Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT nông cống i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.8 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG I

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN TRONG GIẢNG DẠY
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG I

Người thực hiện: Lê Trạc Ninh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Lịch sử

THANH HOÁ, NĂM 2018

1


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người
không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần
xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ”. Ở những
mức độ khác nhau. Nếu Văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong
thơ ca để càng yêu quý hơn con người, dân tộc Việt nam thì thông qua Lịch sử,
các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của đất nước, một dân tộc mà
rộng hơn là cả một xã hội loài người. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng trong
việc hình thành, bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy, so
với các môn học khác thì môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm đối với thế hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần


dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà
còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống.
Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ
thuật”.
Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ
trẻ, nhưng hiện nay, việc dạy học Lịch sử nói chung và ở trường THPT Nông
Cống I nói riêng chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một thực tế đáng buồn
là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu
kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì đa phần các em
cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là một
môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay đổi
nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do
bản thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
2


chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy
được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ
môn khoa học, cần phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa
tái hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình
trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không
khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Từ thực trạng của trường THPT Nông Cống I, trực tiếp giảng dạy cả ba
khối lớp, tôi mạnh dạn chọn giải pháp “Tích hợp kiến thức liên môn trong
giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT Nông Cống I” để giảng dạy môn
lịch sử một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử
mà học sinh vẫn cho là khô khan.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm khẳng định quan niệm đúng đắn,

khoa học về sự cần thiết của việc dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong giảng
dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT. Trên cơ sở đó nêu cách thức tổ chức dạy học
tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT, phù
hợp với điều kiện của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch
sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình tổ chức dạy học tích hợp kiến
thức liên môn thuộc nội dung Lịch sử 10, 11, 12 THPT(chương trình cơ bản) áp
dụng trong giảng dạy môn lịch sử trên lớp. Đề tài tập trung minh họa qua một
bài học cụ thể, từ đó làm cơ sở để áp dụng sâu rộng cho toàn bộ quá trình dạy
học tích hợp kiến thức liên môn của cả chương trình môn lịch sử THPT tại trường
THPT Nông Cống I.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đề tài chủ yếu vận dụng những phương pháp nghiên
cứu của khoa học giáo dục. Bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc, phân tích các loại tài liệu…
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: dự giờ, khảo sát, phỏng vấn, trao đổi…
3


- Dạy thử nghiệm trên lớp.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm (TNSP): Trên cơ sở kết quả thu được từ
thực nghiệm rút ra kết luận về tính khả thi của đề tài.
- Phương pháp thống kê: tập hợp và xử lý các số liệu thu được qua thực tế, qua
thực nghiệm, qua kết quả học tập.

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy
học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy

học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các
môn học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học,
tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với
nhau “Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng
tích hợp trong việc xây dựng chương trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm
của lí thuyết hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái
toàn thể, cũng như quá trình dẫn đến trạng thái này”
Từ năm học 2012 – 2013, bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức
liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình
thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm
giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn
còn gặp nhiều khó khăn lúng túng.
2.2. Thực trạng vấn đề
Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về
lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người.
Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông
hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với
nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn
4


hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng
thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm
được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về
kiến thức liên môn. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó việc
giảng dạy của người thầy có tác động trực tiếp và quan trọng nhất. Phương pháp
dạy học truyền thống vẫn đang được sử dụng chiếm ưu thế.
Đối với giáo viên

Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, tôi tiến hành khảo sát về tổ chức dạy
học trong giờ học môn Lịch sử đối với 20 giáo viên các trường THPT trên địa bàn
huyện Nông Cống và các đồng nghiệp, bạn bè cùng dạy môn lịch sử ở các huyện
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, cũng như nhiều tỉnh khác, kết quả thu được thể hiện
như sau: Đa phần (80%) giáo viên chủ yếu sử dụng thời gian để dạy hết kiến thức
lịch sử trong một bài dạy đã được quy định…chỉ có (20%) giáo viên sử dụng
thường xuyên sử dụng kiến thức liên môn để vận dụng vào quá trình giảng dạy
của minh.
Qua trao đổi trực tiếp với một số giáo viên tôi nhận được ý kiến: Cô giáo
Lương Thị Nhất (Trường THPT Nông Cống 1) cho rằng: “Dạy học tích hợp kiến
thức liên môn làm cho giờ học sinh động, không khí thoải mái, tạo hứng khởi
cho các em học sinh”. Còn cô Lê Thị Hồng (Trường THPT Nông Cống III) thì
khẳng định: “Dạy học theo hướng tích hợp kiến thức liên môn là biến giờ học
lịch sử khô khan thành một giờ tham quan thực tế”. Một bạn đồng nghiệp của
tôi dạy tại một trường THPT ở Hà Tĩnh thì cho rằng: “ Dạy học tích hợp kiến
thức liên môn đối với bộ môn lịch sử là làm cho những những trận đánh, những
chiến công trong quá khứ của lịch sử dân tộc giống như một bộ phim quay
chậm, đưa ta trở về với quá khứ lúc đấy”.
Đối với học sinh
Qua tiếp xúc trực tiếp và trao đổi với học sinh trường THPT Nông Cống 1
tôi thu nhận kết quả thực tế là: Các em cho rằng, dạy học tích hợp kiến thức liên
môn đối với bộ môn lịch sử là rất bổ ích, vì không khí học tập thoải mái, giờ học

5


sinh động, không còn khô khan với những năm-tháng, số liệu, giúp các em hiểu
bài và nắm bài ngay tại lớp, có thể liên kết để nhớ được các sự kiện rất lâu.
Từ kết quả khảo sát trên ta có thể thấy: Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu
cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào

nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học
sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy sử không chỉ có kiến
thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về
các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài giảng
lịch
2.3. Một số nội dung tích hợp cụ thể:
2.3.1 Tích hợp với môn Ngữ Văn:
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng
trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những
kiến thức trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần
thiết để thu hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế
giới. Để tạo nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng
kiến thức văn học vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho
bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Văn học và Lịch Sử có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho
môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có
thể nhận thức một cách rõ ràng, như khi học tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố,
học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu mà nhân dân phải gánh chịu, hiểu
được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc biệt hiểu và
thông cảm sâu sắc cho tình cảnh người nông dân Việt Nam, làm việc cực nhọc
“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ sống, mà ta nghĩ là
bằng ngôn từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục, những
đắng cay mà người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng khó
tìm thấy một ngôn từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân ta

6


trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hơn những lời thơ của
Nguyễn Trãi:

Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ
( Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi)
Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng trong bài “Chiến thắng Chi Lăng
Xương Giang” lịch sử 10.
Đối với bài: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống thời Lí ( lịch sử 10)
Giáo viên có thể sử dụng thơ ca để minh họa nhấn mạnh bài “ Thơ thần”
của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Giáo viên cần đọc minh họa khổ thơ trên và phân tích cho học sinh thấy
bài thơ đã có tác dụng một phần làm cho quân giặc càng thêm hoang mang lo sợ,
mặt khác còn động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ .
Khi giảng dạy về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giáo viên có thể trích dẫn các
câu thơ trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi:
“…Ngày 18 trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25, Bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28, Thưpng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
…Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước…
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật…”
Hay trong bài ngữ văn : “Hoàng Lê Nhất thống chí”
Giáo viên có thể sử dụng nội dung một phần kiến thức ở bài đó để làm nổi
bật nên tinh thần chiến đấu quật cường của nghĩa quân Tây Sơn:
7



Trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa được thể hiện qua hình ảnh của người
anh hùng áo vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân
tộc
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phẩn
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê
Chiêu Thống….với thắng lợi lẫy lừng đó không thể không nhắc đến công lao to
lớn của Quang Trung –Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ông là
công chúa Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau :
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình”
Khi dạy bài : “Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam từ
1858 – 1873” (sử 11), mô tả về hoàn cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược,
lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân
Nam Kì, chúng ta có thể trích dẫn bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu trong bài
“Chạy Tây” và bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”:
“Tan chợ chợt nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ thơ chạy
Mất tổ đàn chim dáo dác bay…”
(Chạy Tây)
Hay : “…Ngoài cật một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngoài
Trong tay cầm một ngọn tầm vông chưa mài, sắm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong dạy đạo kia
Gươm đep dùng bẵng lưỡi dao phay chém rớt đầu quan hai nọ…”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”


