Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam– thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.5 KB, 27 trang )

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................1
PHẦN I : NHỮNG VẪN ĐỀ VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG
SẢN ..................................................................................................................3
1.Khái niệm về xuất khẩu ..............................................................................3
1.1.Khái niệm ....................................................................................................3
1.2. Các hình thức xuất khẩu ............................................................................4
2. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với Việt Nam ...................................5
3. Đặc điểm của mặt hàng nông sản ..............................................................6
3.1. Sản xuất nông sản chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên .............6
3.2. Đối tượng sản xuất là các sinh vật sống trong nước .................................6
3.3. Mang tính thời vụ, phân tán ......................................................................7
3.4. Các mặt hàng có tính tươi sống .................................................................7
3.5. Phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người ..................................................7
4. Đặc điểm của thị trường nông sản thế giới ..............................................8
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ..........................................10
1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam
trong những năm gần đây. .............................................................10
2. Cơ hội và thách thức với xuất khẩu nông sản của Việt Nam ...............13
2.1. Cơ hội ......................................................................................................13
2.2. Thách thức ...............................................................................................15
CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU NÔNG SẢN CHO VIỆT NAM .......................................................18
1. Định hướng phát triển trong thời gian tới .............................................18
2. Giải pháp xúc tiến phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt
Nam ................................................................................................................20
KẾT LUẬN ...................................................................................................25


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................26

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động
thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất
khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động, tạo
nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là
tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng
lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh xuất khẩu, mở
cửa nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành công các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam xây dựng và phát
triển thị trường trong nước, hoà nhập thị trường thế giới để khai thác nguồn lực thị
trường toàn diện cả trong và ngoài nước. Đặc biệt Việt Nam hiện là một nước trong
vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đường bờ biển dài trên 3200km và địa hình
có nhiều điều kiện thuận lợi để sản xuất thủy sản. Với 80% dân số làm nông nghiệp
nên các sản phẩm nông nghiệp khá dồi dào. Nếu các doanh Việt Nam nghiệp kinh
doanh xuất khẩu thực hiện tốt việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp nói chung và
thủy sản nói riêng ra thị trường thế giới sẽ góp phần nâng cao thu nhập và đời sống
cho các vùng sản xuất nông nghiệp tạo nhiều công ăn việc làm và làm lành mạnh
hoá cán cân thanh toán của nền kinh tế tạo cơ hội cho nền kinh tế tăng trưởng toàn
diện

Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu
tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là
một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho
phát triển kinh tế đất nước, trong đó mặt hàng thủy sản là chủ lực. Chính vì vậy, nhà
nước đã tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản nói chung và thủy sản nói riêng.

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 1


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong xuất khẩu, thì cũng còn không ít
những vẫn đề còn tồn tại trong quá trình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Vì vậy,
em xin được chọn đề tài: “Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam– thực trạng
và giải pháp phát triển”
Đề tài này đã tổng kết được những lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu,
phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trên cơ sở
đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam.
Em xin trần thành cảm ơn PGS.TS Vũ Thị Minh đã giúp em hoàn thành đề
án này!
Kết cấu đề án ngoài mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Phần I : Những vấn đề cơ bản về thị trường xuất khẩu hàng nông sản.
Phần II : Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam .
Phần III : giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông sản
của Việt Nam.


NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 2


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

PHẦN I
NHỮNG VẪN ĐỀ VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU NÔNG SẢN
1.Khái niệm về xuất khẩu
1.1.Khái niệm
Xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam. Hoặc đưa vào khu vực dặc biệt nằm trên lãnh thồ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Theo quan niệm của các doanh nghiệp thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa,
sản vật ra thị trường nước ngoài nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng nước
ngoài.
Như vậy có thể hiểu xuất khẩu là việc bán hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài
dựa trên lợi thế so sánh của mình nhằm mục đích kiếm lợi. Hoạt động xuất khẩu là
việc bán hàng hóa, dịch vụ cho các quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm
phương tiện thanh toán. Tiền tệ có thể là ngoại tệ với một hoặc cả hai quốc gia.
Hàng hóa xuất khẩu: Là hàng hóa sản xuất để đưa ra thị trường , mua bán
trao đổi trên thị trường nhưng là thị trường nước ngoài . Hàng hóa này phải di
chuyển qua biên giới của quốc gia. Đồng thời cũng phải đáp ứng được tiêu chuẩn,
chất lượng mà thị trường nhập khẩu đó đòi hỏi. Như vậy so với hàng hóa sản xuất
để bán trên thị trường nội địa nó phức tạp hơn nhiều
Giá cả xuất khẩu: Là mức giá của hàng hóa xuất khẩu, nó được đưa ra dựa
trên mức giá quốc tế và có sự chấp nhận của cả hai bên xuất nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu: Được hiểu là tổng giá trị hàng hjóa xuất khẩu của một

doanh nghiệp, một đơn vị kinh tế hay một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định.
Hạn ngạch xuất khẩu: Là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, được
hiểu là quy định của nhà nước về sản lượng hay giá trị của một mặt hàng, hay nhóm
mặt hàng sang một thị trường nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định thông
qua hình thức cấp giấy phép xuất khẩu ( Quota xuất khẩu ).

