Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn giáo dục tư tưởng đạo đức hồ chí minh trong dạy học lịch sử việt nam lớp 11, 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.05 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh người con ưu tú của dân tộc, là danh nhân văn hóa
của thế giới. Người là kết tinh của tư tưởng “Đại nhân, Đại nghĩa”. Người để
lại cho dân tộc ta một tư tưởng cách mạng, một nhân cách đạo đức cao cả.
Người đã làm “rạng rỡ non sông ta, đất nước ta”. Suốt cuộc đời hi sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc học tập, rèn luyện tư tưởng,
đạo đức, lối sống và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là việc làm hết
sức cần thiết. Bởi vì tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng của xã hội, là
động lực vượt qua khó khăn, thử thách để phát triển kinh tế đất nước, hoàn thiện
nhân cách của mỗi người.
Nhưng hiện nay vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường
đang đứng trước một thách thức không nhỏ. Ảnh hưởng tác động của phim, ảnh,
lối sống hưởng thụ, các trò chơi điện tử mang nặng lối sống bạo lực….. bên
cạnh đó một số phụ huynh lo công việc, ít có thời gian quan tâm đến con cái chỉ
phó mặc cho nhà trường. Một khía cạnh khác là suy nghĩ của một số phụ huynh
và học sinh chỉ quan tâm đến các môn học tự nhiên, coi môn lịch sử là “môn
phụ”. Bộ môn lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh, giáo dục học sinh lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
lòng biết ơn ông cha ta đổ bao mồ hôi xương máu mới có được cuộc sống tốt
đẹp như ngày hôm nay, giáo dục cho học sinh tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội…
Chính vì vậy, bài dạy lịch sử Việt Nam cần phải “giáo dục tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh” để học sinh thấm nhuần tư tưởng đạo đức của Bác. Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức của Bác để sau này trở thành những công dân có
đủ phẩm chất cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng đất nước. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 11, 12”.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, tôi muốn tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử Việt Nam lớp
11,12 ra sao? Trên cơ sở đó tôi lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí


Minh vào tiết học Lịch sử Việt Nam theo hướng tích cực giúp cho giáo viên và
học sinh yêu thích môn lịch sử và nâng cao kiến thức hiểu biết và chất lượng dạy
học bộ môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh bậc THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng hợp

1


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Đai-ri nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói: “Dạy sử cũng như bất cứ dạy
cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là bắt
buộc cái trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi tả lại..”. Như vậy, mục đích của
việc dạy học lịch sử ở trường người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình
dung được những hình ảnh của quá khứ, biết và ghi nhớ được các sự kiện, hiện
tượng của lịch sử mà quan trọng hơn là phải hiểu được lịch sử và thấm nhuần
được các giá trị, tinh hoa văn hóa nhân loại. Bên cạnh đó, dạy học lịch sử có thể
giáo dục cho các em tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, thông qua đó các em tự
rèn luyện bản thân mình vừa có tài vừa có đức, yêu đất nước, yêu hòa bình và
biết trân trọng những thành quả đạt được.
Xuất phát từ nhu cầu chung của xã hội, bộ môn lịch sử trong nhà trường
nói chung và trong lịch sử Việt Nam lớp 11, 12 nói riêng đã được đổi mới về nội
dung, chương trình, sách giáo khoa điều đó đã phát huy được tầm quan trọng
của bộ môn lịch sử. Thực tế cho thấy một số giáo viên trong quá trình dạy cũng
có giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh thông qua các câu chuyện nhưng
không nói rõ câu chuyện đó giáo dục cho các em tư tưởng, đạo đức gì của Bác