8


Thì học sinh sẽ hình dung được ngay về hoàn cảnh của phong trào đấu
tranh của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Khi giáo viên giảng dạy “ Phong trào cách mạng 1930 – 1935, phần Xô
viết Nghệ - Tĩnh “ ( Lịch sử 12)
Để minh họa cho sự nổi dạy mạnh mẽ của nhân dân Nghệ - Tĩnh, giáo
viên sử dụng bài thơ:
“ Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau kiên quyết một phen…”
Dạy bài: “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945” (sử 12), ta có thể nhấn
mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng khắp
các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng
nhận xét được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự
kiện mainhf đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các
em đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch
sử - Là động lực chính đưa cách mạng đến thành công.
Chẳng hạn khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
pháp xâm lược kết thúc” (Lịch sử 12) sau khi khái quát về kết quả của chiến

dịch Điện Biên phủ, ta có thể trích dẫn mấy câu thơ của Tố Hữu như sau:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
9


Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm
hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy
rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này
có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của
các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương
đất nước trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” ta trích câu thơ:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức đẻ vận dụng văn học trong giảng dạy
bộ môn Lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một
trích đoạn nhằm giúp học sinh có thể nêu ra một kết luận khái quát cụ thể hóa
một vấn đề hây một sự kiện lịch sử đã được học.
Như vậy ta thấy rằng: Sử dụng tích hợp kiến thức văn học trong giảng dạy
lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà
còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho học sinh hình
thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình.
2.3.1 Tích hợp với kiến thức hội họa, tranh ảnh.
Không những môn Lịch sử chỉ gần gủi trong nội dung kiến thức với môn
Ngữ văn mà còn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức hội họa.
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học Lịch Sử, giúp học sinh
phát triển toàn diện về mọi mặt áp dụng vào giảng các bài tìm hiểu về văn hóa
xã hội các thời kỳ lịch sử. Ví dụ như bài “Phong trào văn hóa phục hưng” Giáo

viên có thể đưa ra những tranh, ảnh thể hiện hiện nội dung của phong trào văn
hóa Phục Hưng, sau đó sẽ giải thích về những nội dung được thể hiện trong
tranh. Cuối cùng, đặt một số câu hỏi giúp học sinh nhận thức vấn đề và rút ra kết
luận cần thiết.
10


Đối với việc tích hợp môn Lịch sử với hội họa, ta có thể đưa ra hai nội
dung:
* Sử dụng hình ảnh minh họa trong việc giảng dạy các tiết, các phần về
“ Văn hóa các thời kỳ lịch sử”.
Ở mảng này, tập trung vào việc cho học sinh xem các tranh, ảnh về nền
văn hóa các triều đại phong kiến của các nước và của Việt nam và đưa ra các câu
hỏi cho học sinh thảo luận:
Ví dụ: Khi dạy bài: Tây Âu hậu kì trung đại – phần 3: “ Phong trào văn hóa
Phục hưng” ( Lịch sử 10):
Giáo viên có thể hỏi học sinh: Qua các tác phẩm của mình, các tác giả
thời Phục hưng muốn nói lên điều gì?...
Hay trong bài : “Sự hình thành và phát triển của các quốc gia Đông Nam
Á ” (Lịch sử 10). Chỉ học sinh xem các hình ảnh: Đền tháp Bô-no-bu-đua (Inđô-nê-xi-a); Chùa tháp Pa-Gan (Mi-an-ma); Đền tháp Ăng-co-vát (Căm pu
chia); Thạt Luổng ( Lào)… để học sinh thấy được trình độ kiến trúc thế kỷ X –
XVIII. Qua đó thấy được lịch sử phát triển của các triều đại phong kiến thời đó.
Chúng ta có thể cho các em xem các bức tranh, ảnh chụp các đền, chùa, tượng
phật, đồ gốm cổ, phân tích cho các em thấy những nét kiến trúc, nét hoa văn
khác nhau qua các thời kỳ để các em hiểu được quá trình phát triển của lịch sử
đất nước và hiểu được giá trị của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
* Sử dụng tranh ảnh trong giảng dạy các bài về các cuộc chiến tranh,
khởi nghĩa:
Cho các em xem tranh, ảnh minh họa, từ đó các em cảm nhận được về
chiến tranh, về quyền lực của các tổ chức, các triều đại…