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 3


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Hợp đồng xuất khẩu: Là hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa một
bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài. Các chủ thể
của hợp đồng là ngừơi mua, người bán phải có trụ sở đăng kí kinh doanh tại các
nước khác nhau, thông thừơng là có quốc tịch khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất
hiện rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên tất mọi lĩnh vực, trong mọi điều
kiện. Từ lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng cho đến lĩnh vực công nghệ khoa học. Dù
ở lĩnh vực nào nó cũng nhằm đem lại lợi ích cho các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu
diễn ra trên phạm vi rộng cả về không gian và rhời gian. Nó có thể diễn ra trong thời
ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãn
thổ của một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau.
1.2 . Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức xuất khẩu hàng hóa dịch vụ do doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các khách
hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình mà không cần qua các tổ chức
trung gian. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là các doanh nghiệp có thể liên hệ
trực tế với nhau, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng để có thể

chủ động trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Hình thức này giúp các
doanh nghiệp giảm được khoản chi phí trung gian.
Xuất khẩu ủy thác: Đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một
lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và được hưởng một khoản theo thỏa
thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Đơn vị có hàng xuất khẩu không
phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư vào việc bán hàng ra nước ngoài nên rủi ro
kinh doanh không cao, nhưng họ không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị
trường nước ngoài nên không thể chủ động sản xuất hàng hóa.
Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt
chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hóa
mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu không
nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá
trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Giúp doanh nghiệp tránh được những biến
động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi doanh nghiệp

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 4


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Xuất khẩu theo nghị định thư: Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu
theo chỉ tiêu của nhà nước một hoặc một số hàng hóa nhất định cho chính phủ nước
ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được kí giữa 2 chính phủ. Cho phép doanh nghiệp
tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn
hàng, và thường không có rủi ro trong thanh thư.
Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức kinh doanh mà hàng hóa xuất khẩu không
cần vượt qua biên giới quốc gia khách hàng vẫn có thể mua được. Doanh nghiệp

xuất khẩu không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán với người mua mà
chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp. Hình thức này thường được áp dụng
với các quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại
quốc gia đó.
Gia công quốc tế: là hình thức xuất khẩu trong đó có một một bên nhập
nguyên liệu hoặc bán sản phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công)
dể chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một
khoản lệ phí như thỏa thuận của cả 2 bên. Bên nhận gia công thường là các nước
đang phát triển có lực lượg lao động dồi dào, có tài nguyên phong phú.
Tái xuất khẩu: Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã
nhập từ một nước khác sang nước thứ 3. Hình thức này được áp dụng khi có sự khó
khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Doanh nghiệp
ở nước tái xuất khẩu có thể thu được một khoản lợi nhuận lớn mà không phải tổ
chức kinh doanh.
2. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với Việt Nam
Việt Nam là nước nông nghiệp, với 80% dân số tham gia vào lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp. Có khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện rất tốt cho cây nông
nghiệp và sản phẩm vùng nhiệt đới phát triển. Khi xuất khẩu các mặt hàng nông sản
ra thị trường thế giới sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích.
Về luận Việt Nam có thể hưởng được các kết quả trong lý thuyết về lợi thế so
sánh tuyệt đối và tương đối và học thuyết về sự cân đối giữa các yếu tố trong kinh
doanh quốc tế. Như lao động rẻ, dồi dào, tỷ lệ lao động tham gia vào lĩnh vực sản

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 5


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


xuất nông nghiệp lớn, có kinh nghiêm sản xuất lâu đời; có điều kiện tự nhiên thích
hợp với sự sinh trưởng và phát riển của nhiều loại sản phẩm nông nghiệp…
Liên kết các hoạt động kinh tế của Việt Nam với nền kinh tế thế giới vì hoạt
động ngoại thương là bước đầu tiên để thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp cận với
những tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Giúp Việt Nam thực
hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khu vực hóa và toàn cầu
hóa nền kinh tế Việt Nam.
Tạo điều kiện để tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân. Thúc đẩy
các ngành phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như nghành phân bón, công nghiệp
chế biến nông sản phát triển. Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Qua xuất khẩu nông sản giúp cho Việt Nam thúc đẩy tiến bộ công nghệ khoa
học trong sản xuất chế bíến và bảo quản các mặt hàng nông sản sau thu hoạch, nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế,
thúc đẩy cuộc cách mạng đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi loại bỏ các sản phẩm kếm
hiệu quả, chất lượng, thực hiện tốt yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về mặt thương mại sẽ giúp cho Việt Nam phát triển công nghệ kinh doanh,
nắm bắt và làm quen với các thông lệ quốc tế đi đến thực hiện tốt các quan hệ
thương mại quốc tế, và thu ngoại tệ về cho đất nước.
3. Đặc điểm của mặt hàng nông sản
3.1. Sản xuất nông sản chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên
Đất đai , khí hậu thời tiết, địa hình nguồn nước… hay nói một cách cụ thể
hơn là các điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển của
cây trồng. Từ đó tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng, giá cả, nguồn hàng
nông nghiệp cho xuất khẩu. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì năng suất và chất
lượng sẽ cao. Và ngược lại, nếu thời tiết không thuận lợi thì năng xuất và chất lựng
nông sản đều giảm và giá cao.
3.2. Đối tượng sản xuất là các sinh vật sống trong nước
Về trữ lượng, khó xác định một cách chính xác trữ lượng thủy sản có trong
một ao hồ hay ngư trường. Đặc biệt ở các vùng mặt nước rộng lớn, các sinh vật có


NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 6


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

thể di chuyển tự do trong ngư trường hoặc gi cư từ vùng này qua vùng khác không
phụ thuộc vào ranh giới hành chính.
Hướng di chuyển và phát triển của các sinh vật chịu tác động của nhiều nhân
tố như thời tiết khí hậu, dòng chảy, địa hình, thủy văn và đặc biệt là nguồn thức ăn
tự nhiên. Điều này tạo cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển nhiều
ngành nghề khai thác khác nhau của ngư dân
3.3. Mang tính thời vụ, phân tán
Việc sản xuất thu hoạch nông sản thường được tiến hành theo mùa vụ rõ
ràng, cụ thể với từng loại cây và từng khu vực nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện
thời tiết ở nơi sản xuất. Năng suất, chất lượng, giá cả của nông sản có sự biến động
tùy thuộc vào từng mùa vụ. Vào chính vụ sản lượng lớn, chất lượng đồng đều,
phong phú về chủng loại, giá rẻ. Trái vụ hoặc thời tiết không thuận lợi thì sản lượng
thấp, chất lượng không đồng đều, giá cao.
Mỗi loài sinh vật thủy sản khác nhau phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu
khác nhau. Do đó sẽ trồng và phát triển ở những vùng khác. Nông sản phân tán ở
các vùng nông thôn và trong tay hàng triệu nông dân, nhưng sức tiêu thụ lại tập
trung ở thành phố và các khu công nghiệp. Phương thức lưu thông hàng nông sản là
phân tán –tập trung, nông thôn-thành thị. Vì vậy việc bố trí thu mua, chế biến, vận
chuyển phải phù hợp với các đặc điểm nói trên.
3.4. Các mặt hàng có tính tươi sống
Các sản phẩm nông sản sau khi thu hoạch hoặc đánh bắt đều rất dễ ươn thối,
hư hỏng vì chúng đều là những sản phẩm sinh vật đã bị tách ra khỏi môi trường
sống. Để tránh tổn thất trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải

có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến và kinh
doanh tiêu thụ sản phẩm; từ khai thác đến đầu tư tái tạo nguồn lợi, đầu tư cơ sở hạ
tầng dịch vụ một các đồng bộ.
3.5. Phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người
Chất lượng hàng nông sản tác động trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu
dùng. Nên yêu cầu về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được đặc biệt coi trọng
và được quy định chặt chẽ trong quá trình sản xuất chế biến, bảo quản. Ngày nay

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 7


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

chất lượng trở thành công cụ cạnh tranh khá hiệu quả và để xâm nhập vào các thị
trường khó tính thì đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao, đáp ứng được các tiêu
chuẩn cần thiết mà thị trường nhập khẩu đặt ra.
4. Đặc điểm của thị trường nông sản thế giới
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn, uống của con người.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng nông sản
nói chung và thủy sản nói riêng có phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có
phẩm cấp thấp ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu
cầu thiết yếu của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối
với sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản. nhưng
các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu. Tuy
nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các mặt hàng thô
hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là

những nước chính nhập khẩu hàng nông sản. Đây có thể là các nước chậm phát
triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước đối với hàng
nông sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển và đang phát triển
có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm lương thực. Những sản phẩm này
có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ cần một sự thay đối nhỏ về giá cả
sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu dùng của người dân tại các nước này.
Ngược lại, tại các nước phát triển, người tiêu dùng chỉ chấp nhận sản phẩm có chất
lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại và ngày càng
khó tính hơn. Hiện tại các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn
nhất thế giới. Tuy nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và
sâu rộng chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường
nông sản nội địa dưới nhiều hình thức. Theo báo Tiếng vang (Les Echos) của Pháp,
tại cuộc họp không chính thức của Liên minh châu Âu (EU) ngày 21/9 ở Brussels,
Bỉ, 27 bộ trưởng Nông nghiệp EU đã ủng hộ quan điểm của Pháp và Đức khẳng
định sự cần thiết phải duy trì chính sách nông nghiệp chung (CAP) cho giai đoạn

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 8


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

2014-2020.Hiện nay, CAP chiếm khoảng 40% ngân sách của EU, nghĩa là khoảng
58 tỷ euro. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng nông sản ở các nước đang
phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản xuất khẩu, hạn chế tác động của
quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh tranh hàng nông sản của các nước đang
phát triển vốn nhờ vào lao động rẻ. Cơ chế này không những làm tăng khả năng
xuất khẩu hàng nông sản của các nước này mà còn hạn chế nhập khẩu nông sản của

các nước này. Đây thực tế là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp và xuất
khẩu khẩu nông sản của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các nước phát triển
phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng
tự do hoá thị trường nông sản thế giới. Điều này dường như dẫn tới một tương lai
sáng sủa hơn cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang
phát triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các
nước đang phát triển lại phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là những quy
định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà trong nhiều
trường hợp người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm ngăn cản hàng nông
sản của các nước đang phát triển tràn vào thị trường các nước phát triển.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn cung
cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc Mỹ đã đẩy
kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh tranh quyết liệt
khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, gây bất lợi cho
những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước xuất khẩu nông sản.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy nhiên theo
đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO) với tốc
độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao nhưng đất đai
sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công nghiệp hoá làm cho tốc
độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình
quân sản lượng nông sản trên thị trường thế giới) thì đến năm 2020 cầu về hàng
nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt xa cung. Điều này mở ra một cơ hội mới
cho các nước đang phát triển xuất khẩu nông sản nói chung và Việt Nam nói riêng
có thể đẩy mạnh xuất khẩu nông sản trong tương lai.

