Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường lao động cho người nghèo ở huyện Con Cuông Tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.66 KB, 83 trang )

Chuyên đề thực tập

1

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành chuyên đề này, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của
bản thân, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của các tổ
chức và cá nhân.
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Hoàng Ngọc Việt,
người thầy đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Tôi cũng xin được cảm ơn Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông thôn đã tạo điều kiện để tôi thực tập, nghiên cứu và hoàn thành
chuyên đề.
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
Sinh Viên
Đặng Thị Thúy Hằng

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

2

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt


LỜI MỞ ĐẦU
Sự tăng trưởng một cách ấn tượng (trung bình khoảng 8%/năm), Việt Nam
đang tạo ra sự hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Sức hút đối với
các nhà sản xuất và đầu tư quốc tế bắt nguồn từ chính giá trị nội tại và tương lai tươi
sáng của Việt Nam. Với 86.164,5 nghìn người, hiện nay Việt Nam có khoảng
49.301,9 nghìn lao động, trong đó lao động trẻ từ 18 – 34 tuổi chiếm 45% và hàng
năm tiếp tục được bổ sung mới 1,5 triệu lao động. Đây là một thế mạnh của Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Song, hiện nay khả năng tiếp cận thị
trường lao động của người dân Việt Nam còn nhiều hạn chế, chất lượng lao động
thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 25% trên tổng số lao động. Hầu
hết lao động phổ thông có thu nhập thấp và bất cứ ai cũng đang phải đối mặt với
nguy cơ mất việc làm do tác động của quá trình hội nhập và suy thoái kinh tế. Do
vậy, lao động - việc làm và cơ hội tiếp cận thị trường lao động đang là mối quan
tậm chung của toàn xã hội. Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường lao động, giải
quyết việc làm đặc biệt đối với cộng đồng người nghèo là giải pháp để góp phần
thực hiện thắng lợi kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 và những
năm tiếp theo.
Hiện nay với khoảng 80% dân số, chiếm 70% lực lượng lao động toàn xã hội,
nông thôn được coi là khu vực cung cấp lao động chủ yếu cho nền kinh tế. Song
thực tế lao động ở nông thôn nói chung đang chủ yếu tập trung vào nông nghiệp độc
canh, ít được đào tạo, thiếu việc làm trong thời gian nông nhàn do vậy năng suất lao
động thấp, thu nhập thấp và bấp bênh. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao
90% cộng đồng người nghèo tập trung ở khu vực nông thôn. Mặt khác, trong thời
gian nông nhàn hầu hết lao động trong lĩnh vực nông nghiệp trở thành lao động phổ
thông tự do ngay cả trong khu vực nông thôn và thành thị, thiếu thiết bị bảo hộ lao
động, làm việc trong điều kiện không an toàn, không được hưởng một số quyền lợi
của người lao động… đã xảy ra nhiều tai nạn đáng tiếc mà không nhận được sự hỗ
trợ từ xã hội và người sử dụng lao động. Bên cạnh đó việc di chuyển tự do lao động
từ nông thôn ra thành thị dẫn tới nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, tệ nạn xã hội, tội
phạm có chiều hướng gia tăng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng

trên là do thị trường lao động của chúng ta chưa hoàn thiện, khả năng tiếp cận thị
trường lao động của người dân đặc biệt là đối với người nghèo còn nhiều hạn chế.
Vì vậy hoàn thiện hệ thống thị trường lao động, tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận
và tìm kiếm được việc làm không chỉ là vấn đề cấp bách mà còn mang tầm chiến
lược giảm nghèo và tăng trưởng toàn diện trong cuộc thực hiện CNH – HĐH.
Thị trường lao động là một trong những thị trường cơ bản. Đặc biệt tại đại hội
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