Ví dụ khi dạy bài : “ Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ và sự bành trướng
thuộc địa” ( Lịch sử 10 )
Cho học sinh xem bức tranh “ Tranh đương thời nói về quyền lực của các
tổ chức độc quyền ở Mĩ” (Chú ý các chữ viết trên mình mãng sà: Monopoly –
Độc quyền ) để thấy rõ chế độ độc quyền đã ảnh hưởng lớn đến kinh tế, chính
trị của nước Mĩ và khu vực như thế nào. Và giúp học sinh hiểu được đây chính
11


là nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực, thuộc địa, gây
được sự tò mò, sáng tạo của học sinh…
Bài : “ Sự ra đời và tình cảnh của giai cấp vô sản công nghiệp” ( Lịch sử
10): Cho học sinh xem bức ảnh “ Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo
viên đưa ra câu hỏi cho học sinh thảo luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao
động trẻ em? Liên hệ với trẻ em ngày nay, công ước về quyền trẻ em… Từ đó
thấy được tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời liên hệ ngay ở địa phương: Một
số trẻ em chưa đến tuổi lao động cũng đã bỏ học đi làm và bị bóc lột sức lao
động mà không biết.
Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn
cảnh tác phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ thuật cũng
như nội dung sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn
học, hội họa làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch sử dễ dàng thấm vào
tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối với các môn học
khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa học khác rất
nhiều điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan của nhiều
phương án xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà một
chuyên môn hẹp khó nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối tượng
mà chúng có quan hệ là những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa học
khác tính chính xác và tầm rộng của sự khái quát, đồng thời Lịch sử có thể hoàn
thành nghĩa vụ của mình bằng cách xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với

các tài liệu và tránh những khái quát không có cơ sở vững chắc”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi thực hiện giảng dạy tích hợp kiến thức môn lịch sử với các bộ môn
Ngữ văn, hội họa, tranh ảnh ở trường THPT Nông Cống I, bước đầu đã thu được
kết quả nhất định.
Để kiểm tra kết quả của việc giảng dạy tích hợp bộ môn Lịch sử, tôi đã tổ
chức lấy ý kiến của học sinh các khối lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy về hứng thú
học bộ môn lịch sử.
12


- Kết quả thu được qua các tiết thực nghiệm: Số lượng học sinh tham gia
gồm các lớp tối đang trực tiếp giảng dạy năm học 2017 – 2018 gồm:
+ Khối 10: các lớp 10C2, 10C3, 10C4 (125 học sinh) .
+ Khối 11: các lớp 11A3, 11A4, 11A5, 11A7, 11A8, 11A9 (214 học sinh).
+ Khối 12: các lớp 12B5, 12B6, 12B7, 12B8 (174 học sinh)
Tiết dạy bằng phương pháp truyền thống
Sĩ số

Thái độ hứng thú

513

Khả năng sử dụng tư

Khả năng lĩnh hội

liệu
210 (40,9%)


kiến thức
210 (40,9%)

210 (40,9%)

Tiết dạy bằng phương pháp tích hợp liên môn
Sĩ số

Thái độ hứng thú

513

386 (75,2,%)

Khả năng sử dụng tài

Khả năng lĩnh hội

liệu
386 (75,2%)

kiến thức
386 (75,2%)