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 9



ĐỀ ÁN MÔN HỌC

PHẦN II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong
những năm gần đây.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu
của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát
triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc lập phát triển
của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới phải cân bằng với sự
phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất nhập khẩu là yếu tố quan
trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ,
tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước.
Những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những
chuyển biếm tích cực như: Sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, Cơ cấu các mặt
hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng
loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị
trường. Sự thay đổi đó thể hiện rất rõ ở kết quả xuất khẩu nông sản cuả Việt Nam
năm 2007, 2008, 2009 và những 6 tháng đầu năm 2010
Trong những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản đã có những chuyển
biếm tích cực như sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, Cơ cấu các mặt hàng xuất
khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm tỷ trọng loại hàng hóa
chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Thị trường xuất khẩu hàng
húa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Trong
số các nước ở Châu Á như Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta sang các nước đó cũng đó thay đổi theo

hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và Châu Mỹ.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007 là
năm thành công trong xuất khẩu nông sản. Đến thời điểm 12/12/2007, kim ngạch

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 10


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của cả nước đã đạt 11,5 tỷ USD, tăng 19,5% so cùng
kỳ năm trước, vượt kế hoạch cả năm 5,6%. Trong đó, kim ngạch nông sản ước đạt
khoảng 5,7 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 24%, thủy sản ước đạt 3,4 tỷ USD,
tăng 11,8% so cùng kỳ và đạt 95% kế hoạch, lâm sản ước đạt trên 2,3 tỷ USD, tăng
20% so cùng kỳ và đạt 99% kế hoạch. Tính đến hết tháng 11/2007, các mặt hàng
đều có kim ngạch xuất khẩu tăng so cùng kỳ năm trước, nhiều mặt hàng tăng rất
mạnh như cà phê tăng 1,7 lần, mặt hàng lạc, đường, dầu mỡ động thực vật tăng 2-3
lần. So kế hoạch năm, gạo, cà phê, điều và sản phẩm gỗ đã đạt và vượt kế hoạch
năm cả về lượng và giá trị, một số mặt hàng khác khó đạt được mục tiêu kế hoạch là
rau quả, cao su và lạc.
Đặc biệt, đến hết tháng 11/2007, xuất khẩu gạo đã hoàn thành chỉ tiêu với sản
lượng xuất khẩu xấp xỉ năm trước (4,5 triệu tấn) nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng
18% (kim ngạch 1,45 tỷ USD). Cà phê Việt Nam vượt ngưỡng xuất khẩu 1 triệu tấn
với tổng giá trị kim ngạch 1,63 tỷ USD (cao hơn mức dự kiến xuất khẩu của cả năm
là 26%). Như vậy, cà phê là mặt hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh nhất
trong tất cả các mặt hàng nông lâm thủy sản so với dự kiến kế hoạch năm 2007.
Hiện đã có tới 5 mặt hàng là thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, cà phê, gạo và cao su đạt
giá trị xuất khẩu từ 1-3 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong năm 2007 đã đạt được những kết quả

tích cực cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Tổng kim nghạch xuất khẩu cả năm đạt
48,387 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006 ( kế hoạch của chínhnh phủ đề ra là
46,7 tỷ USD, tăng 17,4%). Trong đó tỷ trọng hàng húa chế biến, chế tạo, có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao tăng dần, tỷ trọng hàng hóa chưa qua chế biến
giảm dần. Nông nghiệp Việt Nam vẫn phátt triển theo hướng tích cực với tốc độ
tăng trưởng 3,25%, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 19,8% GDP cả nước. Sau
một năm gia nhập WTO, bức tranh xuất khẩu nông sản đẹp hơn bao giờ hết với tổng
giá trị xuất khẩu ước đạt 12,6 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2006, chiếm 25% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước và đó vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 tới 1,5 tỷ
USD.
Tuy thị trường xuất khẩu năm 2008 có nhiều biến động, nhưng kim ngạch
xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2008 đạt 16,24 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm
2007, đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Trong đó các mặt hàng nông

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 11


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

sản ước 8,42 tỷ USD, tăng 34%; lâm sản và gỗ đạt 3,0 tỷ USD, tăng 13,4%; mặt
hàng thuỷ sản 4,5 tỷ USD, tăng 19,6%. 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD cụ
thể là: gạo 2,87 tỷ USD, cà phê 2,0 tỷ USD, cao su 1,6 tỷ USD, đồ gỗ 2,8 tỷ USD,
tôm gần 1,5 tỷ USD, cá tra trên 1 tỷ USD. Đặc biệt, mặt hàng điều có kim ngạch
xuất khẩu tăng nhanh, đạt trên 908 triệu USD, tăng 38,8% so với năm 2007. Hầu hết
hàng nông sản năm nay đều xuất khẩu tăng mạnh với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên như thủy sản, gạo, cà phờ, cao su, sản phẩm gỗ. Nhưng
Việt Nam vẫn bị thất bại trong việc tìm kiếm, trinh phục thị trường mới. Khó khăn ở
cỏc thị trường truyền thống buộc doanh nghiệp phải tìm tòi, xâm nhập thị trường

mới, nhưng kết quả khụng mấy lạc quan. Vỡ vậy các doanh nghiệp quyết định quay
về các thị trường truyền thống như: Nga, Đông Âu, Tây Âu, Trung Đông và Ai Cập,
Đài Loan, Mỹ. Nhật Bản… Tuy nhiờn khối lượng nhập khẩu vào các thị trường nay
cũng rất hạn chế. Theo ông William Troy, Công ty Thương mại Toàn cầu (Mỹ) cho
biết, sỡ dĩ khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của hàng nụng sản Việt Nam cũn hạn
chế, chính là do năng lực cạnh tranh kém. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng
nụng sản của Việt Nam sang các nước thuộc khối ASEAN vẫn luụn phập phù, dao
động từ 400 - 900 triệu USD/năm với mặt hàng chủ yếu là gạo
Kết quả xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2008

STT

Triệu USD

Trị giá

Số lượng

1

Thủy sản

4,500

2

Gạo

4,500


3

Cà phê

1,100

4

Rau quả

5

Cao su

730

2,000

780

6

Hạt tiêu

100

350

120


7

Nhân điều

170

940

190

8

Chè các loại

115

155

130

9

Mây, tre, cói & thảm

2,700

4,500
2,300

1,200


370

3,500

10

Sản phẩm gỗ
2,800
3,200
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
nông, lâm, thuỷ sản năm 2009 đạt 15,46 tỷ đôla Mỹ, giảm 6% so với năm 2008.

