1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1. Xuất phát từ tính hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập giáo dục quốc
tế của phương pháp:
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm
nghiên cứu và ứng dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Với chỉ thị “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ
chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp
giảng dạy.” [1; tr 27]; Nhằm hướng tới “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và
nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục năm 2005, Điều
2).
Bởi vậy, “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn
học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá
trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong
chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV
và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm,
tham khảo” [1; tr 40].
Như vậy, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu thế hội nhập quốc
tế ... đang rất cần những con người được trang bị đầy đủ những năng lực cần
thiết, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Trước yêu cầu đó,
phương pháp giáo dục phổ thông cũng cần được đổi mới theo hướng “phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên” (Luật Giáo dục năm 2005, Điều 5).
1.1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong nhà trường phổ thông:
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách,
giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động ... Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, các em thường
xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được
đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó
khăn, thử thách, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi
kéo vào các hành vi tiêu cực, theo tà đạo, ứng xử bạo lực, sống ích kỉ, lai căng,
thực dụng, ... Vì thế mà dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. “Một trong những
nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ
thông trong thời gian qua như: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn
chơi sa đọa, ... chính là do các em thiếu những kĩ năng sống cần thiết như: kĩ
năng xác định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu
thuẫn, kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp, ...” [3; tr 11].
1
Có thể nói, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường phổ thông là vô
cùng cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân,
gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình,
bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
1.1.3. Xuất phát từ ưu thế của bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường phổ
thông.
Ở nhà trường, tất cả các môn học đều có nhiệm vụ cung cấp tri thức và
giáo dục nhân cách. Tuy nhiên, môn Ngữ văn lại là môn có nhiều ưu thế trong
việc lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi, đây là một
môn nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Và giáo dục bằng nghệ thuật là cách giáo
dục hiệu quả nhất, vì người được giáo dục thông qua sự hứng thú, say mê, thăng
hoa cùng nghệ thuật mà hình thành và phát triển nhân cách. Đúng như trong
“Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn” đã khẳng định: “môn Ngữ văn
bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình,
thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; lí tưởng xã
hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; giáo dục cho học sinh trách nhiệm
công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy
các giá trị văn hóa” [2, tr 5].
1.1.4. Xuất phát từ vị trí của Truyện Kiều nền văn học dân tộc và trong
chương trình giảng dạy Ngữ Văn 10.
“Truyện Kiều là quốc hoa, quốc hồn, quốc túy của dân tộc” (Phạm
Quỳnh). Trải qua hàng trăm năm với biết bao dâu bể, “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du vẫn mãi lay động tâm trí triệu triệu người trên khắp thế giới. Có thể
nói, chưa có một áng văn thơ nào của Việt Nam được truyền tụng, thấm đẫm
nhân văn trong đời sống xã hội như “Truyện Kiều”.
“Mỗi câu trong Truyện Kiều là một viên ngọc quý, cả tập Truyện Kiều là
một chuỗi ngọc sáng long lanh” (Hoài Thanh). Danh tiếng của “Truyện Kiều” đã
đến với bạn bè thế giới từ những năm đầu của thế kỉ XX. Năm 1926, dịch giả
người Pháp Rơ-ne-cry-sac khi dịch “Truyện Kiều” đã viết bài nghiên cứu dài 96
trang, có đoạn: “Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh một cách xứng đáng với
kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ thời đại nào”. Và ông kết luận: “Sung
sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca
vang tất cả tâm hồn của một dân tộc”. Vị trí đặc biệt ấy cũng được thể hiện rõ
trong PPCT Ngữ Văn 10: 06/104 tiết (Chương trình cơ bản) ; 08/140 tiết
(Chương trình nâng cao), với 04 trích đoạn: “Trao duyên”, “Nỗi thương mình”,
“Chí khí anh hùng”, đọc thêm “Thề nguyền” và bài “Truyện Kiều” (Giới thiệu
những nét chính về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều”).
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
Một số kinh nghiệm tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 10
qua giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” – trích “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du.
2
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Đưa ra những phương pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 10
qua giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Trên
cơ sở đó, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ môn trong nhà trường là đề
cao vai trò chủ động, tích cực và phát huy năng lực cảm thụ và ứng dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Từ đó mà hiệu quả dạy học bộ môn cũng
được nâng cao.
- Góp phần nâng cao một số kĩ năng sống cho học sinh, như : Kĩ năng nhận
thức, kĩ năng giao tiếp, sống trách nhiệm với gia đình, cộng đồng, ...
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Tìm hiểu lí luận về một số phương pháp dạy học tích hợp nói chung và
đối với bộ môn Ngữ Văn ở trường THPT nói riêng.
- Ứng dụng phương pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp
10 trong giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng”- (“Truyện Kiều” của Nguyễn
Du.
- Thực nghiệm khảo sát các lớp khối 10, trường THPT Hoằng Hóa 3, chủ
yếu là các lớp 10C6, 10C9, 10C10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Chúng tôi nghiên cứu
các tài liệu, chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên về phương pháp dạy học tích
hợp và lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn học. Từ đó
khái quát thành những khái niệm cụ thể, quy thành phương pháp dạy học của
bản thân.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Khảo sát thực
tế bằng hai hình thức: tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, giáo viên quan sát
học sinh tham gia tích cực và tham gia chưa tích cực/không tham gia, tách rời
nhóm; kết hợp với việc đưa ra một tình huống ứng xử thường gặp trong thực tế,
yêu cầu học sinh chọn cách ứng xử. Trên cơ sở đó, giáo viên thu thập số liệu để
đánh giá mức độ thành thạo kĩ năng sống của học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Trên cơ sở khảo sát thực tế, đánh
giá mức độ thành thạo kĩ năng sống của học sinh, chúng tôi nghiên cứu, thử
nghiệm qua những tiết thiết kế giáo án, qua thực tế giảng dạy,.. rút ra kinh
nghiệm tối ưu cho bản thân, ghi chép lại và nghiên cứu sâu hơn ở đề tài này với
mong muốn được trao đổi và học hỏi thêm kinh nghệm giảng dạy cùng các đồng
nghiệp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống là một nội dung hết sức quan trọng cần
được thực hiện một cách có hệ thống và thường xuyên trong các nhà trường.
Giáo dục kĩ năng sống giúp học sinh có hiểu biết và được rèn luyện hành vi có
trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, phòng ngừa những hành vi có hại
cho sức khỏe thể chất và tinh thần, tăng cường khả năng nhận thức xã hội, khả
3
năng thích ứng với cuộc sống cũng như khả năng ứng phó linh hoạt, tích cực với
những thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Việc đưa giáo dục kĩ năng sống
vào nhà trường có ý nghĩa như một sự thức tỉnh để các nhà giáo dục chú ý nhiều
hơn đến tính hữu dụng, thiết thực của chương trình nhà trường, đồng thời tăng
khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới năng động , tích cực, tự tin,
đạt được thành công trong xã hội hòa nhập.
Môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói chung và trường THPT nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục này.Tuy
nhiên, để thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục ấy trong từng tiết học, bản thân
mỗi người thầy, người cô cần hiểu đúng bản chất của các khái niệm này.
2.1.1. Khái niệm “Kĩ năng sống”.
Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm
khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức
khác nhau. Thông thường, kĩ năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành
mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng
cao.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Kĩ năng sống là khả năng sống để
có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể
ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” [3;
tr 7]
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), “Kĩ năng sống là cách
tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến
sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.”[3; tr 7].
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), “Kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết
(Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: kĩ năng tư duy phê phán, kĩ
năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng
nhận thức được hậu quả ...; Học để làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng
cá nhân như: Ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự
tin, ...; Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm cac kĩ năng
xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo
nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực
hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng đảm nhận
trách nhiệm; kĩ năng quản lí thời gian; kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin ....”[3;
tr 7, 8].
Có thể thấy quan niệm của WHO đã nhấn mạnh đến khả năng của cá nhân
có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích nghi tích cực khi tương tác với
người khác và môi trường sống của mình. Tuy mang tính khái quát, nhưng quan
niệm này chưa thể hiện rõ những kĩ năng cụ thể, mặc dù khi phân tích sâu thì
thấy tương đối gần với với nội hàm quan niệm kĩ năng sống của UNESCO.
Song quan niệm kĩ năng sống của UNESCO lại được cụ thể và chi tiết hơn
nhiều. Đặc biệt đã nhấn mạnh thêm kĩ năng thực hiện công việc và nhiệm
vụ.Trong khi quan niệm của UNICEF nhấn mạnh rằng: Kĩ năng không hình
4
thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tạo trong mối quan hệ tương
tác mật thiết có sự cân bằng với kiến thức và thái độ. Kĩ năng mà một người có
được phần lớn cũng nhờ có được kiến thức. Ví dụ, muốn có kĩ năng thương
lượng phải biết nội dung thương lượng, ... Việc đề cập thái độ cũng là một góc
nhìn hữu ích vì thái độ có tác động mạnh mẽ đến kĩ năng. Ví dụ: thái độ kì thị
khó làm cho một người thực hiện tốt kĩ năng biết thể hiện sự tôn trọng với người
khác, ...
Từ những quan niệm trên đây, chúng ta có thể khẳng định: kĩ năng sống
bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con
người. Bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã
hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
Nói cách khác, kĩ năng sống là kĩ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả
năng ứng xử với người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các
tình huống của cuộc sống.
Như vậy, các kĩ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức "cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị - "cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”
thành hành động thực tế - “làm gì và làm bằng cách nào?” là tích cực nhất và
mang tính chất xây dựng.
Kĩ năng sống thường được thiết lập với một nền tảng riêng biệt, do đó
mọi người có thể hiểu và thực hành. Kĩ năng sống liên hệ mật thiết với những
nội dung giáo dục thực hành giúp chúng ta trả lời những câu hỏi như là: Chúng
ta cần làm gì để có thái độ quyết đoán? Quyết định của chúng ta liên quan đến
những điều gì?...
Khái niệm kĩ năng sống được hiểu rất khác nhau. Ở một số nước như:
Trung Quốc; Singapore; Thái Lan ... đào tạo kĩ năng sống chính là để giáo dục
cách vệ sinh, dinh dưỡng, giáo dục phòng chống bệnh tật hoặc giáo dục hòa bình
... Ở một số nước khác như: Mỹ; Anh; Pháp; Nhật ... kĩ năng sống đào tạo tập
trung vào giáo dục hành vi, giáo dục an toàn trên đường phố, hay giao dục bảo
vệ môi trường ...
Kĩ năng sống vừa mang cả tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Tính cá
nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Tính xã hội là vì trong mỗi giai
đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù
hợp với những kĩ năng sống ấy. Chẳng hạn: kĩ năng sống của mỗi cá nhân trong
thời bao cấp khác với kĩ năng sống của các cá nhân trong cơ chế thị trường,
trong giai đoạn hội nhập; kĩ năng sống của người sống ở miền núi khác với kĩ
năng sống của người sống ở vùng biển; kĩ năng sống của người sống ở nông
thôn khác với kĩ năng sống của người sống ở thành phố.
Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn
cầu nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các
kĩ năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã
hội và tự nhiên. Chính vì vậy rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định
là một nội dung cơ bản của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện,
5
học sinh tích cực" trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008 - 2013 do Bộ
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, triển khai và thực hiện.
Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận
thấy: những kĩ năng sống cơ bản cần tích hợp cho học sinh thông qua môn Ngữ
Văn ở bậc THPT như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng kiểm soát cảm xúc
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng giao tiếp hiệu quả
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng tư duy phê phán
- Kĩ năng tư duy sáng tạo
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng kiên định
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm ...
2.1.2. Khái niệm “Tích hợp” trong hoạt động giáo dục.
“Tích hợp là lắp ráp, nối kết các thành phần của một hệ thống theo quan
điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [4, tr 891].
Trong lí luận dạy học, tích hợp (integration) được hiểu là là sự kết hợp
một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau hoặc các hợp phần
của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí
luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của
môn đó.
Trong chương trình THPT, môn Ngữ Văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT,
khái niệm “Tích hợp” cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri gần gũi, có quan
hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau,
phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững
chắc”[1; tr 27].
Và như vậy, “Tích hợp” chính là sự hợp nhất, sự nhất thể hóa để đưa tới
một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của
các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những
thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, “Tích hợp” có hai tính chất cơ
bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau:
Một là, tính liên kết.
Hai là, tính toàn vẹn.
Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia
giữa các thành phần kết hợp.
6
Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ
không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Không thể gọi là tích hợp
nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động riêng rẽ, không có sự liên
kết, phối hợp với nhau trong lĩnh vực nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình
huống.
Tóm lại, hiểu đúng bản chất khái niệm “kĩ năng sống” và “tích hợp” có ý
nghĩa quan trọng giúp người giáo viên xác lập được phương pháp dạy học phù
hợp, đúng với tinh thần đổi mới phương pháp , đáp ứng yêu cầu mang tính bức
thiết của thời đại ngày nay.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng:
2.2.1.1. Về phía giáo viên:
Giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng
không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy
nhiên, đặc trưng của môn Ngữ Văn không chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh
mà điều quan trọng hơn là hình thành và phát triển những kĩ năng vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống của học sinh, đồng thời hình thành và phát triển cảm
xúc, thái độ đúng đắn trước các vấn đề liên quan đến nội dung bài học cho các
em. Vì vậy, môn học này có khả năng tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau với
các nội dung giáo dục kĩ năng sống cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Do đó, khi
tích hợp giáo dục kĩ năng sống cần đảm bảo nguyên tắc: không gượng ép, không
làm nặng nội dung, không làm biến dạng môn học.