3

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định thị trường lao động ở nước ta trong giai đoạn
này: “Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết
cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự
tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động,
nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu
lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách
tuyển chọn và sử dụng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy công
quyền. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin
về thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao
động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những ngành, nghề
cần ưu tiên phát triển. Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức
lao động nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao
động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người

lao động và người sử dụng lao động”.
Huyện Con Cuông là một nằm ở phía tây tỉnh Nghệ An, phía đông nam giáp
huyện Anh Sơn, phía đông bắc giáp huyện Quỳ Hợp và Tân Kỳ, phía tây bắc giáp
huyện Tương Dương, phía tây nam có đường biên giới nước Lào dài 55,5km. Là
huyện vùng cao, lợi thế về vị trí và điều kiện thuận lợi để phát triển nông-lâm
nghiệp và du lịch, thương mại.Mặc dù trong thời gian qua Huyện ủy – HĐND –
UBND – UBMT TQ, các ngành đoàn thể trong toàn huyện đã có nhiều chính sách
nhằm giải quyết việc làm nâng cao thu nhập cho lao động. Song, đến nay tỷ lệ
nghèo của huyện còn ở mức cao 29,3% (cao hơn so với mức trung bình chung của
cả nước), tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp trá hình, lao động tự do thu nhập
thấp trong cộng đồng người nghèo của huyện chiếm tỷ lệ cao, khả năng tiếp cận thị
trường lao động trong và ngoài tỉnh của bộ phận này còn nhiều hạn chế. Để góp
phần giải quyết vấn đề này em mạnh dạn tìm hiểu đề tài “Nâng cao khả năng tiếp
cận thị trường lao động cho người nghèo ở huyện Con Cuông Tỉnh Nghệ An ”
Đề tài gồm 4 Chương
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về thị trường lao động cho người
nghèo
Chương II: Thực trạng về khả năng tiếp cận thị trường lao động cho người
nghèo ở huyện Con Cuông tỉnh Nghệ An
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp Nâng cao khả năng tiếp
cận thị trường lao động cho người nghèo ở huyện Con Cuông tỉnh Nghệ An
Chương IV: Kết luận và kiến nghị

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập


4

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
LAO ĐỘNG CHO NGƯỜI NGHÈO
Một số lý luận cơ bản về lao động, việc làm
1.1.1 Lao động
1.1.1.1 Khái niệm về lao động và lực lượng lao động

1.1.

 Lao động
Lao động là hoạt động của con người diễn ra giữa con người với giới tự
nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong cơ thể
tác động vào giới tự nhiên chiếm giữ những chất trong giới tự nhiên, biến đổi những
chất đó làm cho chúng trở nên có ích trong đời sống của con người.
Ngày nay khái niệm lao động đã được mở rộng, lao động là hoạt động có
mục đích của con người, bất cứ ai làm việc gì cũng phải tiêu hao một lượng năng
lượng nhất định, tuy nhiên chỉ có tiêu hao năng lượng có mục đích mới được gọi là
lao động. Vì vậy lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống con
người, là sự tất yếu vĩnh viễn. Lao động làm cho người ta ngày càng phát triển toàn
diện và mang tính sang tạo cao. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển
đều phải không ngừng phát triển sản xuất. Điều đó có nghĩa là lao động sản xuất là
hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần
phục vụ cho nhu cầu bản thân và xã hội. Lao động mãi là nguồn gốc và động lực
phát triển của xã hội. Bởi vậy, xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và
phương thức tổ chức lao động càng tiến bộ.
Việt Nam bước vào thời kỳ CNH – HĐH với nền kinh tế vận hành theo cơ

chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì lý luận lao động lại được đánh giá ở
nhiều khía cạnh, cụ thể là:
Lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người nhưng vấn đề
đặt ra là lợi ích của con người vẫn được coi trọng bởi lao động biểu hiện bản chất
của con người, lợi ích là một trong những vấn đề nhạy cảm nhất của con người, là
nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ con người với con người, quan hệ cá nhân
với xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì lao động được xem xét dưới
góc độ của năng suất, chất lượng, hiệu quả. Đó là tiêu chẩn, thước đo lao động
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