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 12


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Trong đó: nông sản trên 7,9 tỷ USD, so với cùng kì năm trước giảm 9,5%; thuỷ sản
trên 4,2 tỷ, giảm 6,73% so với cùng kì; lâm sản 2,74 tỷ USD, giảm 11% so cùng kì
(Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2009, triển khai kế hoạch năm 2010- vụ kế hoạch,
Bộ Nông Nghiệp)... Tuy giảm so với năm 2008 nhưng vẫn vượt chỉ tiêu đề ra cho
năm 2009 là 14 tỷ USD. Có 6 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trở lên là: gạo
(2,66 tỷ USD), cà phê (1,71 tỷ USD), cao su (1,2 tỷ USD), đồ gỗ (2,55 tỷ USD),
tôm (1,7 tỷ USD), cá tra (1,3 tỷ USD).
Trong năm 2010, mục tiêu đặt ra cho xuất khẩu nông – lâm – thủy sản là từ
16 đến 16,5 tỷ USD. Theo số liệu trong bản báo cáo 10 tháng đầu năm 2010 thì tổng
kim ngạch xuất khẩu 10 tháng ước đạt 15,6 tỷ USD, tăng 22,53% so với cùng kỳ,

đạt 94,5% kế hoạch năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản
chủ yếu đạt 7,89 tỷ USD, tăng 18,14%; thủy sản đạt 3,98 tỷ USD, tăng 14,46%; các
mặt hàng lâm sản chính tăng tới 33,09% so với cùng kỳ với giá trị 2,91 tỷ USD.
Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều
kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước, song do kim ngạch
xuất khẩu vào ASEAN tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình quân, trong khi
kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên nhập siêu từ khu vực
này tiếp tục tăng.
2. Cơ hội và thách thức với xuất khẩu nông sản của Việt Nam
2.1. Cơ hội
Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được những
thành tựu hết sức to lớn. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, rau quả và cây công
nghiệp đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Liên tục trong nhiều năm, nông
nghiệp đạt mức tăng trưởng trên 4,5%/năm. Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu thị trường nội địa, xuất khẩu nông sản cũng tăng nhanh cả về sản lượng
và kim ngạch. Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khách hàng
tiêu thụ truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông
sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu
Phi.
Các chuyên gia về nông nghiệp đến từ Australia, những người tham gia tư
vấn và soạn thảo bộ khung về bộ ASEAN GAP (sản xuất nông nghiệp an toàn theo

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 13


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

tiêu chuẩn chung của các nước ASEAN) đều nhận định, WTO mang lại cho Việt

Nam một "sân chơi" khổng lồ, với hơn 5 tỷ người tiêu thụ, 95% giá trị thương mại
thế giới và kim ngạch nhập khẩu trị giá 635 tỷ USD/năm. Nhưng thách thức từ "sân
chơi" này còn lớn hơn, nhất là ngành nông nghiệp. Vấn đề là phải tìm mọi cách để
vượt qua và sử dụng hiệu quả các công cụ để bảo vệ sản xuất trong nước. Việt Nam
đã đi tắt đón đầu khá thành công nhờ ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới
để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp và trở thành quốc gia hàng đầu về xuất
khẩu nông sản: hồ tiêu (thứ nhất), gạo và cà phê (thứ 2), hạt điều (năm 2006 VN
vượt qua Ấn Độ có lượng xuất khẩu nhiều nhất)...
Tổ chức thương mại thế giới buộc các thành viên của WTO phải cam kết
không cắt giảm, mà còn loại bỏ dần tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu. Là một
nước nông nghiệp và đặc biệt là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới, Việt
Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu gạo và thị trường đối với nông phẩm hơn vì
các hạn chế về số lượng đối với gạo và nông phẩm sẽ được chuyển thành thuế và
thuế phải cắt giảm theo Hiệp định nông nghiệp. Việt Nam sẽ có lợi nhiều khi các thị
trường gạo mở cửa, đặc biệt là thị trường của Nhật Bản và Hàn Quốc. Là một nước
ĐPT nghèo, theo Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam không phải đưa ra các cam kết
giảm trợ cấp xuất khẩu nông sản (trong khi đó các nước công nghiệp phát triển phải
cắt giảm 36% nguồn ngân sách dành cho trợ cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6
năm, các nước ĐPT nói chung phải cắt giảm 24% trong vòng 10 năm). Việt Nam
cùng không bị yêu cầu cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (trong khi đó,
các nước nông nghiệp phải cắt giảm 20% mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6
năm, các nước ĐPT khác là 13,3% trong vòng 10 năm). Tuy nhiên, nếu hàng hóa
của Việt Nam là hàng hóa cạnh tranh, thì những sự miễn trừ nói trên sẽ bị loại bỏ
trong vòng 8 năm.
Cùng với những ưu thế sẵn có của nông sản Việt Nam, việc gia nhập WTO
tiếp tục tạo đà thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Các ngành hàng xuất khẩu trong
năm đều mở rộng thêm nhiều bạn hàng mới. Ví dụ, nhiều năm trước, xuất khẩu cao
su của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Trung Quốc thì năm qua đã có sự
chuyển dịch rõ rệt. Từ đầu năm đến nay sản lượng cao su xuất khẩu sang Trung
Quốc giảm chỉ còn khoảng 59%, trong khi xuất sang các thị trường khác như Hàn