Tuy nhiên, qua thực tế dự một số giờ của đồng nghiệp ở trường, tôi nhận
thấy, nhiều giáo viên đã quan niệm: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống là vô hình
dung làm nặng thêm nội dung kiến thức bài học, biến dạng môn học dưới hình
thức đơn điệu khô cứng. Một bộ phận giáo viên khác vì những lí do khác nhau
mà ít đọc sách báo, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội, việc tự học, tự
bồi dưỡng còn hạn chế, ... cho nên ngại tích hợp vì cho rằng chỉ cần tập trung
vào kiến thức bài học là đủ, không cần phải tích hợp những nội dung khác ... tất
cả đều góp phần khiến học sinh lúng túng khi vận dụng kiến thức bài học vào xử
lí những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Thậm chí, một bộ phận học sinh
còn mơ hồ với khái niệm “kĩ năng sống”.
2.2.1.2. Về phía học sinh:
Những năm gần đây, nhiều học sinh rất thiếu những kĩ năng cơ bản như: kĩ
năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Các em rất rụt rè, thiếu tự
tin .. bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống
Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực
tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người. Điều này dẫn đến tình
trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi đặt ra cho
chúng ta là: Phải dạy học như thế nào để góp phần giúphọc sinh THPT hội nhập
với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng đang làm trăn trở bao giáo
viên!
7
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống
đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa
phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 10, trường THPT Hoằng Hóa3, bản thân thấy
kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen,
kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa
có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng
còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại
nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế. Thực trạng này đã được
cụ thể hóa qua số liệu khảo sát ban đầu ở ba lớp mà tôi được phân công giảng
dạy như sau:
Thực hành thảo luận nhóm
Lớp
Sỉ số
10C6
10C9
10c10
46
42
39
Biết lắng nghe, hợp Chưa biết lắng nghe,
tác
hay tách ra khỏi nhóm
SL
TL
SL
TL
30
65.22%
16
34.78%
25
59.52%
17
40.48%
24
61.54%
15
38.46%
Ghi chú
Ứng xử trước một tình huống trong đời sống
Lớp
Sỉ số
Biết cách ứng xử
Chưa biết cách ứng
Ghi chú
hài hoà, khá phù
xử/ ứng xử không phù
hợp
hợp
SL
TL
SL
TL
10C6
46
32
69.57%
14
30.43%
10C9
42
25
59.52%
17
40.48%
10c10
39
20
51.28%
15
48.72%
Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh có kĩ năng tốt chưa cao; tỉ lệ học sinh
có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học
sinh là vấn đề rất cần quan tâm, nó thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn
đến tình trạng “Học sinh có kĩ năng sống chưa tốt ”, để từ đó tìm ra biện pháp
dạy học tích cực, nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh.
2.2.2. Thuận lợi - Khó khăn:
2.2.2.1. Thuận lợi
Một là, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện - học sinh tích cực”. Sở GD&ĐT cũng đã có kế hoạch
từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh, đây
chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng
xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc,
sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng
8
phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn
luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các
tệ nạn xã hội, ...
Hai là, Trường THPT Hoằng Hóa 3- nơi tôi công tác là ngôi trường đang
tiến tới đạt chuẩn quốc gia, nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung “Xây
dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”. Mặt khác, Ban lãnh đạo nhà
trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy
cũng như giáo dục học sinh.
Ba là, ở ba lớp tôi giảng dạy bộ môn Ngữ Văn, các em học sinh đều khá
ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Chính vì thế bản luôn cố
gắng lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua mỗi tiết dạy, giúp
các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người
năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
2.2.2.2. Khó khăn
Một là, thực tế một số giáo viên chỉ tập trung dạy kiến thức còn việc rèn
kỹ năng sống chưa được chú trọng dẫn đến một vài em còn thiếu hụt những hiểu
biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống. (Trong khi để
học sinh phát triển toàn diện, bắt nhịp được với phương pháp dạy học mới nhanh
nhất thì rất cần sự thực hiện đồng bộ của tất cả các giáo viên bộ môn).
Hai là, bản thân tuy có kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý
thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn hạn chế.
Ba là, thời lượng mỗi bài học đã được quy định và tương đối hạn hẹp nên
việc thực hiện lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong mỗi tiết học vẫn là một bài
toán cần nhiều suy nghĩ, trăn trở không chỉ với riêng bản thân tôi.
Bốn là, một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn nên cha mẹ chưa
quan tâm đúng mức đến con cái. Hoặc nhiều bậc phụ huynh chỉ quan tâm về
điểm số sau mỗi kì/năm học. Cìn hàng ngày họ ít trò chuyện để hiểu con em họ
muốn gì.
Năm là, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một tác phẩm văn học cổ
nên dẫu hay và hấp dẫn mà vẫn có “khoảng cách” trong tâm lí tiếp nhận của học
sinh.
Từ cơ sở và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu tôi đã tìm ra một số biện
pháp mang tính khả thi giúp giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh thông qua giờ dạy học tác phẩm văn chương như sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Cần chủ động chuẩn bị nội dung tích hợp và cách thức tiến hành:
- Chủ động lên kế hoạch cho địa chỉ tích hợp cụ thể ở mỗi khối lớp.
- Chủ động lựa chọn nội dung tích hợp, cách thức tiến hành cho từng bài học cụ
thể. Sự chủ động này được cụ thể trong giáo án giảng dạy mỗi bài. Bản thân tôi,
khi soạn giáo án giảng dạy, thường tự đặt những câu hỏi chuẩn bị nội dung này
như sau:
? Bài học này cần lồng ghép giáo dục những kĩ năng sống nào?
? Thực hiện tích hợp giáo dục ở phần nào?
9
? Lồng ghép bằng cách nào?
? Dự tính thời gian lồng ghép tích hợp là bao nhiêu?