Điều này được chứng minh trong kết quả học tập bộ môn lịch sử Học kì I,
năm học 2017 – 2018, mà tôi trực tiếp giảng dạy như sau:
Khối 10:
Lớp

Sĩ số


10C2

45

10C3

42

10C4

38

Tổng

125

Loại Giỏi
2

Loại Khá
12

Loại TB
26

Loại Yếu
4

Loại Kém

1

(4,44%)
10

(26,77%)
24

(57,78%)
8

(8,89%)
0

(2,22%)
0

(23,81%)
1

(57,14%)
8

(19,05%)
23

(0%)
6

(0%)

0

(60,53%)

(15,79%)

(0%)

(2,63%)

(21,05%)

13

44

57

10

1

(10,4%)

(35,2%)

(45,6%)

(8%)


(0,8%)

Loại Giỏi
5

Loại Khá
14

Loại TB
13

Loại Yếu
2

Loại Kém
0

(14,71%)
23

(41,18%)
13

(38,24%)
1

(5,88%)
0

(0%)

0

Khối 11:
Lớp

Sĩ số

11A3

34

11A4

37

13


11A5

43

11A7

37

11A8

38


11A9

25

Tổng

214

(62,16%)
31
(72,09%)
9

(35,14%)
11
(25,58%)
13

(2,7%)
1

(0%)
0

(0%)
0

(2,33%)
11


(0%)
4

(0%)
0

(24,32%)
6

(35,14%)
16

(29,73%)
14

(10,81%)
2

(0%)
0

(15,79%)
15

(42,11%)
10

(36,84%)
0


(5,26%)
0

(0%)
0

(60%)
89

(40%)
77

(0%)
40

(0%)
8

(0%)
0

(41,58%)

(36,0%)

(18,69%)

(3,73%)

(0%)


Loại Giỏi
33

Loại Khá
18

Loại TB
1

Loại Yếu
0

Loại Kém
0

(63,46%)
18

(39,62%)
25

(1,92%)
5

(0%)
0

(0%)
0


(37,5%)
21

(52,08%)
19

(10,42%)
4

(0%)
1

(0%)
0

(8,89%)
0

(2,22%)
0

(0%)
0
(0%)

Khối 12:
Lớp

Sĩ số


12B5

52

12B6

48

12B7

45

12B8

29

Tổng

174

(46,67%)
27

(42,22%)
2

(93,1%)
99


(6,9%)
64

(0%)
10

(0%)
1

(56,8%)

(36,8%)

(5,74%)

(0,57%)

0

(Kết quả trên được sử dụng chứng thực bằng số liệu thúc tế tổng kết học
kì I năm học 2017 – 2018 của trường THPT Nông Cống I, trên mạng vnedu.vn)
Ngoài việc sử dụng phương pháp thống kê qua phiếu đánh giá để phân
tích kết quả thực nghiệm tôi còn thu thập kết quả thông qua quan sát cùng với
thu thập ý kiến nhận xét của giáo viên và học sinh tham gia thực nghiệm. Hầu
như tất cả các giáo viên tham gia thực nghiệm đều khẳng định các biện pháp tổ
chức tích hợp, liên môn trong bộ môn lịch sử là rất cần thiết, được sử dụng
mang lại hiệu quả về nhiều mặt. Điều dễ nhận thấy nhất là hứng thú học tập của
học sinh tăng lên rõ rệt, phát huy tính tích cực, năng động của học sinh trong các
14