5

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

không chỉ vì số lượng, chất lượng mà cả về tính tích cực hăng say và trách nhiệm
với công việc.
Bất kỳ một hình thức lao động nào của cá nhân, không phân biệt thành phần
kinh tế nào nếu đáp ứng được nhu cầu xã hội tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào
đó, thực hiện được lợi ích đảm bảo nuôi sống mình không sống nhờ vào người khác
và xã hội lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được chấp
nhận là lao động có ích.
 Lực lượng lao động
Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là
một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người

thất nghiệp.
Theo kinh tế học David Begg cho rằng: Lực lượng lao động có đăng ký bao
gồm số người có việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng ký.
Từ các khái niệm trên lực lượng lao động có thể được hiểu như sau: Lực
lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm
hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
1.1.1.2 Khái niệm về nguồn lao động
Theo giáo trình Kinh tế Lao động -Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội:
Nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi trừ đi những người trong độ tuổi
này hoàn toàn mất khả năng lao động.
Theo quy định của Tổng cục Thống kê khi tính toán còn cân đối nguồn lao
động xã hội, theo đó: Nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang tìm việc làm
trong các ngành kinh tế quốc dân. Nguồn lao động bao gồm số lượng và chất lượng
lao động.
Số lượng lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động. (Theo quy định của Bộ Luật lao động Việt Nam: người trong độ tuổi
lao động 15 – 60 tuổi đối với nam, 15 – 55 tuổi đối với nữ).
Chất lượng lao động: Chúng ta luôn nhìn thấy được lao động là hoạt động
của con người, “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự
nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [30, tr.230]. Khi lao
động, con người sử dụng chính sức lao động của mình để tác động vào đối tượng

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập


6

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

lao động. “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất
và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [30, tr.217218]. Như vậy, theo C.Mác sức lao động chính là năng lực lao động tồn tại dưới
dạng năng lực thể chất - sức khỏe, sức cơ bắp và năng lực tinh thần - sức thần kinh,
trí óc. Chất lượng lao động xét theo cá nhân, chính là trạng thái của sức lao động,
bởi con người khi tham gia lao động suy cho cùng, họ thực hiện công việc tốt đến
mức độ nào là do năng lực thể chất, năng lực tinh thần của họ mà thôi.
“Chất lượng nguồn lao động là khả năng lao động của người lao động” [24,
tr.97]. Vì vậy chúng ta có thể hiểu: chất lượng lao động là trạng thái nhất định của
nguồn lao động, nó được thể hiện qua mối quan hệ giữa các yếu tố hợp thành bản
chất bên trong của nguồn lao động.
Như vậy, có thể nói chất lượng nguồn lao động là tổng thể những đặc tính
biểu hiện ở từng người lao động và trên phạm vi từng vùng, từng đơn vị sản xuất
kinh doanh về các mặt: sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghề
nghiệp, trình độ tổ chức, phẩm chất, đạo đức, ý thức pháp luật, các yếu tố về tâm lý,
tập quán...
1.1.1.3 Khái niệm về Năng suất lao động
Năng suất lao động là sức sản xuất của người lao động cụ thể có mục đích
nói lên kết quả hoạt động sản xuất có mục đích của con người trong một đơn vị thời
gian nhất định. Năng suất lao động được đo bằng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian hoặc đo bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm.
Năng suất lao động là năng lực của người sản xuất có thể tạo ra một lượng
sản phẩm có ích cho xã hội trong một thời gian nhất định.
1.1.2. Việc làm

1.1.2.1 Khái niệm, vai trò và phân loại việc làm
 Khái niệm việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và
nhân khẩu nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tùy theo
cách tiếp cận mà người ta có những khái niệm khác nhau về việc làm:
Việc làm là tất cả các hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn
cấm gọi là việc làm.