Thực ra, mỗi tác phẩm văn học có rất nhiều nội dung có thể lồng ghép
tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên, nếu lồng ghép nhiều
quá sẽ làm lu mờ phần kiến thức trọng tâm bài học, sẽ ảnh hưởng đến thời gian
biên chế của mỗi bài học, ... nên, người giáo viên cần cân nhắc và chọn lọc thật
kĩ những kĩ năng sống, những vùng kiến thức cần lồng ghép tích hợp. Có như
vậy, việc lồng ghép và tích hợp trong giờ dạy học mới được tiến hành thuận lợi
và linh hoạt, tự nhiên, không mang tính chất gượng ép, không làm đứt mạch bài
giảng, không ảnh hưởng đến thời gian ... Nếu làm tốt phần này, người giáo viên
không còn chịu bất cứ áp lực nào khi giảng bài. Cũng vì thế mà tiết học chắc
chắn sẽ thành công.
2.3.2. Tiến trình thực hiện tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong bài giảng
dạy tác phẩm văn chương ở trường THPT:
Tùy thuộc mỗi bài cụ thể mà chúng ta có nội dung tích hợp, cách thức tích
hợp và vùng kiến thức có thể lồng ghép tích hợp khác nhau. Tuy nhiên, bằng
kinh nghiệm thực tế bản thân, tiến trình thực hiện tích hợp giáo dục kĩ năng sống
trong mỗi bài đọc – hiểu văn bản được thực hiện như sau:
2.3.2.1. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong phần mở đầu bài học:
- Vai trò của phần mở đầu bài học: Làm cho người học tập trung, chú ý, quan
tâm và bước ban đầu tạo sự tích cực tham gia vào bài học, các em sẽ bị cuốn hút
vào bài học một cách tự nhiên nhất. Người học đồng thời cũng định hướng được
mình sẽ học cái gì ở tác phẩm này? Vì vậy, phần mở đầu bài học có ý nghĩa
quan trọng, kích thích năng lực tư duy khám phá bài học của các em học sinh.
- Bằng kinh nghiệm bản thân, tôi xin giới thiệu một sô hình thức mở đầu bài học
như sau:
+ Mở đầu trực tiếp (Có thể chọn một trong ba hình thức sau):
* Khái quát lại bài học trước từ đó tạo mối liên hệ với bài mới và
chỉ ra được tầm quan trọng của bài học trong chương.
* Giới thiệu tên bài và mục tiêu cần đạt được.
* Giới thiệu tên bài và mô tả những hoạt động sắp thực hiện.
+ Mở đầu gián tiếp (Có thể chọn một trong ba hình thức sau):
* Nêu lên một sự kiện bất thường liên quan đến chủ đề bài dạy.
* Đưa ra một vài con số thống kê, chiếu một đoạn phim hoặc kể
một câu chuyện có liên quan.
* Trình chiếu một số hình ảnh liên quan đến nội dung bài học, sau
đó dẫn dắt vấn đề.
* Đặt một loạt câu hỏi vấn đáp (đó là những câu hỏi gắn với kinh
nghiệm, nội dung đã học và nội dung liên quan tới bài mới hoặc đó là câu
hỏi mang tính thách đố)
- Một số lưu ý đối với giáo viên:
+ Lời giới thiệu bài mới phải ngắn gọn, súc tích, chỉ trong khoảng thời
gian từ 3 đến 5 phút.
10
+ Phải thể hiện sự nhiệt tình, tạo sự gần gũi, thân thiện, hài hước đúng
mực.
+ Nên đứng ở giữa lớp và gần với người học.
2.3.2.2. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong quá trình hướng dẫn đọc –
hiểu văn bản:
- Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh chủ động, tích cực
khám phá bài học theo mức độ tăng dần: từ phát hiện -> đọc hiểu kĩ -> đọc hiểu
sâu văn bản. Có thể minh họa các mức độ theo tiến trình câu hỏi sau:
+ Câu hỏi phát hiện (phát hiện từ ngữ khó; điển tích điển cố; phát hiện các
khía cạnh độc đáo của ngôn từ nghệ thuật: Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, các biện
pháp tu từ... ). Ví dụ: Đọc câu thơ/ đoạn thơ, có từ ngữ/hình ảnh nào làm em chú
ý?)
+ Câu hỏi về giá trị biểu đạt,hiệu quả nghệ thuật của các thủ pháp nghệ
thuật nhằm gợi mở, kích thích trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng, liên hệ,
khả năng cảm thụ văn học của học sinh. VD: Cảm nhận của em về cảnh
vật/con người, tình cảm, cảm xúc...) được gợi lên qua chi tiết/từ ngữ/ hình
ảnh ... đó?
+ Câu hỏi về thông điệp tư tưởng tình cảm, ý nghĩa triết lí ... tác giả muốn
gửi gắm qua tác phẩm. VD: Qua bức tranh cảnh vật/con người/tâm trạng/cảm
xúc ... tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta điều gì?
+ Câu hỏi về sự đóng góp về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm ... VD :
Thành công của tác giả xét ở phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
- Giáo viên lồng ghép tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua
hình thức câu hỏi. Tuy nhiên, đó phải là những câu hỏi có nội dung liên quan
đến bài học, yêu cầu học sinh giải quyết. Từ đó rút ra bài học yêu cầu giáo dục
học sinh.
Giáo viên cũng cần lưu ý: học sinh sẽ có nhiều cách giải quyết khác nhau,
có cả những cách giải quyết chưa phù hợp, cách diễn đạt của học sinh cũng có
khi vòng vo, khó hiểu đối với các em học sinh khác, ... giáo viên cần lắng nghe,
định hướng, uốn nắn lại cách giải quyết vấn đề của học sinh để đi đến thống nhất
quan điểm. Bởi lẽ, cùng một vấn đề nhưng học sinh sẽ có những cách nhìn nhận
khác nhau, ứng xử khác nhau, tùy theo trình độ nhận thức, sự hiểu biết xã hội, ...
Và giáo viên cần uốn nắn để các em suy nghĩ đúng, giải quyết vấn đề đúng, ...
Có như vậy thì việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong bài học mới thành
công.
Bằng kinh nghiệm thực tế giảng dạy lồng ghép tích hợp kĩ năng sống, tôi
xin mạnh dạn giới thiệu một số dạng câu hỏi tích hợp giáo dục kĩ năng sống sau:
? Em có đồng tình với cách giải quyết/ứng xử của nhân vật?
? Nếu là em, em sẽ giải quyết/ứng xử vấn đề này như thế nào?
? Xét về điều này, em thấy mình còn những hạn chế nào?
? Từ ứng xử của nhân vật, em học được cách khắc phục hạn chế của bản
thân như thế nào? ...
11
2.3.2.2. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong phần củng cố kiến thức bài
học và luyện tập:
Ưu điểm của việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở phần này
là rất lớn, nó giúp các em khắc sâu hơn các nội dung tích hợp và lồng ghép qua
thực hành, luyện tập.
