Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

BAI THU HOACH BDTX 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.58 KB, 11 trang )

SỞ GD&ĐT KHÁNH HÒA
TRƯỜNG THPT NGUYỄN THÁI HỌC

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CÁN BỘ QUẢN LÝ
NĂM HỌC 2016-2017

Họ và tên: PHẠM VĂN THÔNG
Năm sinh: 21/03/1969
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Thái Học
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng

Diên Khánh, tháng 5 năm 2017


Nội dung 1
Câu hỏi: Căn cứ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ năm học và từ kiến thức
BDTX của cá nhân, CBQL nêu rõ những khó khăn, vướng mắc mà đơn vị đang
gặp phải; từ đó đưa ra các giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục của đơn vị mình?
1. Đặc điểm, tình hình
Trường THPT Nguyễn Thái Học được thành lập năm 2001 nhằm đáp ứng
nhu cầu học tập cho con em nhân dân mười xã phía Tây của huyện Diên Khánh,
tỉnh Khánh Hòa. Ngày đầu thành lập trường mới chỉ có 4 lớp với 181 học sinh.
Đến nay, đầu năm học 2016 – 2017 trường có 40 lớp với 1453 học sinh; đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên là 110 người, trong đó có hiệu trưởng và 3
phó hiệu trưởng, 90 giáo viên và 16 nhân viên; cở sở vật chất đầy đủ, khang trang
phục vụ tốt nhu cầu học tập, giảng dạy và nghiên cứu của giáo viên và học sinh
trong trường.
2. Thuận lợi, khó khăn
a) Thuận lợi:


– Sự quan tâm sâu sắc, chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo các cấp, các ngành, sự
đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai
nhiệm vụ năm học 2016 – 2017.
– Về cơ sở vật chất của trường: khá đầy đủ, đảm bảo cho nhu cầu dạy và
học; có sân chơi, bãi tập rộng rãi, thoáng mát đảm bảo cho việc dạy học môn Thể
dục, Quốc phòng-An ninh, cùng các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh; có
nhà đa năng rộng rất thuận tiện cho việc tổ chức các hoạt động chuyên đề, ngoại
khóa cho học sinh.
– Tập thể Hội đồng sư phạm đa số trẻ, đạt chuẩn và trên chuẩn 100%, năng
động nhiệt tình, sáng tạo ham học hỏi.
– Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, cần cù, chịu khó, tích cực trong các
hoạt động phong trào.
b) Khó khăn:
– Tình hình chất lượng học sinh: Chất lượng học sinh thấp so với mặt bằng
của huyện và của tỉnh: tuyển 10 có điểm xét tuyển tương đối thấp (29.00đ)
–Điều kiện gia đình của các em ở nông thôn các xã phía Tây nói chung còn
nhiều gia đình khó khăn, ảnh hưởng đến việc đầu tư học tập cho các em.


– Đời sống giáo viên (nhất là giáo viên mới ra trường) còn gặp nhiều khó
khăn; một số giáo viên nhà ở xa trường, có gia đình phải thuê nhà trong khi đồng
lương còn thấp cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lý.
– Những tác động từ môi trường xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
học tập của học sinh.
– Việc sắp xếp lại lớp học cho học sinh khối 12 để đảm bảo phù hợp với
định hướng đổi mới trong kỳ thi THPT quốc gia cũng đã ảnh hưởng một phần
không nhỏ tâm lý của các em.
– Công tác xã hội hóa để đầu tư, phát triển nhà trường nhất là việc đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ cho việc dạy và học gặp nhiều khó khăn.
3. Một số giải pháp trong công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục tại đơn vị
– Tổ chức cho học sinh khối 10 đăng ký chọn ban tùy theo nguyện vọng để
theo học; hiện tại trường có 2 ban để học sinh lựa chọn, đó là Cơ bản A (học tự
chọn Toán, Lý, Hóa) và Cơ bản B (học tự chọn Toán, Hóa, Sinh). Tổ chức dạy học
2 buổi/ngày ngay từ đầu năm học nhằm củng cố và nâng cao kiến thức cho học
sinh.
– Quản lý việc dạy thêm và học thêm đúng qui định, phù hợp với đặc điểm
của nhà trường; cải tiến cách ra đề kiểm tra cho phù hợp với xu thế thi trắc nghiệm
khách quan, tổ chức kiểm tra và đánh giá học sinh nghiêm túc, khoa học.
– Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên, tổ trưởng chuyên môn,
cán bộ quản lý giáo dục theo chuẩn mới; xây dựng kế hoạch và triển khai đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục để nâng cao năng lực, đáp ứng yêu
cầu công tác.
– Có sự khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với những giáo viên có thành
tích xuất sắc để ghi nhận công lao và động viên tinh thần cho những nổ lực, sự
cống hiến và tiếp tục phát huy năng lực của bản thân đóng góp vào sự phát triển
của nhà trường.
– Nhà trường cần phải chú ý đến việc trang bị cho học sinh những kỹ năng
sống cần thiết thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tạo điều kiện cho các em
tham gia vào các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Cần có sự đổi mới hình thức sinh
hoạt trong tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần, sinh hoạt lớp cuối tuần tạo sự nhẹ
nhàng, hứng thú và rèn cho các em những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.