để từ đó các em học tập và làm theo tấm gương của Người.
Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từng bước hội nhập quốc tế để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, sánh
vai cùng với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực hiện mục tiêu “xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
chủ nghĩa xã hội”. Học sinh khi ra trường phải là người vừa có tài, có đức “vừa
hồng, vừa chuyên”.
Cùng với các môn Ngữ văn, Giáo dục công dân …. Giáo dục đạo đức cho
học sinh qua tiết học lịch sử là rất quan trọng. Vì môn lịch sử xuyên suốt tiến
trình lịch sử của dân tộc, mỗi thời đại đều xuất hiện những anh hùng dân tộc có
đầy đủ phẩm chất đạo đức để giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc đưa đất nước ta
phát triển. Tiêu biểu trong các vị anh hùng dân tộc đó là chủ tịch Hồ Chí Minh
vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp
cách mạng. Người là kết tinh các phẩm chất cao đẹp của dân tộc ta suốt mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước. Người đã đi xa nhưng Người đã để lại cho
dân tộc một di sản tinh thần hết sức to lớn trên mọi lĩnh vực. Những tư tưởng
của Người là “ kim chỉ nam” cho mọi hoạt động của Đảng và nhà nước ta. Hiện
nay toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang thực hiện học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Là giáo viên dạy học lịch sử, qua một số năm
giảng dạy, tôi nhận thấy rằng việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các bài giảng là vô cùng cần thiết nhằm nâng cao được tư tưởng đạo
đức cách mạng cho học sinh.
Trước những biến động phức tạp của thế giới một bộ phận cán bộ, đảng viên
có lối sống thiếu mẫu mực, thậm chí biểu hiện suy thoái về đạo đức. Lối sống đã
ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của Đảng, niềm tin của nhân dân. Vì vậy để
giáo dục thế hệ trẻ tin tưởng vào bản chất, truyền thống tốt đẹp của Đảng, tin
2



tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có lối sống lành mạnh, tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội thì việc lồng ghép giáo dục đạo đức tư tưởng của Bác trong dạy
lịch sử Việt Nam có tác dụng lớn góp phần hình thành nhân cách, lối sống của
học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua nắm bắt tình hình và trao đổi với đồng nghiệp về việc giảng dạy các tiết
lịch sử Việt Nam có liên quan đến Hồ Chí Minh ở trường trung học phổ thông
bản thân nhận thấy:
* Về phía giáo viên:
Khi giảng dạy một tiết lịch sử Việt Nam có liên quan đến Hồ Chí Minh rất
đơn giản, chỉ cần kể cho các em một số mẩu chuyện là được và trong giáo án
không cần thể hiện câu chuyện ra, nhưng thông qua câu chuyện thì giáo viên
chưa giáo dục cho các em về các tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh để các em
thấm nhuần và học tập theo. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa thật sự chú
trọng việc giáo dục đạo đức tư tưởng của Người thông qua tiết lịch sử học lịch
sử Việt Nam.
* Về phía học sinh:
Tâm lí học sinh vẫn xem nhẹ bộ môn Lịch sử và coi Lịch sử là môn phụ,
các em chưa thực sự tập trung tìm hiểu sâu bài học mà chỉ dừng lại ở mức độ
học thuộc những gì thầy cô cho ghi. Mặt khác bộ môn Lịch sử vốn khô khan, dễ
nhàm chán, nhiều giáo viên chưa có phương pháp phù hợp nên các em không ưa
thích, không hứng thú.
Học sinh chưa có thói quen tìm hiểu các mẩu chuyện về Hồ Chí Minh hoặc
còn thờ ơ hoặc còn chưa biết đến các tư tưởng đạo đức của Người. Vì những
kiến thức này nó không có sẵn trong sách giáo khoa nên các em chưa có ý thức
học tập hoặc hiểu rõ tư tưởng đạo đức của Người, việc lồng ghép giáo dục tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn gặp khó khăn.
2.3. Giải pháp
2.3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
Đối với công việc dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, việc chuẩn

bị của giáo viên là vô cùng cần thiết. Ngoài việc xác định mục đích, yêu cầu, đồ
dùng dạy học liên quan đến bài dạy. Giáo viên còn dự kiến cho bài dạy, dạy mục
nào, chuẩn bị đồ dùng dạy học gì, kiến thức cho mục đó ra sao… Đối với những
bài dạy liên quan đến việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thì giáo viên
phải xác định nội dung cần giáo dục, giáo dục thời điểm , cách giáo dục như thế
nào cho phù hợp với bài dạy… dùng hình ảnh tư liệu, nội dung tài liệu liên quan
đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi vì tư tưởng đạo đức của Bác là rộng, trên nhiều
lĩnh vực… Cần phải chọn lọc, linh hoạt vận dụng một tư tưởng nào đó để lồng
ghép vào bài dạy. Khi áp dụng phải chú ý đến thời gian phân bố trong tiết học.
Không được “tham” kiến thức, sa đà, không được biến giờ dạy lịch sử thành tiết
kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh.
2.3.2. Tiến hành giáo dục trong giờ học
Đối với việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử
có thể thông qua nhiều hình thức. Trong một bài dạy có thể dùng hình ảnh tư
liệu, phim tư liệu, kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh, trích dẫn những câu nói của
3


