Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận đề 1 chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.56 KB, 23 trang )

BÀI TIỂU LUẬN – MÔN CHỦ NGHĨA MAC-LÊ NIN

HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA MAC
VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC


BẢNG PHÂN CÔNG THÀNH VIÊN NHÓM TIỂU LUẬN 1
ST
T

Họ và tên

Nội dung được phân công

1

Làm slide, thuyết trình, sửa chính tả

2

Dàn bài, Phần B mục II.1, phần C, tổng hợp

3

Phần A, mục I

4

Phần A, mục II


5

Phần A, mục III

6

Phần A, mục IV

7

Phần B, mục I

8

Phần B, mục II.1

9

Phần B, mục II.2

10

Phần B, mục II.2, in bài


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


MỤC LỤC
A.


Học thuyết kinh tế của Mác về CNTB độc quyền & độc quyền nhà nước......................................................5
I.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền..........................................................................................................................5
I.1

Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền..........................................................................................5

I.2

Những đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền.........................................................................5

I.3

Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc quyền.......6

II.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước......................................................................................................7
II.1

Nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước................................................7

II.2

Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước...................................................................9

III.


Những biểu hiện mới trong sự phát triển của CNTB hiện đại................................................................11

III.1

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất...............................................................................11

III.2

Nền kinh tế đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức..........................................11

III.3

Cơ chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn..............................11

III.4

Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước............................................................................12

III.5

Vai trò của các công ty xuyên quốc gia càng ngày càng tăng.........................................................12

IV.

B.

Đóng góp, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản...........................................................13

IV.1


Đóng góp của chủ nghĩa tư bản.......................................................................................................13

IV.2

Hạn chế của chủ nghĩa tư bản..........................................................................................................14

IV.3

Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản.......................................................................................15

Ý nghĩa nghiên cứu đề tài đối với VN............................................................................................................16
I.

Ý nghĩa về mặt lý luận.................................................................................................................................16

II.

Ý nghĩa về mặt thực tiễn..........................................................................................................................17
II.1

Phát triển lực lượng sản xuất...............................................................................................................17

II.2

Tăng cường vai trò của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế............................................................19

Kết luận.......................................................................................................................................................22
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................................23



A. Học thuyết kinh tế của Mác về CNTB độc quyền & độc quyền nhà nước
I.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền
I.1

Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền

Theo V.I.Lê Nin: “tự do cạnh tranh tạo ra tập trung sản xuất và sự tập trung này sẽ phát triển đến một
mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền”.
CNTB độc quyền xuất hiện đầu TK XX do những nguyên nhân sau:


Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất do tiến bộ khoa học -> đẩy nhanh quá trình tích
tụ tư bản và tập trung tư bản -> hình thành các xí nghiệp lớn



Hai là, cạnh tranh tự do -> tích tụ tư bản và tập trung tư bản tăng -> tiếp tục hình thành các xí
nghiệp tư bản lớn



Ba là, khủng hoảng kinh tế 1873 -> loại bớt các xí nghiệp vừa và nhỏ



Bốn là, tác động của các quy luật kinh tế như giá trị thặng dư, quy luật tích lũy -> biến đổi cơ
cấu kinh tế xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.




Năm là, tín dụng TBCN mở rộng -> đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của các công ty, tổ chức
độc quyền lớn



Sáu là, xu hướng thỏa hiệp, liên kết giữa các công ty lớn cạnh tranh trực tiếp với nhau-> hình
thành các tổ chức độc quyền

I.2

Những đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền

I.2.1

Các tổ chức độc quyền

Tổ chức độc quyền là liên minh giữa các nhà tư bản lớn, nắm trong tay phần lớn hoặc toàn bộ sản
phẩm của một ngành, từ đó có thể chi phối quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó và đạt được
lợi nhuận độc quyền cao.
Các hình thức tổ chức độc quyền:


Các-ten (Cartel): các tổ chức độc quyền thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị
trường tiêu thụ, nhưng việc sản xuất do mỗi thành viên tự thực hiện



Xanh-đi-ca (Syndicat): Thị trường tiêu thụ, sản lượng, giá cả được một ban quản trị đảm

nhiệm, nhưng sản xuất vẫn do mỗi thành viên trong tổ chức độc quyền thực hiện



Trusts: Thị trường, giá cả, sản lượng và cả việc sản xuất do một ban quản trị đảm nhiệm. Các
nhà tư bản tham gia vào trở thành cổ đông và lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn dựa trên kết quả
kinh doanh của tổ chức.



