cơ quan, bộ, ngành và địa phương trên các mặt như: được tham gia tìm hiểu,
nắm thông tin về đầu tư phát triển; có ý kiến đóng góp hoàn thiện các kế họach đầu tư
phát triển; tham gia theo dõi và giám sát quá trình đầu tư hoặc kiểm toán từng phần của
dự án đầu tư và các công việc có liên quan đến quản lý tài chính. Trong điều hiện nay và
với xu thế phát triển trong tương lai đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và
kiểm toán. Do vậy, KTNN cần được nâng lên một tầm cao mới, trong đó đặc biệt là nâng
cao vai trò và vị thế của KTNN trong quản lý chi đầu tư phát triển.
Kiểm toán về đầu tư xây dựng cơ bản.
Kết quả hoạt động kiểm toán đầu tư XDCB: Từ năm 1994 đến 1999 dã tổ chức
thành công 18 cuộc kiểm toán trong đó có 5 công trình XDCB, 5 dự án công trình quốc
gia và 8 tổng công ty với 121 Công ty thành viên. Tổng số tiền đề nghị loại khỏi giai

đoạn quyết toán tiết kiệm chi hoặc thu hồi về cho NSNN 144.223 triệu đồng, do các đơn
vị này chi sai đơn giá, khối lượng đầu tư, chi sai mục đích đầu tư hặc chi sai về chế độ kế
toán. Điều quan trọng hơn cả là thông qua kiểm toán đã kịp thời uốn nắn những điểm sai
sót, sai phạm của đơn vị, tăng cường pháp chế XHCN, phòng chống các biểu hiện tham
nhũng, lãng phí thất thoát tiêu cực…
Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước.
Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước là một lĩnh vực chuyên ngành thuộc kiểm toán
nhà nước, mà đối tượng của nó là hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước, hiện đang nắm giữ
2/3 tài sản quốc gia, khoảng 27% tổng lao động xã hội hàng năm thu hút phần lớn vốn
đầu tư phát triển của NSNN.
Nhìn lại hoạt động KTNN đối với doanh nghiệp nhà nước sau 15 năm, KTNN đã
tiens hành gần hết các tổng công ty 91 và một số tổng công ty 90 với hơn 400 cuộc kiểm
toán tại các đơn vị thành viên của các tổng công ty được thực hiện trên các lĩnh vực sản
xuất, dịch vụ, xây lắp nhận thầu, thương mại.
Hoạt động của kiểm toán chuyên ngành kiểm toán DNNN bước đầu đã phát hiện
tăng thu tiết kiệm, tiết kiệm chi cho NSNN, cho DNNN gần trăm tỷ đồng gồm thuế
doanh thu, thuế lợi tức, thuế đất tiền thuế sử dụng vốn, các khoản thu khác. Điều có ý
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
20


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

nghĩa hơn là thông qua các cuộc kiểm toán đã giúp cho doanh nghiệp thấy được các
thành tích và những thiếu sót trong việc quản lý vốn, nguồn vốn, việc hạch toán doanh
thu, chi phí gía thành và kết qảu hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như nghĩa vụ với
nhà nước, chấn chỉnh các sai sót, ngăn ngừa các hành vi tham ô, lãng phí.
Phát hiện tăng thu giảm chi cho NSNN 137.000 triệu đồng trong đó chủ yếu là:

- Tăng thu 20.163 triệu đồng, các khoản thu chủ yếu là do doanh nghiệp vi phạm
pháp luật NSNN và các chế độ quản lý kinh tế tài chính như tồn dư tiền mặt và tiền gửi
vào cuối năm. Thu thanh lý tài sản vật tư hàng hóa của các đơn vị dự toán, thu cho thuê
nhà không nộp NSNN
- Các khoản xuất toán giảm chi cho NSNN là 116.937 triệu đồng chiếm 85%
tổng số tăng thu giảm chi do các nguyên nhân sau:
+ Chi thường xuyên: Số giảm chi 88.336 triệu đồng chiếm 17% tổng số tăng thu
giảm chi chủ yếu là các khoản chi sai niên độ kế toán là 56.549 triệu đồng chiếm 64% số
giảm chi. Còn lại là các khoản chi sai chế đôi, chi sai mục lục NSNN vượt mức quy định
của NN.
+ Chi XDCB: giảm chi 5.649 triệu đồng chiếm 5 % tổng số tăng thu giảm chi. Số
giảm chi này chủ yếu là do đơn vị XDCB quyết toán chi kinh phí sai chế độ về đầu tư
XDCB như: Quyết toán không đúng khối lượng hoàn thành, nguyên vật liệu đưa vào sử
dụng không đúng với dự toán thiết kế được duyệt, áp dụng sai đơn vị duyệt.
Thông qua kết quả kiểm toán, kiểm toán NSNN đóng góp nhiều ý kiến tư vấn cho Quốc
Hội, chính phủ, các bộ ngành, các đơn vị được kiểm toán sửa chữa những thiếu sót bổ
sung điều chỉnh cải tiến công tác quản lý kinh tế tài chính ngân sách đồng thời có các
quyết định kịp thời. Định hướng cho những hoạt động vĩ mô của NN.
2.3. Thực trạng hoạt động của KTNN Việt Nam trong việc lập dự toán và quản lý
Ngân sách Nhà nước.
Sự ra đời và phát triển của KTNN trước hết là do yêu cầu của việc kiểm tra, giám
sát một cách độc lập từ bên ngoài đối với quá trình quản lý, điều hành và sử dụng NSNN
nói riêng và các nguồn lực tài chính công nói chung một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất.
Nếu nhìn trên góc độ lợi ích cộng đồng và lợi ích của xã hội thì KTNN là công cụ giúp
cho công dân có thể tham gia, giám sát Chính phủ, các cơ quan, tổ chức có sử dụng
NSNN, là cơ sở để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình quản lý
tài chính của Nhà nước. Đứng trên góc độ thực hiện quyền kiểm tra, giám sát tối cao của
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
21



Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

Quốc hội đối với Chính phủ về quản lý, điều hành NSNN thì KTNN được xem là một
công cụ để Quốc hội thực hiện tốt nhất các quyền này. KTNN thực hiện kiểm tra, giám
sát một cách toàn diện đối với quá trình quản lý, điều hành và sử dụng NSNN đối với
Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ từ việc lập dự toán ngân sách, tổ chức thực hiện
và lập báo cáo quyết toán ngân sách hàng năm. Ý kiến nhận xét của KTNN về các dự
toán ngân sách và các báo cáo quyết toán ngân sách của Chính phủ là cơ sở quan trọng để
Quốc hội xem xét, phê duyệt dự toán ngân sách và báo cáo quyết toán ngân sách. Đồng
thời, KTNN là cơ quan tư vấn cho Quốc hội về việc ban hành các đạo luật về tài chính
nhà nước. Đứng trên góc độ quản lý, điều hành và sử dụng NSNN thì KTNN là cơ quan
thực hiện chức năng giải toả trách nhiệm cho Chính phủ và cơ quan của Chính phủ trước
Quốc hội, trước nhân dân về hiệu quả quản lý, điều hành và sử dụng NSNN. KTNN là cơ
quan tư vấn quan trọng cho Chính phủ trong việc đề ra các chính sách kinh tế, tài chính
để quản lý, điều hành và sử dụng tiết kiệm có hiệu quả NSNN.
Kể từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, hoạt động kiểm toán nhà nước đã từng
bước đi vào cuộc sống và trở thành nhu cầu của đời sống xã hội. Điều đó được thể hiện
khá rõ nét: Năm 2006, KTNN tiến hành trên 100 cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán
NSNN năm 2005 - đây là con số kỷ lục kể từ khi KTNN chính thức đi vào hoạt động và
đã phát hiện, kiến nghị xử lý tài chính trên 7.600 tỷ đồng; trong đó: số kiến nghị tăng thu
ngân sách gần 1.900 tỷ đồng, giảm chi ngân sách gần 1.340 tỷ đồng, các khoản phải nộp,
hoàn trả và quản lý qua ngân sách 1.350 tỉ đồng; số đã bị cho vay, cho tạm ứng sai quy
định, đến cuối năm vẫn chưa thu hồi được là 1.570 tỷ đồng cùng một số sai phạm khác
hơn 1.100 tỷ đồng. Năm 2007, với 120 cuộc kiểm toán (quy mô tăng hơn 20% so với
năm 2006), KTNN đã phát hiện, kiến nghị xử lý về tài chính với tổng số tiền trên 10.188
tỷ đồng; trong đó: số kiến nghị tăng thu ngân sách trên 1.770 tỷ đồng, giảm chi ngân sách
trên 1.308 tỷ đồng, các khoản phải nộp, hoàn trả và quản lý qua ngân sách trên 5.673 tỷ