Bác hoặc trích dẫn những tư liệu văn học về Bác để giáo dục tư tưởng của
Người đối với học sinh. Tôi đã giáo dục cho học sinh một số tư tưởng đạo đức
của Bác Hồ thông qua một số bài học như sau:
Bài học thứ nhất: Giáo dục cho học sinh tinh thần cứu nước, quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc.
Khi dạy Bài 24 - Việt nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918), phần III – Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới ta giáo dục
cho học sinh tinh thần cứu nước, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước cho dân
tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên 15 tuổi. Người thiếu niên
ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy
giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia

công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không
hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì: Cụ Phan Chu Trinh chỉ
yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng
khác gì xin giặc rủ lòng thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy
hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". Cụ Hoàng Hoa
Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người
ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến. Nghiên cứu những bài học lịch sử của
các bậc cha, anh và khảo nghiệm trong thực tiễn, anh Nguyễn Tất Thành thấy
rằng mọi cách thức tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, sang Trung
Quốc, hay Nhật Bản đều không thể thành công. Những con đường mà các bậc sĩ
phu đã đi đều bị kết thúc bằng những thất bại đau đớn. Phải tìm con đường khác,
con đường mới; phải đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác. Đó là kết
luận rất quan trọng của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước
mãnh liệt và một cách suy nghĩ táo bạo, một trí tuệ hết sức minh mẫn quyết
khám phá bằng được con đường đi đến giải phóng cho đồng bào.Tư tưởng quyết
hướng sang nước Pháp tìm đường cứu nước sớm nảy sinh ở Nguyễn Tất Thành.
Nhưng anh cần có thời gian chuẩn bị, suy nghĩ chín chắn hơn, để phác họa con
đường sẽ đi, ít ra là chặng đầu.
Tháng 5 năm 1909, Nguyễn Tất Thành từ giã Huế theo cha vào huyện Bình
Khê thuộc tỉnh Bình Định (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) nhân ông
Nguyễn Sinh Sắc được cử nhận chức tri huyện ở đó. Để tiếp tục việc học tập, từ
tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm
tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ
Quy Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng. Ông Phạm Ngọc Thọ kính trọng
quan thừa biện Nguyễn Sinh Huy và rất mến Tất Đạt, Tất Thành. Tất Thành rất
yêu quý Phạm Ngọc Thạch, con trai ông Thọ. Trên đường từ Huế vào Sài Gòn,
để đáp tàu ra nước ngoài tìm "con đường giúp đồng bào thoát khỏi ách thống
trị của Pháp", Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc, tức là Chủ tịch

Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, đã dừng chân lại tỉnh Bình Định một thời gian
đáng kể. Khoảng thời gian đó nếu tính đến đầu tháng 8-1910 là hơn 12 tháng, từ
18-5-1909 đến 30-7-1910).
4


Vào một ngày đầu thu tháng 8-1910, Nguyễn Tất Thành tạm biệt Quy Nhơn,
đi vào Sài Gòn. Phong cảnh tươi đẹp, đất đai màu mỡ, rừng vàng biển bạc,
nhưng đâu đâu cũng thấy có những con người lam lũ, rách rưới. Lần theo ven
biển đi đến Phan Rang, anh thấy một cảnh tượng đau lòng mà mấy năm sau, anh
còn nhắc lại với một người bạn: Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt,
song có những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó
cũng thế. Ở ta, tôi cũng thấy chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười
sặc sụa trong khi đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính
mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng không đáng một đồng xu.
Từ nửa sau tháng 9-1910 đến trước tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành dạy
học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Thời gian đầu, thầy Thành ở nhờ nhà cụ
Hồ Tá Bang, sau chuyển ra ở cùng với học sinh nội trú của trường tại nhà Ngư
trong vườn cụ Nguyễn Thông. Thầy Thành được phân công dạy chữ Hán và chữ
quốc ngữ cho học sinh lớp nhì. Thầy dạy rất tận tâm, hết lòng thương yêu, chăm
sóc học sinh. Thầy đã trao đổi tâm tư về thân phận người dân mất nước nhiệm
vụ cứu nước của mỗi người dân Việt Nam, trước hết là thanh niên có học thức
với các thầy giáo và học sinh. Vấn đề thầy Thành đặt ra cũng là nỗi băn khoăn
chung của thầy và trò, nên đã có ngay được sự đồng cảm sâu sắc, cùng nhau đào
sâu chí căm thù và bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc,
bày mưu tính kế đánh đuổi quân thù.
Sau mấy tháng dạy học ở Trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời
trường đi vào Sài Gòn, thực hiện hoài bão từng nung nấu là tìm cách đi sang
Pháp và các nước phương Tây để xem "họ làm như thế nào rồi trở về giúp
đồng bào chúng ta". Khi nhiều người đang ngoảnh nhìn về phương Đông với