– Việc chia tách lớp theo định hướng thi THPT Quốc gia sẽ được ổn định từ
đầu năm lớp 11 để tránh sự xáo trộn về tâm lý đồng thời các em sẽ tập trung học
tập tốt các môn gắn với định hướng nghề nghiệp của các em trong tương lai.
– Huy động các nguồn lực của xã hội để hỗ trợ cho nhà trường trong việc
mua sắm các trang, thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu giảng dạy và học
tập./.



Nội dung 3
Câu hỏi 1: Nhận thức và trách nhiệm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện về giáo dục và đào tạo (Những nội dung đổi mới cốt lõi; các giải pháp
then chốt)?
Nội dung đổi mới cốt lõi
Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế cần được tiến hành
với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và nhất quán, bao gồm các nội dung cơ bản
được đặt ra là:
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp
thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt
coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất
lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội trong phối hợp chặt chẽ với nhà
trường để giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả vào xây dựng
một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và
chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo.
Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành,
lĩnh vực mũi nhọn; đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, nhất là đối với
những người thuộc diện thu hồi đất; nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Quan
tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo
đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ người
có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó, học

sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng
cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện
hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài
chính. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục
tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công
khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo


dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo
dục, đào tạo trên cả ba phương diện: huy động các nguồn lực trong xã hội; phát
huy vai trò giám sát của cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt
đời; mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.
- Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà
soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao
đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao
chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm
xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường,
khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất
cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình
giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà
nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo
phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó
khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh phong trào khuyến
học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng các phương thức đào tạo từ xa

và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên.
Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
Giải pháp then chốt
Để thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nước
ta theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
- Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo định hướng
"coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh” ở tất cả các cấp. Đối với
bậc đại học là tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát huy tư duy sáng
tạo, rèn kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. Trong
quá trình giáo dục phải kiên trì nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Việc thay
đổi phương pháp dạy và học là một công việc to lớn, khó khăn, phức tạp, tác động
đến tất cả các khâu từ nội dung, chương trình, sách giáo khoa, trình độ đào tạo, thi
cử, đến đánh giá, kiểm định chất lượng. Đây là công việc liên quan tới tất cả các
bộ phận cấu thành của giáo dục nên cần có sự đổi mới đồng bộ từ nội dung đến


phương pháp để đạt được mục đích đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo.
- Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên, người thày
đóng vai trò quyết định đối với thành bại của sự nghiệp giáo dục, đào tạo ở mọi
thời đại. Vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục các yếu kém trong bố trí, sắp xếp và
sử dụng để sớm xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn phù hợp
với yêu cầu đổi mới giáo dục. Mặt khác, phải có chế độ chính sách, đặc biệt là
chính sách về lương, thưởng, thăng tiến, phát triển chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ
phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ giáo viên. Mặc dù,
Đảng và Nhà nước đã cải tiến rất nhiều chế độ chính sách cho giáo viên, nhưng
các chính sách, chế độ hiện hành đối với giáo viên vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến
hệ quả là nhiều giáo viên không thể toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, sự nghiệp trồng người của đất nước được.