Công-xooc-xiom (Consortium): là tổ chức liên kết các nhà tư bản lớn và cả các hình thức trên
với nhau, bao gồm các ngành khác nhau nhưng đều có mối liên quan về kinh tế, kĩ thuật, có
khả năng chi phối nền kinh tế một nước




Công-glo-mê-rát (Conglomerate): liên minh độc quyền quốc tế, hoạt động ở nhiều ngành,
nhiều nước khác nhau và có khả năng chi phối nền kinh tế toàn cầu.

I.2.2

Tư bản tài chính

Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa một số tổ chức độc quyền ngân hàng và các tổ chức
độc quyền trong công nghiệp thông qua mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong việc cho vay và nhận
vốn trong dài hạn.
Sự thống trị kinh tế của các tập đoàn tư bản tài chính -> tạo sự thống trị về chính trị và các mặt khác
của xã hội tư bản -> chi phối hoạt động chính phủ
I.2.3


Xuất khẩu tư bản

Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích thu lại giá trị thặng dư và các
nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
Phân theo hình thức:


Xuất khẩu tư bản trực tiếp: đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp đầu tư, kinh doanh



Xuất khẩu tư bản gián tiếp: thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu

Phân theo chủ thể:


Xuất khẩu tư bản nhà nước



Xuất khẩu tư bản tư nhân

I.2.4

Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

Việc xuất khẩu tư bản tăng thêm về qui mô -> phân chia thế giới về mặt kinh tế thông qua các cuộc
đấu tranh vì lợi nhuận -> hình thành sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền.
I.2.5


Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các nước đế quốc

Sự phân chia thế giới về kinh tế được tăng cường bởi sự phia chia thế giới về lãnh thổ trong cuộc cạnh
tranh gay gắt tìm kiếm các nguồn nguyên liệu khi CNTB phát triển ngày càng cao và tài nguyên ngày
càng khan hiếm
I.3

Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB độc
quyền

I.3.1

Quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh:

Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, đối lập với cạnh tranh tự do nhưng không thủ tiêu được cạnh
tranh mà còn làm chúng trở nên đa dạng, gay gắt hơn.
Các loại cạnh tranh:


Cạnh tranh nội bộ các tổ chức độc quyền



Cạnh tranh với các tổ chức ngoài độc quyền



I.3.2
a.


Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau
Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và qui luật giá trị thặng dư trong giai đoạn CNTB
độc quyền:
Đối với qui luật giá trị:

Qui luật giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện qui luật giá trị trong CNTB độc quyền: Gía cả độc
quyền = CPSX + lợi nhuận độc quyền cao
b.

Đối với qui luật giá trị thặng dư:

Qui luật lợi nhuận độc quyền là hình thức biểu hiện qui luật giá trị thặng dư trong CNTB độc
quyền:Lợi nhuận độc quyền = Lợi nhuận bình quân + lợi nhuận khác (do thế lực của độc quyền mang
lại).
II. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
II.1

Nguyên nhân hình thành và bản chất của CNTB độc quyền nhà nước

Đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước mới trở thành một thực thế rõ ràng và là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa
tư bản hiện đại.
a.

Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Dựa vào tư tưởng của V.I.Lênin, có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước là do:



Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, do đó đẻ ra
những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu
cầu kế hoạch hóa tập trung từ mọi trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ
xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho
toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao mâu thuẫn
gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi phải có một
hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuẩt có thể tiếp tục phát triển trong điều
kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước.



Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc
quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn. Thu hồi vốn chậm
và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải,
nghiên cứu khoa học cơ bản,... đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh
các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có
lợi hơn.




Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp
vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn
đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...




Cùng với xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền
quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị
trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia
tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Ngoài ra, chiến tranh thế giới cùng với đó là tham vọng giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh, việc
đối phó với xu hướng xã hội chủ nghĩa mà Cách mạng Tháng Mười Nga chính là tiếng chuông báo
hiệu bắt đầu một thời đại mới, làm cho nhà nước tư bản độc quyền phải can thiệp vào kinh tế.
b.

Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc
quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó
nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm
bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền về cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ
nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các
tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc
quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền.
V.I.Lênin chỉ ra rằng: "Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để
bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chinh trị,... đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy".
Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản
khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm
thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng chính trị và
các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù.... Ph.Ăngghen cũng cho rằng: nhà nước đó
vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều
lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự
bấy nhiêu.

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không
phải là mội chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.
Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế
độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước
chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của
nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, vai trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản


xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh
tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất:
sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức vận
động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. làm cho
chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.
II.2

Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước

V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh rằng sự liên minh cá nhân của các ngân hàng vốn công nghiệp được bổ
sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ: "Hôm nay là bộ trưởng,
ngày mai là chủ ngân hàng, hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai làm bộ trưởng".
a.

Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước

Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí
dụ: Liên đoàn công nghiệp Italia, Tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, Liên đoàn công thương Anh...
Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước. Các hội chủ này hoạt động như là các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối

đường lối kinh tế, đường lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm "lái" hoạt động của nhà nước theo
hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã
gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của
chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ
máy nhà nước với những cương vị khác nhau; Mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được
cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh
dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này còn gọi là
sự kết hợp đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương.
b.

Sự hình thành và phát triển sở hữu tư bản độc quyền nhà nước

Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ ủnng
hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện
không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà
nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sơ hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của
tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy
nhà nước, mà gồm cả những xí nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội,... trong đó ngân sách nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất.
Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng
vốn của ngân sách; quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại: nhà nước mua cổ phần của
các xí nghiệp tư nhân; mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các xí nghiệp tư nhân...
Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:





Mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản. Điều này liên quan đến những ngành sản xuất cũ không đứng vững được trong cạnh
tranh và có nguy cơ thua lỗ, cũng như các ngành công nghiệp mới nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn
và trình độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao được nhà nước đầu tư phát triển.



Giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh
doanh có hiệu quả hơn.



Làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá trình kinh tế phục vụ
lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.

Sở hữu nhà nước phản ánh xuyên tạc bản chát của chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì nó biểu
hiện ra như "có tính xã hội". Song trong thực tế nó không vượt được khuôn khổ của sở hữu tư bản chủ
nghĩa, vì trong các xí nghiệp nhà nước, công nhân vẫn là người lao động làm thuê. Các xí nghiệp nhà
nước được sử dụng như những công cụ chủ yếu phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền, vì vậy
công nhân vẫn không phải là người chủ đối với tư liệu sản xuất của xí nghiệp nhà nước.
c.

Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham
gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế. V.I.Lênin viết: "Sự tập trung hóa và quốc
tế hóa của tư bản ngày càng có quy mô rất lớn. Chủ nghĩa tư bản độc quyền biến thành chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước; do tình thế thúc bách nên trong nhiều nuớc đã phải thi hành việc điều tiết xã
hội đối với sản xuất và phân phối".
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của

nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự
vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho
tầng lớp tư bản độc quyền. V.I.Lênin đã nói về sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản Đức thời kỳ
đầu thế kỷ XX như sau. "ở Đức, người ta đạt tới chỗ là việc lãnh đạo sinh hoạt kinh tế của 66 triệu
người là từ một trung tâm; việc tổ chức nền kinh tế quốc dân của 66 triệu người là do một trung tâm,
làm cho tuyệt đại đa số nhân dân phải chịu những hy sinh lớn nhất để cho "30.000 phần tử thuộc tầng
lớp trên" có thể bỏ túi hàng tỷ lợi nhuận chiến tranh và khiến hàng triệu người bị đưa vào lò sát sinh vì
lợi ích của những đại biểu "thượng lưu và ưu tú" trong dân tộc".
Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách
chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát: chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính
sách kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các
chính sách kinh tế là ngân sách, thuế, hệ thống liền tệ - tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch
hóa hay chương trình hóa kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý.


III.

Những biểu hiện mới trong sự phát triển của CNTB hiện đại

III.1 Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
Thứ nhất, cách mạng công nghệ thông tin và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ. Công nghệ thông tin
phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất và ngành tăng trưởng nhanh, nhất là vào nửa cuối thập
kỷ 90 của thế kỷ XX. Cùng với sự lan rộng trên toàn cầu của các ngành công nghệ cao mới khác như
sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng không vũ trụ... Sự tiến bộ và những bước đột phá
của khoa học kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất.
Thứ hai, giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân được nâng cao, từ đó đặt nền
móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.
III.2 Nền kinh tế đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra 200 năm trước, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản

chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, cách mạng công nghệ thông tin hiện nay
đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, vai trò của tri thức (và kỹ thuật) đã cao hơn các yếu tố như nguồn tài nguyên tự
nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng nhất. Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không
còn do người lao động cơ bắp thao tác máy móc mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các
ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy.
Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ nghĩa tư bản cùng được điều
chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa và công nghệ cao hóa.
Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí của nông nghiệp hạ thấp vị trí của dịch vụ,
đặc biệt là ngành dịch vụ có liên quan đến công nghệ mới được tăng lên.
III.3 Cơ chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn
Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức, thể chế quản lý kinh doanh
trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các bước điều chỉnh và cải cách lớn:


Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng
lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu kim tự tháp truyền thống như tập trung
quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân
quyền, ít tầng thứ và theo chiều ngang nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn
giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của toàn thể công nhân
nhằm nâng cao hiệu quả công tác.



Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng với những thay
đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt,
hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu
(tức khâu sản xuất càng gần gũi với khách hàng hơn).





Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu đối với công nhân
chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có kỹ năng và tri thức cao hơn để họ phát
huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh
tranh của doanh nghiệp.



Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại hình lớn hóa và nhỏ
hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã không ngừng mở rộng ưu thế về quy
mô, tăng cường sức mạnh thị trường của công ty. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt
hơn, có tinh thần sáng tạo hơn cũng được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa
có sức sống và hiệu quả cao.

III.4 Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước


Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh
tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX, việc thiết lập thị trường chung châu
Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu, bất kể đối với châu Âu hay đối với cả thế giới,
đều có ý nghĩa không thể xem nhẹ.



Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX, dù là Mỹ hay châu
Âu đều áp dụng mô hình chính sách "Con đường thứ ba", trên thực tế là sự dung hòa quan
niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của
chủ nghĩa bá thủ mới, đóng vai trò tích cực cho việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản hiện nay.




Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ, vận dụng linh hoạt
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội
và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội khác nhau.

III.5 Vai trò của các công ty xuyên quốc gia càng ngày càng tăng
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền bành trướng thế lực ra nước ngoài
dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công ty xuyên quốc gia được nhà nước ở các nước tư bản
chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên quy mô lớn, các công ty xuyên quốc
gia mua và thôn tính các tài sản ở nước ngoài, không ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị phần.
Cùng với sự phát triển nhanh của toàn cầu hóa kinh tế, ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành
công ty xuyên quốc gia. Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia đã trở
thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền liên quốc gia
phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ, nghiên
cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa, các công ty xuyên quốc gia đã có tác động lớn đến các mặt của
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế
giới.