Quốc, Đài Loan, Malaysia, Đức lại tăng đáng kể. Với ngành chè, những nỗ lực cải
thiện chất lượng chè Việt Nam sau khi gia nhập WTO còn mang lại kết quả rõ nét

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 14


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

hơn. Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, sau những nỗ lực của ngành chè trong việc đầu
tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến chè theo quy hoạch, đồng thời tổ chức
lại ngành chè theo hướng từng bước hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ lệ các sản phẩm chè
tinh chế, có chất lượng cao và đa dạng hóa sản phẩm, giá chè xuất khẩu của Việt
Nam đã được cải thiện đáng kể với mức tăng khoảng 25%, tương ứng mức tăng
270-280 USD/tấn.
Theo dự báo, trong những năm tới, các thị trường nhập khẩu nông sản của
Việt Nam đều có khả năng tăng kim ngạch nhập khẩu. Theo đó, đối với thị trường
Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ tăng từ 400-500 triệu
USD/năm hiện nay lên 700-800 triệu USD/năm, gồm các mặt hàng chủ yếu là cao
su, hạt điều, tinh bột sắn. Đối với thị trường Mỹ, hiện nay, kim ngạch xuất khẩu
hàng nông, lâm sản của chúng ta mới chiếm khoảng 0,4-0,5% tổng kim ngạch nhập
khẩu nông, lâm sản của nước này. Đây thực sự là một con số khiêm tốn so với tiềm
năng hiện có của ngành nông sản Việt Nam cũng như nhu cầu nhập khẩu của thị
trường Mỹ. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang
các nước thuộc khối ASEAN vẫn luôn phập phù, dao động từ 400-900 triệu
USD/năm với mặt hàng chủ yếu là gạo. Dự báo, Hiệp định AFTA sẽ tạo cơ hội để
Việt Nam xuất khẩu cà phê, vật tư, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến sang khu
vực này.
2.2. Thách thức

Cũng giống như nhiều nước đang phát triển, lĩnh vực nông nghiệp của Việt
Nam từ rất sớm đã phải đương đầu với những biến động và rủi ro của thị trường. Do
ảnh hưởng của thị trường mở nên trong nhiều năm qua, giá cả các sản phẩm nông
sản hàng hóa cũng như vật tư nông nghiệp trong nước đã sát với thị trường thế giới.
Và chính nhờ cuộc “tập dượt” này mà khi cánh cửa WTO mở rộng, nông dân Việt
Nam đã được làm quen với thương trường...
Mức thuế nhập khẩu bình quân đã áp dụng thời gian qua của nông sản Việt
Nam là 24%. Đây là mức thuế khá cao so với mức thuế bình quân 18% và cao hơn
so với các nước khác trong khu vực. Thực tế, Việt Nam áp dụng mức thuế nhập
khẩu thấp (0 - 10%) đối với vật tư nông nghiệp (giống cây trồng, vật nuôi, nguyên
liệu chế biến thức ăn gia súc...) và mức trung bình (15 - 30%) với nông sản tươi (rau
quả tươi, sữa, thịt tươi, đông lạnh...), mức thuế cao (40 - 50%) và rất cao (60 -

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 15


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

100%) chỉ nhắm vào sản phẩm chế biến (thịt, cà phê hòa tan, rượu, bia, thuốc lá,
nước giải khát...). Bởi vậy, theo đánh giá của ông Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện
Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp, đối tượng được bảo vệ có vẻ là
ngành công nghiệp chế biến hơn là nông dân. Khi chưa bị ràng buộc bởi các quy
định WTO, mức trợ cấp cho xuất khẩu nông sản xưa nay vẫn ở mức thấp vì nước ta
còn nghèo, khả năng trợ cấp của Chính phủ còn hạn chế. Các hình thức trợ cấp đã
áp dụng (thưởng xuất khẩu, trợ lãi xuất thu mua dự trữ gạo...) cũng mang lại lợi ích
cho doanh nghiệp hơn là cho nông dân. Do khả năng ngân sách hạn chế, ngay cả
đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp cũng thấp hơn nhiều so với mức cho phép
(10% giá trị sản lượng) của WTO.

Tại buổi hội thảo do Câu lạc bộ Xây dựng thương hiệu nông-thủy sản Việt
Nam tổ chức, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Vọng (chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New
South Wales, Australia) cho rằng, tay nghề của bà con nông dân - lực lượng sản xuất
chiếm đa số lại chưa ngang tầm với những vị thế trên, hàm lượng chất xám tạo nên
giá trị gia tăng trong nông sản làm ra chưa nhiều, chủ yếu vẫn còn xuất thô. Vì vậy,
dù là quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng đời sống của nông dân vẫn
còn thấp. Và điều quan trọng, tính bền vững trong nông nghiệp còn rất bấp bênh,
bộc lộ nhiều lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất, từ giống, chăm sóc... cho đến sau thu
hoạch, thể hiện qua việc sản xuất theo phong trào. Trong khi đó, xét về mặt kinh tế
và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp
chưa hợp lý.
Điều này thấy rõ giữa cơ cấu cây lúa (giá trị trên một đơn vị diện tích thấp
hơn nhiều lần so với các loại cây trồng khác), diện tích trồng khoảng 7 triệu ha so
với hơn 1,4 triệu ha cây ăn trái, trong khi nhu cầu nhập khẩu của các nước trong tổ
chức WTO hàng năm có đến gần 103 tỷ USD rau quả so với khoảng 10 tỷ USD lúa
gạo... Vì vậy, thu nhập từ người trồng lúa bao giờ cũng thấp hơn các loại cây khác,
nhất là cây ăn trái.
Tiến sĩ Nguyễn Quốc vọng cho rằng "sân chơi" WTO quy định 4 "luật chơi"
cũng chính là 4 thách thức trong sản xuất nông sản mà chúng ta đang thiếu: Đó là
luật chơi về số lượng với yêu cầu hàng hóa phải lớn về số lượng, đồng bộ về kích
cỡ, màu sắc, bao bì và thời gian giao hàng chính xác. Hai là luật chơi về chất lượng
với chứng chỉ xác nhận về nguồn gốc giống, chất lượng sản phẩm... để chứng minh
mặt hàng đảm bảo về chất lượng. Ba là, giá rẻ để có thể cạnh tranh, yếu tố quyết
định như một thứ luật bất thành văn của bất cứ quốc gia nào muốn tham gia "cuộc