- Thứ ba, về đổi mới quản lý giáo dục cả về cán bộ quản lý và cơ chế quản
lý. Cần tổ chức lại hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo;
nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ trong việc thực hiện
chiến lược, chính sách phát triển giáo dục; tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống
giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp, cơ sở giáo dục theo mô
hình giáo dục mở, mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo
liên tục, liên thông giữa các bậc học và ngành học; đổi mới căn bản về tư duy, về
cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lý
nhằm giải phóng và phát huy tối đa tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động cùng tự
chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục, giải quyết một cách có hiệu
quả những bất cập của toàn hệ thống trong quá trình phát triển. Đổi mới căn bản
chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ quản lý giáo dục theo hướng coi
trọng phẩm chất và năng lực hoạt động thực tiễn.
- Thứ tư, hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về giáo dục,
đặc biệt là việc xây dựng luật về giáo dục đại học. Thừa nhận, đối xử bình đẳng
với loại hình cơ sở giáo dục là công lập và tư thục, xây dựng mạng lưới giáo dục
theo hướng phân tầng để thích ứng với đòi hỏi thực tiễn hiện nay của phát triển
kinh tế - xã hội trong cả nước, cũng như từng địa phương, từng khu kinh tế, đặc
biệt phân tầng trong giáo dục đại học.
- Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát
triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập. Chuyển từ chủ trương “giáo
dục cho mọi người sang chủ trương mọi người phải học tập suốt đời”. Xã hội


hoá giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát
triển giáo dục, đào tạo. Để làm được việc này trước hết cần mở rộng cơ hội học
tập cho mọi người thông qua việc phát triển hình thức giáo dục thường xuyên. Mở
rộng và hoàn thiện các hình thức huy động cộng đồng tham gia quản lý nhà trường
và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục... tạo điều kiện để các nhà
giáo, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội đóng góp công sức, trí tuệ vào quá trình

ra quyết sách và xây dựng chính sách, xây dựng chương trình sách giáo khoa,
đánh giá chất lượng giáo dục, giảng dạy, nghiên cứu tại các nhà trường và cơ sở
giáo dục. Tiếp tục mở rộng các trường ngoài công lập, thực hiện chính sách ưu đãi
về đất đai, thuế, tín dụng, tạo điều kiện cho loại hình các trường này phát triển.
Cùng với việc huy động sự đóng góp của nhân dân chủ yếu là đối với các gia đình
có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi, cần bổ sung hoàn chỉnh các chính sách hỗ
trợ đối với học sinh nghèo và con em gia đình chính sách, con em gia đình nghèo
học giỏi. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục, đào tạo, điều
chỉnh cơ cấu phân bổ theo hướng không dàn trải và dành ưu tiên cho đầu tư phát
triển giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn.
- Thứ sáu, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp giáo dục giữa
nhà trường, gia đình và xã hội nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả cả về dạy
chữ, dạy nghề, dạy người. Ngăn chặn và chống lại sự xâm nhập của các tệ nạn xã
hội, hiện tượng tiêu cực vào nhà trường. Khắc phục tình trạng chúng ta mới chỉ
quan tâm đến dạy chữ, mà chưa quan tâm đến dạy người. Giáo dục gia đình không
nên khoán hết cho xã hội và nhà trường. Thực sự coi trọng giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước nhằm đào tạo những con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa hồng vừa
chuyên.
- Thứ bảy, đẩy mạnh công tác nghiên cứu đổi mới giáo dục, đào tạo; giải
quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục,
đào tạo. Phải thực hiện lộ trình đổi mới hệ thống giáo dục từ việc có kế hoạch tổ
chức nghiên cứu, sau đó đưa ra Quốc hội quyết định và Bộ Giáo dục và Đào tạo
thực thi. Thực hiện được lộ trình đó mới có thể tiếp tục xây dựng và phát triển lý
luận về nền giáo dục Việt Nam giàu tính nhân dân, khoa học, dân tộc, hiện đại trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu bổ sung
hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục, đào tạo của Đảng và Nhà
nước, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Thường xuyên đánh giá tác động
của các chủ trương, chính sách, các giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo. Làm sao
để giáo dục tiến kịp với yêu cầu của thời đại và không lạc hậu so với tiến trình đổi

mới kinh tế, văn hoá, xã hội.


- Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự
giám sát của các đoàn thể nhân dân đối với tiến trình đổi mới giáo dục, đào tạo.
Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương tăng cường lãnh đạo công tác đổi
mới giáo dục, đào tạo; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn giúp đỡ các cơ quan
giáo dục trong quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo. Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể tăng cường công tác lập pháp, giám sát và phản biện về
giáo dục, nhằm thúc đẩy việc đổi mới giáo dục đi đúng hướng.
Như vậy, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đóng một vai trò
quan trọng trong việc vận động và phát triển của đất nước, là một trong những
nhân tố cơ bản quyết định tương lai của dân tộc, là chìa khoá để mở ra tiềm năng
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục để
đào tạo những người lao động có tri thức, có tư duy độc lập, kết hợp tri thức khoa
học kỹ thuật, công nghệ với tri thức khoa học xã hội nhân văn, phát triển tự do và
toàn diện, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới thành công và hoàn thành
từng bước mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.


Câu hỏi 2: Những đổi mới đã và đang thực hiện tại đơn vị đang công tác?
Quán triệt Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
về giáo dục và đào tạo, trường THPT Nguyễn Thái Học đã và đang thực hiện một
số công tác đổi mới sau:
– Thứ nhất, hoạt động đổi mới công tác thi, kiểm tra, đánh giá được nhà
trường tập trung thực hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Cụ thể:
+ Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng đã quán triệt tinh thần đổi mới công tác
thi, kiểm tra, đánh giá; qui định những môn được tổ chức kiểm tra tập trung, cách
thức tổ chức ra sao, cách thức ra đề, chấm bài kiểm tra, vào điểm… đến tất cả các

đối tượng có liên quan (giáo viên, phụ huynh, học sinh).
+ Xây dựng kế hoạch tổ chức kiểm tra tập trung cho các khối trong cả học
kỳ.
+ Các tổ/nhóm chuyên môn thảo luận, thống nhất ma trận đề kiểm tra; phân
công giáo viên ra đề.
+ Hiệu trưởng trực tiếp quản lý, tổ chức sao in đề và trực tiếp bảo mật đề
đến thời điểm kiểm tra.
+ Sau khi kiểm tra, các bài thi được cắt phách và bàn giao lại cho tổ chuyên
môn tổ chức chấm, nhập điểm theo mã phách và nộp File điểm cho bộ phận phụ
trách.
+ Cuối cùng, sau khi hồi phách bài kiểm tra sẽ rã theo lớp; bộ phận phụ
trách công tác khảo thí sẽ trích thống kê chất lượng theo lớp để giáo viên và tổ tiến
hành rút kinh nghiệm và điều chỉnh hoạt động dạy học của mình.
– Thứ hai, nhà trường đã tập trung triển khai thực hiện đổi mới công tác
quản lý, chú trọng vào các giải pháp: Đẩy mạnh phân cấp quản lý, tăng cường tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tập huấn, bồi dưỡng, khảo sát năng lực cán bộ quản
lý, giáo viên, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý; đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng; đẩy mạnh công tác kiểm tra... Theo đó, trường đã chủ động xây
dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện đơn vị, năng lực giáo viên, đối
tượng học sinh để làm căn cứ tổ chức thực hiện; tăng cường nền nếp, kỷ cương;
tăng cường quản lý chặt chẽ việc dạy thêm, học thêm, chấn chỉnh tình trạng dạy
thêm, học thêm trái quy định; không có tình trạng lạm thu trong nhà trường.
– Thứ ba, nhà trường đã thực hiện đổi mới sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn
dựa trên nghiên cứu bài học; trong đó mỗi tổ/nhóm chuyên môn phải sinh hoạt
chuyên môn định kỳ 2 lần/trong tháng, ít nhất 2 lần sinh hoạt chuyên môn theo


hướng nghiên cứu bài học trong một học kỳ, tập trung vào việc nghiên cứu bài
học; xây dựng các chuyên đề cấp tổ, cấp trường, cấp cụm để cùng trao đổi chuyên
môn là nhiệm vụ giáo dục trung học trong năm học.

– Thứ tư, việc giáo dục Kỹ năng sống của học sinh được thực hiện trong nhà
trường, qua lồng ghép vào các môn học chính khóa và buổi sinh hoạt tập thể các
tiết sinh hoạt ngoài giờ và sinh hoạt dưới cờ bằng nhiều hoạt động trải nghiệm đa
dạng, phong phú như: hoạt động văn hóa, nghệ thuật; hoạt động xã hội, hoạt động
ngoại khóa; hoạt động tiếp cận khoa học-kĩ thuật; hoạt động tham quan, dã
ngoại…/.
Diên Khánh, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Người viết thu hoạch
(ký, ghi họ tên)

Phạm Văn Thông



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×