Ví dụ, ở phần củng cố kiến thức bài học, chúng ta có thể đặt câu hỏi: ?
Qua tiết học, bản thân em đã rút ra bài học gì cho bản thân mình? ...
Ở phần luyện tập, chúng ta tùy thuộc vào lượng thời gian của tiết học
dành cho phần luyện tập như thế nào thì sẽ có những hướng dẫn cụ thể, phù hợp.
2.3.3. Vận dụng một số kinh nghiệm tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong
dạy học tác phẩm văn chương ở trường THPT vào thiết kế giáo án, giảng
dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” – trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
I. Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức:
- Hiểu được lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Từ Hải.
- Thấy được những nét đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả người anh hùng qua
đoạn trích.
2. Kĩ năng: - Biết đọc – hiểu một đoạn trích thơ
- Biết suy nghĩ và xác định thế nào là một lối sống đẹp; những
biểu hiện của một nhân cách đẹp – nhân cách của người anh hùng.
3. Thái độ: - Sống có lí tưởng, có mơ ước.
- Trọng sự công bằng, biết đấu tranh vì sự công bằng.
II. Các kĩ năng sống cơ bản:
1. Tự nhận thức, xác định được giá trị: Hs tự nhận thức được sống có lí
tưởng, có ước mơ, quyết tâm phấn đấu thực hiện ước mơ, lí tưởng, sống có trách
nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng là một lối sống đẹp.
2. Kĩ năng tư duy sáng tạo, phân tích so sánh: Học sinh học cách phân tích,
bình luận, bày tỏ ý kiến cá nhân về ý nghĩa cao cả của tình yêu, nghĩa vợ chồng,
về tính cách và lối sống đẹp của một bậc anh hùng, về các vai diễn của các bạn.
3. Kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng hợp tác: (qua đóng vai, nhập vai diễn
kịch);
III. Các phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng:
1. Trò chơi: Chia lớp làm 04 nhóm, tổ chức cho các nhóm tham gia thi “Ai
nhanh nhất” trong thời lượng 30s, yêu cầu hs phải xếp theo trình tự hợp lí 04
bức tranh gắn với 04 sự kiện trong cuộc đời Kiều.
2. Đóng vai: Hs diễn lại cảnh chia tay giữa Kiều và Từ Hải bằng vở kịch ngắn.
3. Kĩ thuật đặt câu hỏi: Gv đặt những câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh
khám phá đoạn trích.
4. Tổ chức nhóm: Gv chia nhóm, tổ chức hs thảo luận tìm hiểu vẻ đẹp của
hình tượng người anh hùng Từ Hải qua các phương diện: Suy nghĩ, hành động,
lời nói ...
12
IV. Chuẩn bị của GV và HS.
1. Chuẩn bị của GV: – SGK, thiết kế bài học
– Máy tính, máy chiếu, các slides trình chiếu
– phiếu học tập: có in câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra.
– Phân công nhóm diễn kịch và nhóm trọng tài.
2. Chuẩn bị của HS: (Chuẩn bị bài ở nhà theo các yêu cầu sau):
- Xem lại tác phẩm Truyện Kiều và tác giả Nguyễn Du
- Soạn bài theo các câu hỏi của phần Hướng dẫn học bài
- Một nhóm viết kịch bản và tập diễn xuất theo nội dung đoạn trich.
- Một nhóm gồm một số HS khá giỏi nhận nhiệm vụ nhóm Trọng tài chuẩn bị
kĩ lưỡng các nội dung liên quan đến bài học (đọc kĩ tác phẩm, sưu tầm tư liệu
phê bình, nghiên cứu về văn bản Chí khí anh hùng)
V. Tiến trình dạy học:
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoat động 1: Mở đầu bài học (04
phút)
Tích hợp giáo dục KNS trong tổ chức
trò chơi: “kĩ năng hợp tác”, “ứng phó
với căng thẳng”.
Hình thức: cả lớp
Kĩ thuật: Trò chơi
B1: GV trình chiếu 4 bức tranh gắn
với 4 sự kiện trong cuộc đời của Thuý
Kiều. (Chú ý: có thể chọn nhiều bức
tranh, nhiều sự kiện khác nhau, đảm
bảo bức tranh cuối cùng là sự kiện:
Từ Hải gặp Kiều ở lầu xanh)
Yêu cầu: Bốn nhóm cùng tham gia thi
“Ai nhanh nhất”. Mỗi nhóm có 30s
dể thảo luận, xếp lại thứ tự các bức
tranh đúng trình tự và kể tóm tắt câu
chuyện dẫn đến nội dung của đoạn
trích.
B2: Các nhóm thảo luận, thống nhất
đáp án
B3: Nhóm có đáp án nhanh nhất trả
lời.
B4: GV nhận xét, chốt lại, dẫn vào
bài mới.
(Phần chốt chú ý có những câu hỏi
gợi dẫn, tạo tình huống có vấn đề
như: Gặp Từ Hải – người anh hùng
Yêu cầu cần đạt
- HS thực hiện được yêu cầu của GV,
sắp xếp đúng và kể được nội dung của
một số phần trong tác phẩm “Truyện
Kiều”.
- HS thể hiện tinh thần làm việc nhóm
để tìm ra đáp án đúng nhất.
13
chọc trời khuấy nước, liệu cuộc đời
Kiều có bình yên; Người anh hùng đó
có thực sự là một người chồng chăm
lo xây đắp một mái ấm gia đình…)
Hoạt động 2: Hình thành kiến thức.
2.1. Tìm hiểu chung (02 phút).
Hình thức: cá nhân
Kĩ thuật: đặt câu hỏi
B1: GV nêu câu hỏi: ?Nêu vị trí đoạn
trích và nội dung khái quát của văn
bản?
B2: HS dựa vào phần tiểu dẫn sgk,
suy nghĩ, trả lời.
B3: HS trình bày
B4: GV nhận xét, chốt lại
I. Tìm hiểu chung
–
Vị trí đoạn trích
Câu 2213 – 2230.
–
Nội dung khái quát: cuộc chia tay
giữa Thuý Kiều và Từ Hải.
2.2. Đọc văn bản (07 phút)
Tích hợp giáo dục các KN:
- “Kĩ năng thể hiện sự tự tin” ; “kĩ
năng hợp tác” (qua đóng vai, nhập vai
diễn kịch);
- “Kĩ năng tư duy sáng tạo” (qua
nhận xét, đánh giá vai diễn của học
sinh với các bạn diễn).
Hình thức: cá nhân và nhóm
Phương pháp, kĩ thuật: đóng vai, đặt
câu hỏi.
B1: GV giới thiệu, sau đó một nhóm
HS trình bày một vở kịch ngắn, diễn
lại cảnh chia tay giữa Thuý Kiều và
Từ Hải.