tiết học. Từ chỗ thụ động, tiếp thu kiến thức một chiều khi tham gia tích cực
trong giờ học. Học sinh inh trở nên năng động, tự tin, không khí tiết học sôi nổi,
các em tích cực nghiên cứu tài liệu, tham gia xây dựng bài học làm cho quan hệ
giữa học sinh – học sinh và giáo viên – học sinh trở nên gần gũi, thân thiện hơn.
Trên cơ sở nắm vững yêu cầu, xác định các biện pháp, thao tác sư phạm tổ
chức dạy học tích hợp – liên môn trong giờ học bộ môn Lịch sử ; đồng thời tiến
hành thực nghiệm sư phạm bước đầu tôi thu được kết quả khả quan. Vì vậy đây
là cơ sở để tôi mạnh dạn tổ chức nhiều tiết học sử dụng kiến thức tích hợp liên
môn vào năm học 2017 – 2018 và các năm học tiếp theo.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung
và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả
đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thầy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào,
không phải phần nào cũng thực hiện được.
Tuy nhiên qua thực tế dạy học ở trường THPT Nông Cống I, theo ý kiến chủ
quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học Sử như hiện nay, không chỉ đổi
mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy nghĩ của mọi người, của xã hội
về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con người. Hơn nữa, để cải thiện chất
lượng dạy và học môn Sử hiện nay không phải chỉ có giáo viên cố gắng mà học
sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập. Thử hỏi giáo viên dạy hay, tiết học
sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không học bài, không chuẩn bị bài, không
đọc sách giáo khoa, vậy thì kết quả sẽ như thế nào? Vì vậy, để nâng cao chất
lượng dạy - học môn Sử cũng như chất lượng giáo dục cần có sự quan tâm của
tất cả mọi người và toàn xã hội.
3.2. Kiến nghị
Để tiến tới việc dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường, cần:
- Trước hết cần đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia về tích hợp môn
học để dần tiến tới thực hiện tích hợp môn học theo hướng chung của nhiều

nước.
15


- Thiết kế lại nội dung chương trình - sách giáo khoa các môn học theo
hướng tích hợp.
- Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được
yêu cầu học tập tích hợp.
- Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ
mục tiêu đến nội dung, phương pháp để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên
khi thực hiện chương trình tích hợp.
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh
giá theo hướng tích hợp.
- Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn
học.
- Tiếp tục khai thác nghiên cứu thử nghiệm nội dung tích hợp theo các
phương án khác nhau để có thể triển khai quan điểm tiếp cận tích hợp.
Trên đây là những đề xuất của tôi trong việc tích hợp kiến thức liên môn
vào giảng dạy bộ môn Lịch sử trong trường THPT Nông Cống I. Đồng thời
mạnh dạn đưa ra một số nội dung giảng dạy ở một số bài trong chương trình lịch
sử cấp THPT đã được áp dụng có hiệu quả ở trường THPT Nông Cống I trong
năm học 2017 - 2018. Tôi hy vọng rằng : Những vấn đề tôi đưa ra trong sáng
kiến này sẽ góp phần giúp cho các thầy cô giáo có được những định hướng trong
việc tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy không những bộ môn Lịch sử
mà với các bộ môn khác, không chỉ ở môn Ngữ văn, hội họa, tranh ảnh mà còn
ở các môn khác nữa. Đồng thời cũng giúp cho các em có hứng thú trong học tập,
nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
Đề tài trên đây là đóng góp nhỏ của cá nhân tôi vào phương pháp dạy học
tích hợp – liên môn,, từ đó góp phần nhằm nâng cao chất lượng dạy – học của
bộ môn Lịch sử. Với thời gian có hạn, sẽ còn những thiếu sót, vì vậy tôi kính

mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, của hội đồng khoa học để đề
tài được hoàn thiện và có tính thực tiễn sâu sắc. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị

Thanh hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình
viết, không sao chép nội dung của người
16


khác.

Lê Trạc Ninh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Lịch sử 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
3. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 10 (2006) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội.
4. Lịch sử 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
5. Lịch sử 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
6. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 11 (2007) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội.
7. Lịch sử 12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
17


8. Lịch sử 12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008) (Sách GV), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
9. Giới thiệu giáo án Lịch sử lớp 12 (2008) (Sách giáo viên), Nxb Hà Nội.

10. Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Lịch sử 12, Bộ giáo dục và đào
tạo(2009), nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
11. Ngữ văn 10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
12. Ngữ văn 11, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), (Cơ bản) Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
13. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 2, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hoạt động dạy học, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức (2001) Nxb. GD - Hà
Nội.
15. Luật giáo dục, ( 2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học (2000), Nxb. Đà Nẵng

18



×