IV. Đóng góp, hạn chế và xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
IV.1

Đóng góp của chủ nghĩa tư bản

Một là, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi "đêm trường trung cổ" của xã hội
phong kiến; đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa
tư bản chủ nghĩa; chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại, tạo ra một khối lượng của cải vật
chất lớn

Hai là, phát triển lực lượng sản xuất. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công
lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác va V.I.Lênin) và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang
là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang
giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công
nghệ là quá trình giải phóng sức lao động.
Ba là, thực hiện xã hội hóa sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển
mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả chiều
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát trển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô
hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các
ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ,... làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với
nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội. Đồng thời mở
rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế, thúc đẩy toàn cầu hóa và quốc tế hóa kinh tế.
Bốn là, nâng cao trình độ quản lý, hình thành tác phong lao động công nghiệp. Thông qua cuộc cách
mạng công nghiệp, CNTB đã tổ chức lao động theo kiểu công xưởng, do đó đã xây dựng được tác
phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nền nếp, thói quen của người lao động sản xuất
nhỏ trong xã hội phong kiến.
Năm là, thiết lập nền dân chủ tư sản. CNTB đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy
chưa phải là hoàn hảo, song vẫn tiến bộ hơn rất nhiều so với thể chế chính trị trong các xã hội phong
kiến, nô lệ, mở đường cho sự phát triển của chế độ xã hội mới tự do, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành tựu và đóng góp của nó đối với sự phát triển của
nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải
thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp
nào - hòa bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng
nước và bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm.
IV.2

Hạn chế của chủ nghĩa tư bản


Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất
đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp tước đoạt đối với những người sản xuất hàng
hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực


hiện bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu. Đó là một vết bùn nhơ và được sử sách ghi lại bằng
những trang dẫm máu và không bao giờ phai.
Thứ hai, sự bóc lột lao động. Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột
của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Mặc dù so với các hình thức bóc lột đã từng tồn tại
trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song chừng nào chủ nghĩa tư bản còn
tại thì chừng đó quan hệ bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội là điều không tránh
khỏi.
Thứ ba, mâu thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản đã dẫn đến những cuộc chiến tranh thế giới và xung
đột ở các khu vực. Các cuộc chiến tranh này với mục đích giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh
hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hang triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản
xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hang chục năm. Ngày
nay cũng chính chủ nghĩa tư bản là thủ phạm châm ngòi nổ giữa các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài
thì tưởng chừng những xung đột đó chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những lý do sắc tộc, tôn giáo hay nhân
quyền. Chi phí quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện nay rất lớn.
Thứ tư, chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn cách giữa các nước
giàu và nước nghèo trên thế giới (thế kỷ 18 là 2,5 lần, hiện nay là 250 lần). Trong những năm 80 của
thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái. Điều này cũng đã được ngân hang thế giới khẳng định: ở
Châu Phi, Mỹ La Tinh,… hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về
kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái: ở một vài nước Mỹ La Tinh, GDP theo đầu người hiện
nay thấp hơn 10 năm trước đây. Ở nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm. “…một thế
giới mà trong đó 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ La Tinh mức sống không ngừng giảm.
Trong khi đó mức sống ở các vùng khác tiếp tục tăng lên, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận
được”. Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ vét tài nguyên, bóc
lột công nhân các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong vòng phụ thuộc thong qua con đường
xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay… kết quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên

mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh. Ở Braxin
người ta tính ra riêng số lãi mà Braxin phải trả trong năm 19888 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu
hay bằng xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân Braxin thiếu ăn..
Thứ năm, những mâu thuẫn và hạn chế ngay trong lòng các nước tư bản, như giữa các tập đoàn tư bản
lớn và các nhà sản xuất nhỏ, mẫu thuẫn giữa tư bản với lao động, mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản
với các tầng lớp nhân dân, tội phạm và các tệ nạn xã hội tăng, mất cân bằng về môi trường sinh thái,
khủng hoảng kinh tế.
CNTB cũng đứng trước giới hạn mà nó không thể vượt qua: Giới hạn đó bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ
bản của CNTB đó là : Mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Mặc dù CNTB ngày nay đã có sự điều chỉnh nhất
định trong những hình thức quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn không thể khắc phục
được mâu thuẫn này.