đồng, các khoản nộp và giảm chi khác không thuộc ngân sách trên 1.183 tỷ đồng, nợ
đọng ngân sách xác định tăng trên 252 tỷ đồng. Song, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là,
thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã tập trung đánh giá tình hình thực hiện Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các tổ chức,
cơ quan, đơn vị được kiểm toán. Các kết luận, kiến nghị kiểm toán đã chú trọng xem xét
trách nhiệm người đứng đầu, địa chỉ cụ thể các tổ chức, cá nhân sai phạm. Khi phát hành
báo cáo kiểm toán, KTNN đều có văn bản gửi các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố, thủ trưởng các đơn vị thông báo kết luận và kiến nghị kiểm toán. Đồng
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
22


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

thời, kết quả thực hiện các kết luận, kiến nghị của KTNN đều cho thấy rằng, hầu hết các
đơn vị được kiểm toán đã nghiêm túc chấp hành việc xử lý tài chính, như: đối với niên độ
ngân sách năm 2004 đạt 98%; trong đó, các địa phương thực hiện đạt 98,5%; các Bộ, cơ
quan Trung ương và dự án đầu tư xây dựng thực hiện đạt 97,2%. Năm 2007, KTNN đã
gửi báo cáo kiểm toán đến Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, đến
từng đại biểu Quốc hội và Tổng Kiểm toán Nhà nước báo cáo bằng văn bản với Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội về thẩm định dự toán
NSNN năm 2008; cung cấp và chuyển hơn 20 báo cáo kiểm toán cho Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương, cho cơ quan điều tra và cơ quan điều tra thuế. Đáng chú ý là những kết quả
từ loại hình kiểm toán hoạt động tại các dự án đầu tư được Chính phủ giao (Cầu Vĩnh
Tuy, Dự án Đường 5 kéo dài, Trung tâm Hội nghị Quốc gia… ); các Chương trình mục
tiêu quốc gia (Chương trình 135, Chương trình Vệ sinh nước sạch và môi trường,
Chương trình mục tiêu quốc gia về Giáo dục và Đào tạo…); Chuyên đề Quản lý và sử
dụng phí giao thông đường bộ, Đề án 112 của Chính phủ… đã đánh dấu sự lớn mạnh về