sự ngưỡng mộ “người anh cả da vàng” Nhật Bản - một đế quốc mới ở châu Á đã chiến thắng nước Nga Sa hoàng năm 1905, hay ngưỡng vọng bác sĩ Tôn Dật
Tiên với chủ nghĩa Tam dân nổi tiếng và cách mạng Tân Hợi 1911 ở Trung Quốc
thì Nguyễn Tất Thành tìm đường sang phương Tây, đến nước Pháp, đến nơi sản
sinh ra những lời đẹp đẽ: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” đã từng làm rung động
lòng mình khi còn ở tuổi thiếu niên. Nguyễn Tất Thành muốn đến tận nơi sinh ra
những lý tưởng cao đẹp đó để tìm hiểu xem làm sao người Pháp có được Tự do Bình đẳng - Bác ái...
Trước ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bàn với một số người
bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài. Anh nói: tôi muốn đi ra ngoài, xem nước
Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp
đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví
như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không? Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền
mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay:
Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống
và để đi.
Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Amiran
Latusơ Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao
đang chuẩn bị rời Cảng Sài Gòn đi Mác Xây, Pháp. Ngày 3 tháng 6 năm 1911,
Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, nhận thẻ nhân
viên của tàu với tên mới: Văn Ba. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành
5


từ cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) rời Tổ
quốc.

Người thanh niên 21 tuổi ấy ra đi với mục đích gì? Để kiếm kế sinh nhai, hay
để thỏa mãn một ước mơ xa lạ nào đó của tuổi trẻ? Điều đó, hơn mười năm sau
chính Người đã trả lời nhà báo, nhà thơ Nga ÔXip Mandenstan rằng: Vào trạc
tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những từ “Tự do- Bình đẳng – Bác
ái”. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã

nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem
những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy. Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna
luy Xtirông, Người nói: Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi,
lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp.
Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi
thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào tôi. Nguyễn Ái Quốc là một trong số rất hiếm hoi thành
viên của Đảng Xã hội Pháp khi đó là người dân của một xứ thuộc địa. Trong
mùa hè năm 1919, người ta thấy Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trong các cuộc họp
của Đảng Xã hội, trong các cuộc họp của Tổng công hội, Hội Nhân quyền...
Bài học thứ hai: Giáo dục tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế, “Bốn
phương vô sản đều là anh em” của Bác.
Khi dạy Bài 24 - Việt nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918) lớp 11, phần III – Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới ta giáo
dục cho học sinh tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế, “Bốn phương vô sản đều
là anh em” của Bác.Từ năm 1911-1917 Bác đi khắp thế giới Bác từng đi thăm
khu phố Hac-lem nơi ở của người da đen ở Mĩ, Người hiểu rõ được bản chất tàn
bạo của chủ nghĩa thực dân. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư bản cũng như thuộc địa. Sau khi
sang Pháp Người nhận xét: “Người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông
Dương”. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và nhân
6


dân lao động, đồng thời cũng thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế
sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người
nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp
bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: "Dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc
lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà

thôi: tình hữu ái vô sản" Vì vậy muốn đánh đổ đế quốc thực dân thì vô sản
quốc tế phải đoàn kết lại. Qua việc giáo dục tư tưởng tình đoàn kết quốc tế
“Bốn phương vô sản đều là anh em” từ đó hình thành cho học sinh cách nhìn
nhận “bạn” “thù” một cách rõ ràng, rành mạch. Đó chính là tinh thần đoàn kết
với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột mà Hồ Chí Minh đã dày công vun
đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc.
Khi dạy Bài 12 - Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam từ 1919 đến năm
1925 lớp 12, phần những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ta giáo dục cho học
sinh tư tưởng tinh thần đoàn kết quốc tế. Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị
"hòa bình" Vécxai "Bản yêu sách của nhân dân An Nam", lần đầu tiên xuất
hiện trên vũ đài quốc tế, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng sát cánh cùng các
dân tộc bị áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng, hợp tác quốc tế. Mười năm vận
động, trải nghiệm ở nhiều nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định, cuộc đấu tranh
của Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát biểu đầu tiên tại Đại hội Tua
(12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân tộc bị áp
bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân
dân lao động ở các nước thuộc địa, khi đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, các nước
thuộc địa và phụ thuộc muốn được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ
nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để chống kẻ thù chung. Cũng là
một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng, sức mạnh đoàn kết của các
dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ. Người
đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi". Một vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Muốn giết
con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại tiếp
tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư
bản, đánh đổ chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc
địa. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Hành