B2: GV nêu câu hỏi thảo luận
? Đánh giá về diễn xuất của các bạn?
Nếu là em, em sẽ làm như thế nào để
chuyển tải nội dung đoạn trích và tính
cách nhân vật?
?Em thích nhân vật nào nhất?
?Khái quát về tâm trạng của Từ Hải
và Thuý Kiều trong cảnh chia tay?
B3: HS tham gia thảo luận, trả lời.
B4: GV chốt kiến thức và giải thích
một số từ khó.
II. Đọc văn bản.
HS thực hành diễn xuất
HS nhận xét, đánh giá được về sản phẩm
diễn xuất của bạn trên cơ sở đối chiếu
với văn bản trong SGK.
14
2.2. Tìm hiểu thái độ, tâm trạng
của Thuý Kiều trong cảnh chia tay
(05 phút)
Tích hợp giáo dục “kĩ năng thấu
hiểu” (Thấu hiểu đúng tâm trạng của
nàng Kiều để có những lí giải thuyết
phục, hợp lí).
Hình thức: cá nhân
Kĩ thuật: đặt câu hỏi
B1: GV hướng dẫn HS tìm hiểu qua
các câu hỏi gợi mở:
? Đọc lại những câu thơ thể hiện hình
ảnh Thuý Kiều trong đoạn trích?
? Thái độ của Kiều thể hiện qua lời
nói khi Từ Hải ra đi là gì?
? Những nguyên nhân nào dẫn đến
thái độ, lời nói đó?
?Nhận xét về nhân vật Thuý Kiều?
B2: HS suy nghĩ, thảo luận
B3: HS phát biểu. HS khác nhận xét,
bổ sung.
B4: GV nhận xét, chốt kiến thức:
III. Đọc - hiểu chi tiết.
1. Thái độ, tâm trạng của Thuý Kiều
trong cảnh chia tay.
– Cuộc sống khi lưu lạc: đau khổ, tủi
nhục >< cuộc sống với Từ Hải: hạnh
phúc, viên mãn
-> Thái độ, lời nói của Kiều khi Từ Hải
lên đường: kiên quyết xin đi.
->Nguyên nhân: tuân theo quan niệm
của lễ giáo phong kiến; tình yêu chân
thành, sâu sắc lòng biết ơn với Từ Hải;
nỗi ám ảnh về đoạn đời lưu lạc trước đó.
=> Khát khao tình yêu, hạnh phúc;
người vợ chung thuỷ, sắc son, xứng
đáng là tri âm, tri kì với Từ Hải.
2.3.Tìm hiểu vẻ đẹp của hình tượng
người anh hùng Từ Hải (17 phút)
Tích hợp giáo dục những KN chính:
- “Kĩ năng nhận thức” (Nhận thức
được vẻ đẹp của nhân vật qua suy
nghĩ, lời nói, hành động của nhân vật
Từ Hải).
- “Kĩ năng hợp tác”, “kĩ năng đảm
nhiệm trách nhiệm” (qua việc tích
cực tham gia thảo luận nhóm).
- “Kĩ năng giao tiếp hiệu quả”, “kĩ
năng thể hiện sự tự tin”, “kĩ năng
đảm nhận trách nhiệm”... (học sinh
trình bày kết quả thảo luận của nhóm
trước tập thể lớp)
Hình thức: theo nhóm
Kĩ thuật: tổ chức nhóm
B1: GV chia lớp thành 3 nhóm- mỗi
nhóm có 01 trưởng nhóm.
2. Hình tượng người anh hùng Từ
Hải.
– Hoàn cảnh chia tay:
+ Nửa năm: thời gian chung sống->
ngắn ngủi.
+ Hương lửa đương nồng: cuộc sống lứa
đôi đang nồng nàn, hạnh phúc.
+ Thoắt động lòng bốn phương: nhanh
chóng dứt bỏ cuộc sống êm ấm để lên
đường.
Từ Hải là con người của khát vọng
lớn, quyết chí lập thân không gì có thể
ràng buộc, níu kéo.
-Hành động, thái độ, tư thế:
+ Trông vời trời bể, gió mây bằng – dặm
khơi: không gian rộng -> tư thế hiên
ngang, sánh ngang tầm vũ trụ -> tâm
hồn phóng khoáng, khát vọng phi
thường.
+ Thanh gươm yên ngựa: tư thế của
15
Nhóm 1:
-Tìm và phân tích cụm từ miêu tả
cuộc sống lứa đôi của Thuý Kiều và
Từ Hải.
-Từ đó, cho biết Từ Hải ra đi trong
hoàn cảnh nào?
-Hoàn cảnh ra đi cho thấy điều gì về
con người Từ Hải?
Nhóm 2:
-Tìm các từ ngữ miêu tả hành động,
trạng thái, tư thế của Từ Hải trong
cuộc chia tay.
– Hãy lựa chọn và phân tích ngắn gọn
một số từ ngữ.
– Qua những từ ngữ ấy, em có nhận
xét gì về con người Từ Hải.
Nhóm 3:
-Từ Hải đã nói với Thuý Kiều về
những điều gì?
– Giải thích cụm từ “tâm phúc tương
tri”. Từ đó cho biết, đối với Từ Hải,
Thuý Kiều có vai trò như thế nào?
Tại sao Từ Hải vẫn ra đi?
– Qua những lời nói của Từ Hải, nhận
xét về nhân vật?
B2: Các nhóm thảo luận, làm bài 04
phút.
B3: Đại diện các nhóm trình bày. Các
nhóm khác nhận xét, bổ sung.
B4: GV chốt kiến thức.
người anh hùng sẵn sàng xông pha chiến
trường.
+ Lên đường thẳng rong, quyết lời, dứt
áo ra đi -> các động từ mạnh: thái độ
mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết -> quyết
tâm lớn.
=> Từ Hải không phải là con người của
những đam mê thông thường mà là con
người của ý chí lớn, khát vọng lớn lập
công danh.
-Lời nói:
+ Tâm phúc tương tri…thường tình: Từ
chối và khuyên Kiều hãy vượt lên tình
cảm thông thường để xứng đáng làm vợ
một người anh hùng; coi Kiều là người
tri kỉ, nâng vị thế của Kiêu – một kĩ nữ
lầu xanh lên ngang tầm với mình – một
anh hùng-> người anh hùng mạnh mẽ,
người chồng chân thành, yêu thương
+ Bao giờ …nghi gia: lời hứa chắc chắn
với Kiều về thành công vang dội và sự
trở về trong vinh quang, đón Kiều trang
trọng nhất → niềm tin sắt đá vào bản
thân, sự nghiệp của mình; sự coi trọng
hết mực dành cho Kiều.