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

7

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: làm các công việc được
trả công dưới dạng tiền hoặc hiện vật; những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho
bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng tiền
hoặc hiện vật cho công việc đó.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động được trả
công bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
Quan điểm xem xét việc làm như một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia
từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: “Việc làm là một phạm trù để chỉ
trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, hoặc những phương tiện để
sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội”.
Theo điều 13 Bộ luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm
đều được thừa nhận là việc làm”.
Như vậy, việc làm có thể hiểu là:
Hoạt động lao động của con người.
Hoạt động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
Từ các khái niệm trên có thể hiểu việc làm là sự tác động qua lại giữa hoạt
động của con người với những điều kiện vật chất kỹ thuật và môi trường tự nhiên
tạo ra giá trị vật chất và tinh thần mới cho bản thân và xã hội, đồng thời những hoạt
động lao động phải trong khuôn khổ cho phép. Nói cách khác việc làm là tổng thể
những hoạt động kinh tế có liên quan đến thu nhập và đời sống dân cư.
 Vai trò việc làm
Việc làm là vấn đề mang tính xã hội, mỗi con người khi trưởng thành đều có
nhu cầu mong muốn được làm việc. Việc làm có ý nghĩa rất quan trọng, đem đến
thu nhập cho mỗi cá nhân, hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo. Mặt khác, có việc
làm đầy đủ thì một số tai tệ nạn xã hội được đẩy lùi, chất lượng cuộc sống ngày
càng tăng, tỷ lệ nghèo đói ngày càng giảm.
Việc làm tạo cho mỗi cá nhân có tinh thần trách nhiệm cao hơn đối với bản
thân, gia đình và xã hội. Vì vậy, việc làm là một trong những vấn đề nổi cộm, thiết thực
mà hiện nay cần được quan tâm giải quyết nhất là đối với cộng đồng người nghèo.
 Phân loại việc làm
Căn cứ vào mức độ đầu tư thời gian:

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập


8

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

- Việc làm chính: là công việc chiếm nhiều thời gian nhất so với các công
việc khác của người lao động.
- Việc làm phụ: là những việc mà người lao động dành nhiều thời gian nhất
sau công việc chính.
- Việc là đầy đủ: căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu đó là mức độ sử dụng thời
gian lao động và mức năng suất, thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao
động làm việc theo chế độ thời gian quy định (8 giờ/ngày). Mặt khác, việc làm đầy
đủ phải mang lại thu nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Căn cứ vào thời gian có việc làm thường xuyên trong năm:
- Người có việc làm ổn định là những người làm việc từ 6 tháng trở lên trong
năm, hoặc những người làm việc dưới 6 tháng trong 1 năm nhưng công việc đó kéo
dài trong nhiều năm.
- Người có việc làm tạm thời là những người làm việc dưới 6 tháng trong 1
năm, trong 2 tháng trước thời điểm điều tra đang làm một công việc tạm thời, hoặc
không có việc làm dưới một tháng.
1.1.2.2 Thiếu việc làm và thất nghiệp
 Thiếu việc làm
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): người thiếu việc làm là những người
trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có
đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Người thiếu việc làm bao gồm
những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới
40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định hiện hành của Nhà nước,
có nhu cầu làm thêm giờ và sẳn sàng làm việc nhưng không có việc để làm.
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì cho rằng: Người
thiếu việc làm là những người đang tìm việc, có mức thu nhập thấp dưới mức lương

tối thiểu và họ ckó nhu cầu làm thêm.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu khái niệm người thiếu việc làm như sau:
Người thiếu việc làm là những người thuộc lực lượng lao động, đang có việc làm
nhưng thời gian làm việc lại ít hơn mức chuẩn theo quy định cho người có đủ việc
làm và mang lại thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
 Thất nghiệp
Theo định nghĩa của Aigred Sanvy: “Người thất nghiệp là người khỏe mạnh,

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

9

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

muốn lao động để kiếm sống nhưng không tìm được việc làm”.
Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh
tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Có quan điểm cho rằng: Thất nghiệp là những người không có việc làm
nhưng đang tìm việc hoặc đang chờ được gọi lại làm việc.
Như vậy có thể hiểu một người được coi là thất nghiệp phải hội tụ đủ 3 yếu tố:
- Có khả năng làm việc.
- Hiện chưa có việc làm.
- Đang mong muốn làm việc và tìm việc làm.
1.1.2.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp và thiếu việc làm
Thất nghiệp và thiếu việc làm tác động lớn đến vấn đề kinh tế - xã hội của