trình qua các nước giúp Hồ Chí Minh nhận thấy rằng phải có được quan hệ hợp
tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm
1921, Người khẳng định thực dân đế quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và
cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi vậy, để chống lại kẻ thù
chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn
kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Điểm mới
và sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người đã chứng minh được bọn đế
quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị
nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính quốc.
7


Từ năm 1924, Người đã trở thành một trong những cán bộ Châu Á đầu
tiên thực thi nhiệm vụ liên kết giữa các dân tộc Châu Á với phong trào vô sản
thế giới. Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và
bảo vệ nền độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm chăm lo
phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước Châu Á, Châu Phi, Châu
Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và khẳng định sự ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đồng
thời, Người còn luôn nhấn mạnh những nhiệm vụ đối với cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc của nhân dân các nước này. Kết luận này cho thấy nhận thức của
Hồ Chí Minh về ý thức dân tộc và ý thức giai cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới
tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc
tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới, luôn
gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc
tế.
Bài học thứ ba: Giáo dục tư tưởng: Suốt cuộc đời hoạt động của Bác
là giải phóng giai cấp, giải phóng loài người xây dựng một xã hội tốt đẹp
không còn người bóc lột người.
Khi dạy Bài 12 - Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam từ 1919 đến năm

1925 lớp 12, phần những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ta giáo dục cho học
sinh tư tưởng Suốt cuộc đời hoạt động của Bác là giải phóng giai cấp, giải phóng
loài người xây dựng một xã hội tốt đẹp không còn người bóc lột người.
Ra đi tìm đường cứu nước với tuổi đời còn rất trẻ và từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến, lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa có một ý niệm rõ ràng về giai cấp, đấu
tranh giai cấp, đảng chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin...
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người
Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vec-xai bản yêu sách đòi tự do,
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Tuy không được chấp nhận nhưng việc
làm đó gây tiếng vang rất lớn đối với dân tộc Việt Nam, nhân dân Pháp và các
dân tộc thuộc địa.
Tháng 7/1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các dân
tộc và thuộc địa” của Lê-nin. Ngồi một mình trong phòng, Người sung sướng
muốn phát khóc lên. Người nói một mình như đang nói với toàn thể dân tộc
“Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng cho chúng ta. Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Như vậy từ
một người yêu nước chân chính, Người đến với chủ nghĩa Mác -Lê-nin, tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
Từ những hoạt động thực tiễn trên và đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanité tháng
7/1920, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong bối cảnh bấy giờ, có nhiều
trí thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể hiện tính vượt trội của tư
tưởng khi nhận ra được chân lý lớn nhất của thời đại. Luận cương đã giải đáp cho
Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc,
trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách
mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận
8



cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn
Ái Quốc.
Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc ngày càng có
hệ thống và hoàn thiện khi Người tham gia Đảng Cộng sản Pháp, học tập ở Đại học
phương Đông, sống trong không khí sục sôi ở trung tâm phong trào cộng sản ở
Nga, hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Nhận thức của Người về sức mạnh của
nhân dân lao động thế giới, về mối quan hệ giữa các dân tộc bị áp bức, giữa cách
mạng ở các nước thuộc địa và các nước chính quốc trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân, về chính quyền
cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng… ngày càng sâu sắc và có những luận
điểm bổ sung, phát triển, sáng tạo. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành
Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tháng 12/1920 là một
mốc lịch sử quan trọng trong hành trình đi tìm đường cứu nước của Người, đánh
dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư
tưởng và lập trường chính trị của Người - từ một nhà yêu nước chân chính trở
thành một chiến sĩ cộng sản.
Đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây,
Người bắt đầu xây dựng những nhân tố bảo đảm cho cách mạng Việt Nam: truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, khơi dậy tinh thần đấu tranh của các tầng
lớp nhân dân, xây dựng tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển
lực lượng cách mạng… Việc Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn
tắt do Người dự thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất, chứng tỏ đến 1930, tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam đã được hình thành
cơ bản. Sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước
để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Một trang mới mở ra trong cuộc
đời cách mạng của Người và cũng là bước ngoặt mới cho cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Bài học thứ tư: Giáo dục tư tưởng: Chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ
cách mạng đời sau.
Khi dạy Bài 13 - Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam từ 1925 đến năm