+ Bằng nay…vội gì: nhìn nhận thực tế
khó khăn đồng thời khẳng định dứt
khoát thời gian trở về -> ý chí, bản lĩnh,
sự tự tin
=> Từ Hải là người anh hùng đầy bản
lĩnh, tự tin quyết liệt vào tài năng của
2.4. Tiểu kết về hình tượng Từ Hải. mình; cũng là người anh hùng của chính
Tích hợp giáo dục những KN chính:
nghĩa, lẽ công bằng: coi trọng phẩm giá
- “Kĩ năng đánh giá” (đánh giá vẻ đẹp người, thuỷ chung.
của nhân vật Từ Hải)
-“Kĩ năng hợp tác”, “kĩ năng đảm * Tiểu kết:
nhiệm trách nhiệm” (học sinh tích -Nghệ thuật: Tài năng xây dựng nhân
cực tham gia thảo luận nhóm)
vật của nhà thơ: Theo đúng chuẩn mực
-“Kĩ năng giao tiếp hiệu quả”, “kĩ của văn học trung đại về người anh
năng thể hiện sự tự tin”, “kĩ năng hùng, dùng bút pháp lí tưởng hoá với
đảm nhận trách nhiệm”... (học sinh những hình ảnh kì vĩ, hoành tráng; các
trình bày kết quả thảo luận của nhóm từ ngữ có sắc thái tôn xưng.
trước lớp).
– Nội dung:
16
Hình thức: theo nhóm
Kĩ thuật: tổ chức nhóm
B1: GV chia lớp thành 3 nhóm- mỗi
nhóm có 01 trưởng nhóm.
Nhóm 1:
? Nhận xét của em về nghệ thuật xây
dựng hình tượng người anh hùng Từ
Hải của Nguyễn Du?
Nhóm 2:
? Hình tượng Từ Hải qua đoạn trích
hiện lên như thế nào? Cho biết thái
độ của nhà thơ đối với nhân vật? Từ
đó cho biết quan niệm của Nguyễn
Du về người anh hùng là gì?
Nhóm 3:
? Gắn với thời đại Nguyễn Du, Từ
Hải là người anh hùng mang bóng
dáng của ai? Phản chiếu điều gì của
thời đại? Từ đó, hãy cho biết, qua
nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm
mong ước gì?
B2: Hs trao đổi, thảo luận theo nhóm
02 phút.
B3: Đại diện nhóm phát biểu ý kiến,
hs nhóm khác nhận xét, bổ sung.
B4: GV nhận xét, bổ sung và chốt ý.
+ Hinh tượng Từ Hải: đẹp đẽ, phi
thường, giàu ý chí, giàu khát vọng, bản
lĩnh không chỉ đem đến cho Thuý Kiều
cuộc sống hạnh phúc mà còn khơi dậy ở
Kiều khát vọng tự do, công bằng, chính
nghĩa, chiến đấu để trả lại cho Kiều cuộc
sống trong sạch -> Thái độ của Nguyễn
Du: khẳng định, ngợi ca -> quan niệm
về người anh hùng: người anh hùng có
chí khí lớn, khát vọng lớn, tấm lòng cao
cả, giàu tình yêu thương, vì công lí (liên
hệ với hình ảnh anh hùng trong tác phẩm
của một số nhà thơ khác)
+ Thái độ, quan niệm của Nguyễn Du
gắn với thời đại: Từ Hải mang bóng
dáng của người anh hùng nông dân khởi
nghĩa trong thời kì đất nước nhiều sóng
gió, nhân dân li tán loạn lạc -> Hình
tượng Từ Hải thể hiện niềm cảm thông
của Nguyễn Du với số phận của nhân
dân, một tư tưởng tiến bộ và ước mong
về tự do và công lí -> giá trị nhân đạo,
nhân văn sâu sắc.
Hoạt động 3: Tổng kết, luyện tập.
(03phút)
Tích hợp giáo dục những KN chính:
- “Kĩ năng ra quyết định”( qua việc
lựa chọn đáp án đúng)
-“Kĩ năng đánh giá” (qua việc chấm
phiếu học tập để đánh giá mức độ
hiểu bài của bạn), ...
Hình thức: cá nhân, cặp đôi.
Kĩ thuật: đặt câu hỏi
B1: GV phát phiếu học tập có in sẵn
câu hỏi, yêu cầu hs làm bài tập củng
cố vào phiếu học tập (02phút)
B2: HS thực hiện yêu cầu
B3+B4: GV trình chiếu đáp án và yêu
cầu cặp HS ngồi cạnh nhau đổi phiếu,
III. Tổng kết – Củng cố (Bài tập):
1.Chọn đáp án đúng:
Hình tượng người anh hùng Từ Hải
được Nguyễn Du miêu tả là: (3điểm)
A.Hình tượng con người thực
B.Hình tượng con người vũ trụ
C.Hình tượng con người ước lệ,
D. Đáp án khác.
Người anh hùng theo quan niệm của
Nguyễn Du(3điểm)
A.Có tài năng lớn
B. Có gia tài lớn
C. Có chí khí, khát vọng lớn.
D. Có tầm nhìn xa, trông rộng.
2. Bài học rút ra cho bản thân từ hình
tượng Từ Hải (02 dòng). (4 điểm)
17
chấm và nộp lại cho GV.
GV dặn dò một số yêu cầu soạn bài
“Văn bản văn học”.
*Lưu ý: phân chia thời gian mang tính gợi ý. Gv linh hoạt theo đối tượng hs.
Hoạt động 4: Vận dụng, mở rộng (Tích hợp giáo dục “kĩ năng nhận thức”, “kĩ
năng tư duy sáng tạo”, “kĩ năng đánh giá” cho học sinh thông qua trong câu
hỏi).
GV yêu cầu HS tìm hiểu và làm bài tập thu hoạch ở nhà. Nộp sản phẩm
vào buổi học sau:
Đề bài: Từ hình tượng Từ Hải và hình tượng của những người anh hùng
thời phong kiến, em có suy nghĩ gì về lí tưởng sống của thanh niên hiện nay ?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đề tài này được tôi áp dụng thường xuyên trong thực tế giảng dạy những
năm qua theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học văn. Và bước đầu đã thu
được những kết quả đáng mừng.
2.4.1. Về phía giáo viên:
Thứ nhất, bản thân tôi thấy tự tin, chủ động nắm bắt hệ thống kiến thức, kĩ
năng lồng ghép tích hợp trong mỗi đơn vị bài dạy, làm giàu thêm vốn sống và
nghệ thuật xử lí các tình huống sư phạm cũng như những tình huống trong cuộc
sống.