chất của nước ta thông qua những đề xuất với Quốc hội, Chính phủ hoàn thiện hệ thống
pháp luật và cơ chế quản lý, giúp cho các Bộ, ngành, địa phương, các đơn vị được kiểm
toán phát huy những mặt tích cực, khắc phục các khâu yếu trong hệ thống quản lý và
kiểm soát nội bộ...
Có thể, nói với kết quả kiểm toán mà đã phát hiện được từ những sai phạm trong
quản lý và sử dụng ngân sách dẫn đến thất thoát là rất lớn không chỉ là con số tăng thu,
tiết kiệm chi hàng ngàn tỷ đồng cho NSNN, mà thông qua hoạt động kiểm toán nhà nước
đã giúp cho các đơn vị được kiểm toán ngăn ngừa được những tiêu cực, lãng phí, thất
thoát tiền, tài sản, hoàn thiện hơn công tác quản lý đảm bảo sử dụng nguồn lực tài chính
quốc gia một cách tiết kiệm và hiệu quả hơn; bên cạnh đó còn góp phần cung cấp thông
tin toàn diện, xác thực về tình hình quản lý tài chính và điều hành ngân sách của các cấp,
các Bộ ngành, các doanh nghiệp; đặc biệt, KTNN còn kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội
và các cơ quan thẩm quyền góp phần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách quản
lý tài chính và tăng cường hiệu lực quản lý.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường với gần 20 năm hoạt động, bên
cạnh KTNN, Kiểm toán độc lập của Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô
công ty cũng như nâng cao năng lực chuyên môn và chất lượng dịch vụ. Hầu hết các dịch
vụ do các công ty kiểm toán cung cấp đã ngày càng được xã hội thừa nhận. Thông qua
các hoạt động dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính, kế toán, các công ty đã góp phần
SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
23


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

phổ cập cơ chế chính sách kinh tế tài chính, thực hiện công khai minh bạch báo cáo tài
chính của các DNNN, ngăn ngừa lãng phí, tham nhũng, phục vụ đắc lực cho công tác
quản lý và điều hành kinh tế - tài chính của Nhà nước.Thông qua dịch vụ kiểm toán, đặc

biệt là kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty đã góp phần giúp các doanh nghiệp, các
dự án quốc tế, các đơn vị hành chính sự nghiệp nắm bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ
đúng các quy định của các chính sách kinh tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý,
tạo lập được những thông tin tin cậy, từng bước đưa công tác quản lý tài chính, kế toán
trong các DNNN vào nề nếp… Hoạt động kiểm toán độc lập đã xác định vị trí trong nền
kinh tế thị trường và đã góp phần quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá môi trường
đầu tư và nền tài chính quốc gia.
Việc kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, mặc dù chi phí rất thấp,
nhưng các công ty kiểm toán đã giúp các đơn vị xác định giá trị vốn đầu tư đúng đắn, góp
phần loại bỏ các chi phí không hợp lý, hợp lệ, tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng cơ bản,
góp phần làm lành mạnh hoá tài chính trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Trong khi KTNN chưa đáp ứng được việc kiểm toán hàng năm đối với tất cả các
đơn vị thụ hưởng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, các Bộ, ngành và địa phương đã
chủ động yêu cầu các đơn vị hành chính sự nghiệp thuê Kiểm toán độc lập kiểm toán báo
cáo tài chính. Kiểm toán độc lập ngoài hoạt động chính là kiểm toán và tư vấn còn giữ
một vai trò quan trọng trong việc đào tạo, phổ biến, hướng dẫn chế độ, chính sách quản
lý kinh tế tài chính, thuế, kế toán trong nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù mới chỉ xuất hiện từ năm 1997, kiểm toán nội bộ đã từng bước hình thành
và phát triển, bước đầu đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận tại một số đơn vị và
tổng công ty nhà nước. Kiểm toán nội bộ đã có những đóng góp thiết thực cho việc kiểm
soát, quản trị nội bộ, phát hiện và ngăn chặn kịp thời những vi phạm trong hệ thống quản
lý của đơn vị.
Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, hoạt động kiểm toán của Việt Nam
trong những năm qua đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và kiến nghị xử lý
những vi phạm về quản lý NSNN, giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát và giúp Chính
phủ quản lý chặt chẽ hơn trong hệ thống NSNN nhằm chống thất thu, bội chi, lãng phí
NSNN ở các Bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp nhà nước; góp phần làm minh bạch
nền tài chính quốc gia trong tiến trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam.

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga

Lớp: Kiểm toán 49C
24


Đề án môn học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy

SV: Nguyễn Thị Thanh Nga
Lớp: Kiểm toán 49C
25


×