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 16



ĐỀ ÁN MÔN HỌC

chơi" này. Và cuối cùng là luật chơi về an toàn thực phẩm, với yêu cầu hàng hóa
phải có chứng chỉ nông nghiệp an toàn hay còn gọi là nông nghiệp tốt (GAP - Good
Agricultural Practices) để đảm bảo tính vệ sinh và an toàn sản phẩm.
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề rộng trên
cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng hơn mặt chất
lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nông sản Việt
Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khác nhau, hiệu quả xuất khẩu
thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Trong cơ cấu giá trị
xuất khẩu hàng hoá, tỷ trọng trị giá hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm vị trí khiêm
tốn và có xu hướng giảm. Điều đáng quan tâm là sức cạnh tranh của hàng nông sản
Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp kém, do vậy hiệu quả xuất khẩu chưa cao,
chưa tạo được thế đứng vững chắn trên thị trường quốc tế.

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 17


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN CHO VIỆT NAM
1. Định hướng phát triển trong thời gian tới
Nền nông nghiệp Việt Nam đã từng bước trở thành một nền nông nghiệp
hàng hóa hướng tới xuất khẩu. Theo ước tính, trong 10 năm qua, tỷ trọng xuất khẩu
gạo trung bình khoảng 16%, cà phê hơn 90%, điều 60%, cao su và tiêu gần 100%...
Nhìn chung, tổng giá trị xuất khẩu chiếm đến 50% tổng giá trị sản xuất nông sản.

Việt Nam bước vào WTO, những mặt hàng có mức thuế nhập khẩu giảm nhiều,
ngoài các nông sản đã qua chế biến, đa số là những mặt hàng Việt Nam không có lợi
thế nên không xảy ra cạnh tranh đối đầu trên quy mô lớn với sản xuất trong nước (ví
dụ hoa quả ôn đới, sản phẩm chăn nuôi, sữa...). Tuy nhiên, cái giá phải trả để người
nông dân Việt Nam đứng vững trước cạnh tranh thị trường là khá đắt. Xuất khẩu
nông sản hiệu quả thấp, thu nhập của nông dân thấp và tăng chậm so với cư dân đô
thị và người lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Các định hướng phát triển xuất
khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới:
- Ðẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo
hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và
điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu của ngành, nghề, cơ cấu lao
động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Ðưa nhanh tiến bộ khoa học
và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu vực về trình độ
công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích. Tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị trường tiêu thụ nông
sản trong và ngoài nước, tăng đáng kể thị phần của các nông sản chủ lực trên thị
trường thế giới. Chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn, sử dụng các thiết
bị, máy móc cơ giới trong sản xuất. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với
vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ;
liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên từng địa bàn và trong cả nước.
Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý
và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ đất, nguồn nước, vốn rừng gắn với bảo vệ
môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm văn

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 18


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


hoá ở làng xã; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, xây dựng cuộc sống
dân chủ, công bằng, văn minh ở nông thôn.
- Xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Ðiều chỉnh quy hoạch sản xuất lương thực phù hợp với nhu cầu và khả năng
tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực trong
mọi tình huống. Xây dựng các vùng sản xuất tập trung lúa hàng hóa và ngô làm thức
ăn chăn nuôi; tận dụng điều kiện thích hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương
thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính sách bảo
đảm lợi ích của người sản xuất lương thực. Phát triển theo quy hoạch và chú trọng
đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè, điều, hạt tiêu,
dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá..., hình thành các vùng rau, hoa quả có giá trị
cao gắn với phát triển cơ sở bảo quản, chế biến. Phát triển và nâng cao chất lượng,
hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm, mở rộng phương pháp nuôi công nghiệp gắn
với chế biến sản phẩm; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp. Phát huy
lợi thế về thuỷ sản, tạo thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của đất nước. Phát triển
mạnh nuôi, trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo
phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền bững môi trường. Tăng cường năng lực và
nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định
khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm đáp ứng nhu cầu
thị trường quốc tế và trong nước. Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che
phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo
hướng xã hội hoá lâm nghiệp, có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được
bằng nghề rừng. Kết hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ để
định canh, định cư ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn
đốt, phá rừng. Ðẩy mạnh trồng rừng kinh tế, tạo nguồn gỗ trụ mỏ, nguyên liệu cho
công nghiệp bột giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu;
nâng cao giá trị sản phẩm rừng.
- Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là
công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng

giống cây con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Ðưa nhanh công nghệ mới vào
sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp. Hạn chế việc sử dụng hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 19