Thứ hai, thông qua mỗi tiết dạy học, bản thân tôi cũng hiểu rõ hơn năng
lực, tính cách, những tâm tư và nguyện vọng của các em. Trên cơ cở đó, khuyến
khích, ngợi khen kịp thời những suy nghĩ và hành động tích cực của các em;
Uốn nắn, điều chỉnh những suy nghĩa và hành vi chưa đúng của một số học
sinh... Vì vậy mà khoảng cách giữa cô và trò cũng được rút ngắn, trở nên gần
gũi và thân thiết hơn.
Thứ ba, những tiết đọc hiểu văn bản trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bởi
vai trò của người học được phát huy tối đa và hiệu quả. Vai trò của người thầy
cũng được khẳng định ở tầm cao hơn, bởi người thầy thông qua mỗi tiết học
không đơn thuần là cung cấp kiến thức mới lạ cho học sinh mà quan trọng hơn
chính là đã bồi đắp cho các em những kĩ năng thiết yếu nhất.
2.4.2. Về phía học sinh:
Thứ nhất,học sinh sôi nổi, hứng thú hơn trong học tập. Đặc biệt nhất là
năng lực của học sinh ngày càng được thể hiện rõ nét, VD: năng lực tiếp nhận
văn bản, năng lực phẩm chất, năng lực giao tiếp, xử lí các tình huống (những
tình huống mà giáo viên đặt ra, các em đã giải quyết hợp lí, nhanh nhạy, thông
minh), ...
Thứ hai, lời nói và ứng xử hàng ngày của các em trở nên tốt đẹp hơn. Các
em biết tôn trọng nhau, sống đoàn kết, yêu thương và biết giúp nhau. Tích cực
tham gia các phong trào tình nguyện như phong trào “Vì màu xanh của biển” do
18
Tỉnh Đoàn phối hợp với Huyện Đoàn tổ chức và phát động đợt đầu hè năm
2018; phong trào “ủng hộ học sinh nghèo ăn tết”, “Chia khó với học sinh vùng
cao”, ...
Kết quả trên được cụ thể qua kết quả khảo sát cuối năm học 2017-2018 ở
03 lớp 10 tôi giảng dạy như sau:
Thực hành thảo luận nhóm
Lớp
Sỉ số
10C6
10C9
10c10
46
42
39
Biết lắng nghe, hợp Chưa biết lắng nghe,
tác
hay tách ra khỏi nhóm
SL
TL
SL
TL
40
86.95%
06
13.05%
34
80.95%
08
19.05%
30
76.92%
09
23.08%
Ghi chú
Ứng xử trước một tình huống trong đời sống
Lớp
Sỉ số
10C6
10C9
10c10
46
42
39
Biết cách ứng xử
hài hoà, khá phù
hợp
SL
TL
38
82.60%
31
73.81%
29
74.36%
Chưa biết cách ứng
xử/ ứng xử không phù
hợp
SL
TL
14
17.40%
13
26.19%
10
25.64%
Ghi chú
19
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ thực tế giảng dạy những năm qua, tôi nhận thấy môn Ngữ Văn là môn
học thực sự có ưu thế trong việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Quá trình học tập môn học theo hướng nhấn mạnh tới kĩ năng sống ở trường
THPT có khả năng tạo điều kiện giúp học sinh nâng cao năng lực lĩnh hội trong
học tập, hình thành thái độ, hành vi; giúp các em học sinh có động lực tìm hiểu,
cân nhắc lựa chọn và có quyết định đúng đắn để giải quyết vấn đề cũng như có
cơ hội thuận lợi để rèn luyện các kĩ năng ứng xử hiệu quả.
Song, để làm tốt việc này tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên cần phải không
ngừng nâng cao kiến thức nhiều mặt, nắm chắc chương trình, mục tiêu đào tạo
giáo dục của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Đây là điều không dễ
dàng bởi nó đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của mỗi giáo viên. Xuất phát từ mục
đích đổi mới phương pháp, mong muốn từng bước nâng cao hiệu quả giảng dạy
của bản thân, tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm này, xin được chia sẻ với các đồng
nghiệp để cùng trao đổi, rút kinh nghiệm để chúng ta ngày càng vững bước hơn
trong sự nghiệp trồng người, xứng đáng với niềm tin của Đảng, nhà nước và
nhân dân.
3.2. Kiến nghị
Để học sinh được phát triển toàn diện thì học trên sách vở, qua mỗi tiết
học định biên là chưa đủ. Thiết nghĩ, các em còn rất cần nhiều những sân chơi
bổ ích của hoạt động ngoài giờ lên lớp, phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi ,
tạo môi trường cho những ý tưởng sáng tạo, tài năng của các em cũng có cơ hội
được bộc lộ nhiều hơn. Vì vậy, nhà trường cần tổ chức đa dạng hóa các loại hình
câu lạc bộ. Bên cạnh các câu lạc bộ có tính nghiên cứu như : câu lạc bộ môn
Ngữ văn, câu lạc bộ môn Toán, Lịch sử, Địa lí, Sinh học, ... cũng rất cần thêm
các câu lạc bộ mang tính giải trí như: Câu lạc bộ rèn luyện kĩ năng, câu lạc bộ
tình bạn, câu lạc bộ thể thao, Câu lạc bộ đàn ghi ta, ...
Sở GD&ĐT cũng nên tổ chức một số buổi hội thảo về những tiết dạy tích
hợp giáo dục kĩ năng sống được đánh giá cao để giáo viên chúng tôi được giao
lưu, học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hoằng Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết đề tài:
Hoàng Thị Minh
20
TRANH TRÌNH CHIẾU CHO HỌC SINH THAM GIA TRÒ CHƠI
TRONG PHẦN MỞ ĐẦU BÀI HỌC
A
B
21
C
D
PHIẾU HỌC TẬP
(Dùng trong phần củng cố bài học)
22
1.Chọn đáp án đúng nhất:
1.1. Hình tượng người anh hùng Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả
là: (3điểm)
A.Hình tượng con người thực
B.Hình tượng con người vũ trụ
C.Hình tượng con người ước lệ,
D. Đáp án khác.
1.2. Người anh hùng theo quan niệm của Nguyễn Du(3điểm)
A.Có tài năng lớn
B. Có gia tài lớn
C. Có chí khí, khát vọng lớn.
D. Có tầm nhìn xa, trông rộng.
2. Bài học rút ra cho bản thân từ hình tượng Từ Hải (02 dòng). (4 điểm)
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
ĐÁP ÁN
1. Chọn đáp án đúng:
1.1. B
1.2. C
2. Học sinh cần nêu được các ý chính: Cần phải có chí khí, khát vọng lớn
lao. Sống có trách nhiệm; biết yêu thương và tôn trọng người khác, ...
23