IV.3

Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản

Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực
lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội của lực lượng sản xuất ngày càng
cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất càng trở nên chật hẹp so với nội
dung vật chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định
trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối. Ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó đã làm
giảm mức độ gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khuôn
khổ của tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Đến một chừng mực nhất
định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ thay vào đó là là một quan hệ sở hữu mới
– sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập để dáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một phương thức sản
xuất mới – phương thức sản xuất cộng hòa chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa.


B. Ý nghĩa nghiên cứu đề tài đối với VN
I.

Ý nghĩa về mặt lý luận
a.

Những nguyên nhân chuyển xã hội tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao


Cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung làm xuất hiện những DN có qui mô lớn.



Cạnh tranh dẫn đến quá trình thôn tính, sáp nhập các DN nhỏ.



Cạnh tranh dẫn đến sự thỏa hiệp giữa các DN lớn để hình thành các DN khổng lồ về qui mô



Tín dụng phát triển thúc đẩy việc hình thành các công ty cổ phần với qui mô rất lớn



Sản xuất phát triển làm xuất hiện những ngành nghề mới cần có vốn đầu tư lớn.


b.

Đặc điểm kinh tế của tư bản giai đoạn cao


Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền



Tư bản tài chánh



Xuất khẩu tư bản



Phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tổ chức độc quyền



Phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản

c.

Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền nhà nước


Nền SX xã hội hóa cao tất yếu có sự can thiệp của nhà nước




Điều hoà lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn kinh tế



Giải quyết những mâu thuẩn trong nước: khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp



Những lãnh vực mới xuất hiện có tính chất quốc gia



Những bất đồng giữa các nước

d.

Vai trò của nhà nước trong xã hội tư bản


Vừa là chủ sở hữu, vừa là TB xã hội và nhà quản lý xã hội



Thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô bên cạnh các qui luật của thị trường

e.

Những nét mới của chủ nghĩa tư bản



Sư phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất



Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức



Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp



Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi lớn




Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường



Các công ty xuyên quốc gia ngày càng có vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế TBCN, là
lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế


f.

Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường

Ưu điểm của CNTB



Thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, tận dụng tốt các cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ



Phát triển sản xuất hàng hóa, sử dụng kinh tế thị trường một cách có hiệu qủa



Hình thành thể chế dân chủ về kinh tế – xã hội trong khuôn khổ CNTB

g.

Nhược điểm của CNTB


Bóc lột giá trị thặng dư và bất bình đẳng xã hội vẫn là những thách thức



Thất nghiệp là căn bệnh nan giải



Tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường vẫn là những vấn đề mà CNTB hiện đại phải đối mặt.


II. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Việt Nam không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa nhưng có thể học tập những ưu điểm của CNTB
về phát triển lực lượng sản xuất và tăng cường vai trò của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế.
II.1

Phát triển lực lượng sản xuất

Muốn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cần phải thúc đẩy phát triển tiến bộ khoa học công nghệ
và nâng cao tay nghề, trình độ của người lao động.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 của Đại hội
XII của Đảng đã nhận định phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ của Việt Nam đạt được
những kết quả tích cực. Cụ thể:


Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ tiếp
tục được hoàn thiện, đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ tăng bình quân
16,5%/năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước, khoa học cơ bản đã có bước phát
triển, ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, các quỹ về khoa học và công
nghệ được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Phát triển thị trường
khoa học, công nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung - cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng
bình quân 13,5%/năm…



Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của xã hội, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm định chất
lượng có đổi mới, cơ cấu đào tạo hợp lý hơn, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và đẩy mạnh ứng


dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn được quan

tâm…
Bên cạnh những thành tựu đạt được, cần nhìn nhận thực tế nền kinh tế vẫn còn thiếu nguồn nhân lực
có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước lân cận, thị trường lao động
vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu lao động tay
nghề cao, so với nhiều quốc gia trên thế giới thì tư liệu sản xuất nước ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến,
hiệu quả chưa thật sự cao và còn phân hóa giữa các vùng trong cả nước.
Nhận thức rõ tình hình này, Đảng cũng chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ trong những năm sắp tới như sau:


Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng
lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân.