1930 lớp 12, phần sự ra đời và hoạt động của Hội Việt nam cách mạng thanh
niên ta giáo dục tư tưởng: chăm lo, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng đời
sau.
Thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc giáo viên nêu rõ. Để giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp Người rất chăm lo bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho
thế hệ thanh niên. Người tập hợp thanh niên yêu nước trong tổ chức “Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên” giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -Lênin cho
thanh niên. Người mở lớp huấn luyện, đào tạo cho thanh niên yêu nước từ trong
nước sang. Một số thanh niên xuất sắc được chọn đi học trường Đại học Phương
Đông ở Liên xô, một số học trường quân sự ở Trung Quốc và Liên xô, còn lại về
nước hoạt động. Những người này trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng sau
này như đồng chí Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong….Còn lại
cử về nước hoạt động đi vào phong trào công nhân tổ chức, giác ngộ quần chúng
đấu tranh gây dựng cơ sở cách mạng. Để chuẩn bị ra đời một Đảng của giai cấp
công nhân năm 1925 Người thành lập tổ chức "Hội Việt Nam cách mạng
9


thanh niên" Đây là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng suôt cuộc đời hoạt động của Bác lúc nào
Người cũng chăm lo bồi dường đội ngũ kế cận, chăm lo giáo dục tưởng cách
mạng cho thế hệ thanh niên bởi vì tổ chức Đoàn là cánh tay đắc lực của Đảng,
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là tiền thân của sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam. Suốt trong cuộc đời hoạt động của Người lúc nào Người cũng
chăm lo bồi dưỡng tinh thần cách mạng cho các thế hệ sau. Năm 1925 trong bài
“Gửi thanh niên An Nam” Người nhắc nhở “Hỡi Đông Dương đáng thương
hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của người không sớm hồi
sinh”.
Ngày nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thanh niên là lực
lượng nòng cốt của sự nghiệp này. Vì thanh niên là lực lượng có sức khỏe, có

hoài bão, có nghị lực, có văn hóa….. Từ việc giáo dục tư tưởng này để cho học
sinh nhận thức được vài trò của thế hệ thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc từ đó ra sức học tập, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khi dạy Bài 17 lớp 12 - Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền
dân chủ nhân dân (1945-1946) ta giáo dục tư tưởng: chăm lo, bồi dưỡng cho
các thế hệ cách mạng đời sau của Người.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, tháng 9 - 1945, Bác đã viết thư
gửi học sinh, sinh viên toàn quốc. Trong thư có đoạn viết: “Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang
để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các em”.
Bác khuyên nhủ thanh thiếu niên phải ra sức học tập, rèn luyện để tự mình
có đủ sức mạnh để tham gia kháng chiến, kiến quốc, gìn giữ hòa bình, xây dựng
đất nước mạnh giầu, phồn vinh. Bác rất tin tưởng thanh niên, tin vào ý chí, nghị
lực và quyết tâm đánh thắng “giặc ngoại xâm”, “giặc đói”, “giặc dốt”; làm
rạng danh dân tộc, giống nòi Việt Nam. Với tuổi trẻ, óc sáng tạo và sự dồi dào
sức lực, thanh niên có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành trách
nhiệm vẻ vang mà cả dân tộc giao phó. Bác viết: “Không có việc gì khó; chỉ sợ
lòng không bền; đào núi và lấp biển; quyết chí ắt làm nên”.Bác không chỉ
chăm lo bồi dưỡng tư tưởng cách mạng cho thế hệ thanh niên mà Người còn
quan tâm đến các cháu thiếu niên nhi đồng. Để làm tốt công tác giáo dục đào
tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Bác đề cao vai trò, trách nhiệm, sự
nêu gương, mẫu mực, mẫn cán của đội ngũ cán bộ và các thế hệ cha, anh, những
người đi trước. Theo Bác, thế hệ đi sau phải tiến bộ hơn thế hệ đi trước mới tốt,
nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước, như thế là thụt lùi, là đáng phê
bình. Và đó cũng là khuyết điểm của người lớn tuổi, thế hệ cha anh. Vì vậy, dù
bận trăm công ngàn việc, Bác đều dành thời gian quan tâm đến các cơ sở giáo
dục và đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác giáo dục đào tạo; coi đó là một
trong những nhiệm vụ quan trọng, chiếm vị trí hàng đầu của việc phát huy nhân