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát
huy tác dụng của các cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
- Tiếp tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thủy lợi ngăn mặn, giữ
ngọt kiểm soát lũ, bảo đảm tưới tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể
cả cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản) và đời sống nông dân. Ðối với những khu
vực thường bị bão, lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải điều
chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích ứng với điều kiện thiên nhiên. Nâng cao
năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai, hạn chế thiệt
hại. Đảm bảo đủ nước tưới tiêu cho các vùng sản xuất nông nghiệp.
- Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông
thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần
doanh nghiệp gia công (may mặc, da giày...) và chế biến nông sản ở thành phố về
nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở chuyển một bộ phận lao
động nông nghiệp sang các ngành, nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho
mỗi lao động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất, tăng việc làm và thu nhập cho
dân cư nông thôn. Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng
bình quân hàng năm 4,0 - 4,5%. Ðến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt

đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16 -17%; tỷ trọng
ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ
sản đạt sản lượng 3,0 - 3,5 triệu tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng).
Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng.
Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9 -10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản
khoảng 3,5 tỷ đồng.

2. Giải pháp xúc tiến phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt
Nam
Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường phải
xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng tốt nhất nhu
cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí. Điều này

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 20


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến lược: dựa vào cơ sở khả năng
để hoạch định phương hướng sản xuất. Trong quá trình hoạch định chiến lược phát
triển nông nghiệp, phải coi trọng công tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo
từng loại nông sản và theo từng khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát
triển sản xuất, vừa có chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường
và củng cố vị thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển
nông nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm
tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công nghệ, nâng
cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược này phải được sử dụng như
một trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước định hướng phát triển sinh học và

xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định hướng
đó.
Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ , nâng cao trình độ
khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp trong những năm qua có
phần đóng góp quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh
học.
Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp
hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng
dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái cừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa
nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông
sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích. Với từng vùng, từng loại cây
trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau
sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong
nông nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất,
chất lượng cao bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất
theo yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công
nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất đáp
ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, cần
chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản, đảm bảo đưa đến người tiêu

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 21


ĐỀ ÁN MÔN HỌC


dùnng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc, hương vị và bảo
đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản:
Là cách nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất
khẩu sản phẩm thô, đồng thời tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản
xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ
bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn
rất thấp. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề,
trong đó chủ yếu là:
- Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định
hướng xuất khẩu. Từ đó tập trung tập trung đầu tư thâm canh, ứng dụng các thành
tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu.
- Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng
nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song
2 hướng: đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế
biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ
công nghệ hiện đại.
- Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất nguyên liệu và
chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và
sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện điều đã cam kết.
Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu:
Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông sản. Chỉ
khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có đầy đủ thông tin hiểu biết về thị trường
và các quan hệ thị trường thì họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất của mình theo
yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt yếu của những người sản xuất hàng hoá ở
nông thôn hiện nay. Do vậy, họ dễ bị điều tiết một cách tự phát bởi các quan hệ thị
trường, dễ bị thua thiệt trong hành xử trên thị trường. Công tác khuyến nông,
khuyến thương cần đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức cơ bản về
thị trường và nâng cao năng lực thị trường của các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông


NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 22


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

thôn.
- Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng hoá,
trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng. Đây vừa là cách thức thâm nhập
và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu
bảo vệ quyền lợi của ngưới sản xuất trong cạnh tranh quốc tế.
- Tạo điều kiện công nghiệp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia trực
tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp hành động
giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác nhau trên cùng một thị
trường và cùng một loại hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nông sản thông qua việc tham gia
hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, quảng bá hàng hoá và doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá, tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch nông sản ở các vùng sản xuất
hàng hoá tập trung…
Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản.
So với một số nước Đông Nam Á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và cơ cấu
sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi thế hơn chúng ta
ở trình độ khoa học công nghệ và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Trong
điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả của xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh
của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất
và xuất khẩu. Quan hệ liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ để tạo ra những
giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao;

- Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất khẩu
theo tiêu chuẩn quốc tế;
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông
thôn.
- Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong thực
hiện hoạt động xuất khẩu nông sản;

NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 23


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

- Hình thành các hiệp hội theo ngành hàng để phối hợp hành động trên thị
trường quốc tế.
Tổ chức xây dựng và thực hiện chương trình GAP
GAP là chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ khâu chuẩn bị
sản xuất đến trước và sau thu hoạch, kể cả các yếu tố liên quan khác như môi
trường, thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc, phúc lợi người
lao động, là khó khăn nhất. Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng quy trình VietGAP
dựa trên bộ ASEAN GAP – một quy trình GAP chính thức cho các nước thành viên
ASEAN vừa được công bố đầu tháng 11-2006, cùng với sự tham khảo các yêu cầu
của EuroGAP. Xây dựng chiến lược phát triển mạnh ngành cây ăn trái, rau quả, kể
cả hoa; nhanh chóng hoàn thành bộ VietGAP và có chương trình tập huấn rộng khắp
về VietGAP cho nông dân là cách để nhà nước giúp bà con tham gia vào "cuộc
chơi" WTO. Có như thế mới nói đến khả năng xuất khẩu nông sản, nhất là rau quả,
đồng thời sử dụng VietGAP như một rào cản kỹ thuật, bắt buộc những mặt hàng
nông sản các nước muốn xuất khẩu vào VN phải đáp ứng yêu cầu này.


NGUYỄN XUÂN HỘI _ CQ491083

Page 24


×