Đổi mới khung chương trình, quan tâm hơn đến yêu cầu tăng cường kỹ năng sống, giảm tải nội
dung trong các bậc học phổ thông; nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp
trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học. Đổi mới
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh
phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo. Phát triển giáo dục đại học theo hướng hình
thành cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng
dụng và cơ sở giáo dục đại học định hướng thực hành. Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản
lý đáp ứng yêu cầu đổi mới. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và
thu hút các nhà khoa học tham gia giảng dạy.



Phát triển hợp lý và bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập.

Ngân sách nhà nước bảo đảm cho giáo dục phổ cập; tiếp tục kiên cố hóa trường, lớp học công
lập. Khuyến khích xã hội hóa đầu tư phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học
và trình độ đào tạo. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là các trường đại
học, trường dạy nghề. Thí điểm chuyển đổi mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do
cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư phát triển. Đẩy mạnh dạy nghề và gắn kết đào tạo
với doanh nghiệp. Phân cấp quản lý hợp lý trong đào tạo nghề. Quan tâm phát triển giáo dục,
dạy nghề trong đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn. Hoàn thiện chính sách tín
dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ
học bổng giúp học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi. Có cơ chế đặc thù để tuyển chọn
và trọng dụng nhân tài.



Tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung - cầu. Thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả.



Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ. Tăng cường tiềm lực
khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng


tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do
sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Khuyến khích và
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại
học. Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ
chức khoa học, công nghệ công lập. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản trí tuệ, tăng cường bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các vi phạm. Hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công
nghệ cao và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công nghệ.



Có cơ chế đặc thù để phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ trọng điểm theo mô
hình tiên tiến và triển khai những dự án khoa học, công nghệ quan trọng phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán
kinh phí theo kết quả đầu ra và công khai, minh bạch chi phí, kết quả nghiên cứu. Giao quyền
sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức, cá
nhân chủ trì nghiên cứu, đồng thời có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý. Nâng cao hiệu quả hoạt
động các quỹ về phát triển khoa học, công nghệ; khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với hoạt
động khoa học, công nghệ.



Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước và có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn
lực ngoài nhà nước đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng
một số viện nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, phát triển các trung tâm đổi
mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ. Tạo thuận lợi thúc đẩy phát triển mạnh doanh nghiệp
khoa học, công nghệ. Có chính sách đào tạo, phát triển, trọng dụng và tôn vinh đội ngũ khoa
học, công nghệ. Khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người
nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ tại Việt Nam.

II.2

Tăng cường vai trò của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng phải có
sự quản lý của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước đối với kinh tế thị trường không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình
phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của thị trường, vừa dựa
trên cơ sở và sự dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội: khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia
thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn
minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông
qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; Nhà nước quản lý phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc


phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh
vực kinh tế.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường sau 30 năm đổi mới cho thấy, Đảng ta đã giải quyết về cơ
bản quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Tuy nhiên, vấn đề này còn rất nhiều mâu thuẫn, bất cập.
Điều đó được thể hiện:


Một là, trong thực tiễn đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng các hệ thống công cụ chủ yếu
để quản lý nền kinh tế thị trường như: Hệ thống pháp luật, công tác kế hoạch và quy hoạch, các
chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; sử dụng
lực lượng vật chất của Nhà nước để bổ khuyết thị trường (trong đó quan trọng nhất là các loại
dự trữ quốc gia); cung cấp dịch vụ và hàng hoá công cộng; hành chính công; sử dụng các công
cụ hỗ trợ như thông tin, xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ sản xuất… Tuy nhiên, các
hệ thống công cụ quản lý, điều tiết của Nhà nước nêu trên đều chưa đáp ứng yêu cầu. Chẳng
hạn, hệ thống pháp luật của nước ta trong quản lý kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, hiệu lực
và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế còn thấp, Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám
sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ các quy định đã đề
ra. Công tác kế hoạch và quy hoạch của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn bất cập, chưa phù
hợp với thực tế, ttập trung ở các chương trình có vốn từ ngân sách nhà nước hoặc do Nhà nước
bảo lãnh.




Hai là, còn có sự nhầm lẫn giữa nhà nước và thị trường. Kinh tế thị trường được vận động với
sự tham gia của ba chủ thể chính: người sản xuất, người tiêu dùng và Nhà nước. Nhưng trong
quản lý nền kinh tế của Việt Nam hiện nay, còn có sự lẫn lộn về vị trí, vai trò của ba chủ thể
này. Tổng kết 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam đã chỉ rõ hạn chế của mối quan hệ giữa
nhà nước và thị trường là: “Chưa làm sáng tỏ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
do chưa phân định rõ chức năng Nhà nước - thị trường.



Ba là, “hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm: Nhà
nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin – cho
trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách”. Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt
động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất
đối với các quyết định của mình. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ bị coi nhẹ, do đó, trong nhiều
trường hợp, đáng lý là quan hệ cung cầu, thì quyền lực và sự duy ý chí lại đi trước dẫn dắt thị
trường.

Trước những bất cập trong mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường ở nước ta hiện nay, Đại hội XII
chỉ đạo các hoạt động để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội
như sau:


Phân định rõ chức năng của Nhà nước và chức năng của thị trường. Nhà nước quản lý và định
hướng phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết
phù hợp với kinh tế thị trường sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước
để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi



trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giảm thiểu can thiệp bằng mệnh lệnh hành
chính. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực,
là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.


Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Khuyến khích, hỗ trợ cho mọi ý
tưởng sáng tạo, thúc đẩy đổi mới, phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa
học - công nghệ, văn hóa, nghệ thuật,...



Tập trung cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh giản ,xây dựng nền hành chính hiện đại,
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tinh
thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao, có chế tài xử lý thích đáng những cán bộ vi phạm
pháp luật, nhất là cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý…



Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) đã
nhấn mạnh hoàn thiện thể chế về sở hữu. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng ta đã đề cập tới hoàn
thiện thể chế về sở hữu trí tuệ.


KẾT LUẬN
Có thể nói, chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước là bước phát triển cao hơn của chủ
nghĩa tư bản, để có thể tồn tại trước những thay đổi của điều kiện sản xuất mới. Những thành tựu và
hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa

tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan
hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh cả về mặt sở
hữu, quản lý và phân phối để hạn chế mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủ tiêu được mâu thuẫn
này. Sự điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước từ lý luận của V.I.Lenin cho đến những biểu hiện
mới được cập nhật nêu trên tạo cơ sở để hiểu rõ hơn về vấn đề nội dung cơ bản của thời đại ngày nay,
đồng thời có thể vận dụng những lý luận này để học hỏi những ưu điểm của CNTB và áp dụng vào
thực tiễn tình hình Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin, 1978. Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Tập 27, Nxb Tiến
bộ
2. Nguyễn Khắc Thân, 1996. Chủ nghĩa tư bản đương đại-Mâu thuẫn và vấn đề, Nxb Chính trị
Quốc gia.
3.

Viện Thông tin Khoa học Xã hội, 2001. Chủ nghĩa tư bản hịên đại -Những điều chỉnh mới.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội – 2016
5. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, Khoa lý luận chính trị, 2016. Tài liệu học tập môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.



×