tố con người. Theo Bác, chống “giặc dốt”, “giặc đói” cũng cấp bách, hệ trọng
như chống giặc ngoại xâm. Trong suy nghĩ và việc làm của Bác, vấn đề nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đều là những công việc cần
10


thiết, nên làm vì nó phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; vì “cả hai
việc đó đều cần phải có nhân tài”.
Trong bản “Di chúc”, Người viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là việc làm rất quan trọng và cần thiết”, đoàn viên, thanh niên ta nói chung
là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn có chí tiến thủ,
Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Sớm nhận rõ vị trí, vai trò của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, Bác đã coi việc thức tỉnh thanh niên, kêu gọi họ đứng lên cùng đồng
bào cả nước đánh đuổi quân xâm lược bằng việc đẩy mạnh công tác giáo dục
đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Bởi vì, theo Bác, thế hệ trẻ không những là lớp
người kế tục, tiếp bước các thế hệ già, mà còn là tương lai, tiền đồ tươi sáng của
dân tộc. Với ưu thế là lớp người trẻ tuổi, có sức khỏe, nhiệt tình, hăng hái, ham
hiểu biết, ham tiếp thu cái mới, giầu sức sáng tạo; thế hệ trẻ có đủ các điều kiện
để “dời non, lấp bể”, làm nên sự nghiệp cách mạng. Bác đã ví thanh thiếu niên
là “mùa xuân của tuổi trẻ”, “mùa xuân của xã hội”, “là tương lai, tiền đồ của
nước nhà”. Vì thế, sự phát triển lâu dài của đất nước rất cần có sự giúp đỡ của
thanh niên; phụ thuộc một phần lớn vào thanh niên và công tác thanh niên của
Đảng, Nhà nước ta. Không ít lần, Bác khẳng định: Thanh thiếu niên là người
làm chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một
phần lớn là do các thanh thiếu niên và sự tiến bộ của họ. Cũng vì thế, Bác luôn
căn dặn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và khuyên bảo thanh thiếu niên:
Các cháu muốn thực sự làm chủ tương lai nước nhà thì ngay hiện tại “phải rèn
luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cho cái

tương lai đó”.
Giáo viên liên hệ thực tế để giáo dục học sinh. Ngày nay đất nước hòa
bình.Cả nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì mỗi học sinh
phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, chiếm lĩnh đỉnh cao
của tri thức. Để sau này góp phần xây dựng đất nước.
Bài học thứ năm: Giáo dục cho học sinh tinh thần vì dân vì nước của
Bác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, là
kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng lấy "dân làm gốc" ra đời trong truyền
thống dựng nước, giữ nước của dân tộc và học thuyết Mác- Lênin về vai trò của
quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn - Chủ tich Hồ Chí Minh đã nâng tư
tưởng “Nước lấy dân làm gốc” lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học,
vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Người về vai trò quần chúng nhân dân
là: "Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm gốc". Đây chính là chân lý
mà Người đúc kết được sau bao năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài và tổng kết
từ thực tiễn cách mạng trong nước. Bác khẳng định:“Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy lực lượng
cách mạng vô tận của nhân dân” . “Trong cuộc kháng chiến kiến quốc lực
11


lượng chính là ở dân”. “Cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần
của dân, để gây hạnh phúc cho dân” . "Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân" .
Tư tưởng này xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Bác, thể hiện qua
nhiều bài dạy. Suốt cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ khi ra đi tìm đường
cứu nước đến khi vĩnh biệt chúng ta Người chỉ có một ham muốn “Ham muốn

tột bậc là làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành….” Bác đã
từng căn dặn các vị lãnh đạo “Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đem lại cơm no, áo ấm cho dân, nếu độc lập, dân còn nghèo đói thì độc
lập không có nghĩa lí gì”.
Khi dạy Bài 16 - Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
Tám (1939 – 1945 ). Nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra đời lớp12. Sau khi
Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp bị đánh bại trên toàn Đông Dương, quân Đồng
Minh chuẩn bị kéo vào Đông Dương. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã chín muồi.
Trong lúc Bác đang bị bệnh rất nặng , Bác cầm tay các đồng chí cách mạng căn
dặn “Thời cơ đã đến dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng cố giành cho được
độc lập”. Dù hoàn cảnh nào Bác vẫn nghĩ tới dân tộc.
Khi dạy Bài 17 lớp 12 - Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền
dân chủ nhân dân (1945-1946) phần tình hình nước ta sau cách mạng tháng
Tám. Ngay sau khi Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi từ chiến khu Bác về Hà Nội,
Người rất đau lòng khi thấy nhân ta trải qua trận đói khủng khiếp hậu quả chính
sách cai trị tàn bạo của thực dân, phong kiến. Vì vậy ngay sau khi đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Người đã ra sắc lệnh
diệt “giặc đói” Bản thân Bác cũng nhịn ăn để dành gạo cứu đói.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân, ngay cả khi cách
mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” Người vẫn một lòng tin
tưởng vào nhân dân. Người cho rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân việc gì
cũng làm được” và Người thường xuyên động viên nhắc nhở:“chúng ta phải
ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc khó khăn
mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ
2.4. Hiệu quả của đề tài
Qua nhiều năm vận dụng phương pháp dạy học lồng ghép giáo dục tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy lịch sử ở các khối lớp 11 và 12, tôi
đã thu được một số kết quả rất khả quan: học sinh tiếp thu kiến thức bài giảng dễ
dàng hơn, hiểu được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc tản

mạn trong kiến thức, góp phần quan trọng hoàn thiện nhân cách học sinh.
Kết quả giảng dạy bộ môn của tôi trong nhiều năm liền luôn đạt ở mức
cao: 75% khá giỏi, 25% trung bình, Không có học sinh yếu kém, học sinh hứng
thú học tập môn sử hơn.
12


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy học là việc làm sáng tạo. Giáo viên được mệnh danh là “kĩ sư tâm hồn,
là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa”. Vì vậy để dạy tốt gây hứng thú cho học
sinh, góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh qua tiết học lịch sử thì mỗi giáo
viên cần phải sử dụng các phương pháp dạy học. Tùy theo nội dung bài học, tùy
theo đối tượng học của từng khối, lớp. Đối với việc lồng ghép giáo dục đạo đức
cho học sinh thông qua việc lồng ghép giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
trong tiết học lịch sử, thì giáo viên phải biết linh hoạt, phân bố thời gian, kiến
thức cho phù hợp với từng bài. Tránh tình trạng giáo viên quá sa đà dẫn đến việc
biến tiết học lịch sử thành tiết kể chuyện đạo đức Hồ Chí Minh. Không truyền
thụ hết nội dung trong bài học.
Bản thân tiếp tục vận dụng lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh trong dạy học lịch sử để tích hợp, củng cố, nâng cao kiến thức, hiểu biết
về Hồ Chí Minh nhằm góp phần quan trọng trong lĩnh vực đào tạo thế hệ trẻ
trong giai đoạn hiện nay mà môn lịch sử là một phần quan trọng trong việc hình
thành nhân cách thế hệ trẻ.
Tư tưởng của Bác vô cùng rộng lớn, trên nhiều lĩnh vực là “Kim chỉ nam”
cho mọi hoạt động của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Trên đây là một số giải pháp để
lồng ghép giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử Việt
Nam lớp11, 12 chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong sự trao đổi, đóng góp
của đồng nghiệp để nhiệm vụ dạy- học được tốt hơn.
3.2. Kiến nghị

* Đối với Sở giáo dục đào tạo:
Cung cấp thường xuyên, kịp thời các loại sách tham khảo về nghiệp vụ
chuyên môn cho các trường THPT.
Mở các buổi hội thảo bộ môn có tính chất điển hình, tạo cho giáo viên có
điều kiện trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn
* Đối với nhà trường:
Tạo điều kiện tổ chức các hoạt động ngoại khoá: ngày hội lịch sử, đố vui lịch
sử, cung cấp đầy đủ trang thiết bị của bộ môn…
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh hóa ngày 25 tháng 2 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPY

Trịnh Thị Hạnh

13



×