một đất nước, nó là gánh nặng của gia đình và xã hội.
Khi nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho những người có khả năng lao
động và có nhu cầu làm việc thì việc sử dụng không hết nguồn lực lao động sẽ gây
ra sự lãng phí. Hậu quả trực tiếp của nó là sự giảm sút tổng thu nhập quốc dân, là
nguyên nhân của nhiều tai, tệ nạn và các vấn đề phức tạp xã hội nảy sinh.
Đối với cá nhân thất nghiệp, thiếu việc làm đồng nghĩa không có tiền công,
tiền lương hoặc thu nhập thấp và bấp bênh. Đó là một trong những nguyên nhân của
sự nghèo đói.
Thất nghiệp và thiếu việc làm không những làm cho người lao động mất đi
cơ hội trau dồi và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp mà còn làm hao mòn và
mất đi kiến thức, trình độ chuyên môn đối với những người đã được qua đào tạo.
Việc làm không những đem lại thu nhập cho người lao động mà qua công
việc người lao động có điều kiện để phát triển nhân cách, tự khẳng định mình và là
môi trường để giao tiếp. Do vậy, thất nghiệp và thiếu việc làm đồng nghĩa với việc
hạn chế sự phát triển cả một con người.
Trong xã hội chủ nghĩa, một bộ phận lớn tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn
dân, về nguyên tắc mọi người đều có quyền bình đẳng về quyền sở hữu đối với tư
liệu sản xuất này. Song, thực tế chỉ một bộ phận dân cư có quyền sử dụng và có thu
nhập còn những người thất nghiệp hoặc thiếu việc làm có quyền sở hữu mà không
có quyền sử dụng và không có thu nhập. Như vậy, thất nghiệp và thiếu việc làm còn
liên quan đến vấn đề công bằng xã hội.
Tóm lại, để lao động tìm được việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng
lao động đều có cơ hội làm việc ngoài trách nhiệm thuộc về bản thân người lao
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập


10

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

động thì cần sự quan tâm của nhà nước, các doanh nghiệp và của toàn xã hội.
1.2. Một số lý luận cơ bản về thị trường lao động, thông tin thị trường lao động
1.2.1. Thị trường lao động
1.2.1.1 Khái niệm
Theo tác phẩm của Adam Smith viết năm 1826: “Thị trường là một không
gian trao đổi hàng hóa dịch vụ”. Như vậy nếu coi sức lao động là hàng hóa hoặc nếu
coi lao động là dịch vụ thì bản chất của khái niệm này là: Thị trường lao động là nơi
diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên là
người sử dụng lao động và một bên là người lao động.
Theo tiến sỹ Leo Maglen, chuyên gia tư vấn của dự án Giáo dục kỹ thuật dạy
nghề của Tổng cục dạy nghề do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) tài trợ, thị
trường lao động được tiếp cận dưới góc độ việc làm và được xác định như sau: “
Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa những người có việc làm hoặc
những người đang tìm kiếm việc làm (cung lao động) với những người đang sử
dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động)”.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra định nghĩa: “Thị trường lao động
là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua quá trình thỏa
thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”.
Theo “Đại Từ điển kinh tế thị trường” (xuất bản năm 1988) thì: “Thị trường
lao động là nơi mua bán sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động)
và người sử dụng sức lao động (cầu lao động)”.
Qua các quan điểm trên có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về thị trường
lao động như sau: Thị trường lao động là nơi mà người có nhu cầu tìm việc làm và
người có nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động
thông qua các hình thức xác định giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện thỏa
thuận khác (thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiển xã hội…) trên cơ sở

một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng
hợp đồng hay thỏa thuận khác.
1.2.1.2 Sự hình thành thị trường lao động
Sự hình thành thị trường lao động ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang
phát triển gắn với quá trình phân hóa tự nhiên của nền sản xuất nhỏ, phổ biến hình
thức thuê mướn lao động theo kiểu hợp đồng miệng, thời gian ngắn, tạm thời,
không ổn định.
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

11

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

Trước thời kỳ 1986 (thời kỳ kế hoạch hóa tập trung trước Đổi mới): thời kỳ
này chưa có sự hình thành và hoạt động của thị trường lao động chính thống, sức
lao động chưa được công nhận là hàng hóa. Trong nền kinh tế tồn tại một số hình
thức thuê mướn lao động số lượng nhỏ, lẻ, manh mún. Sự di chuyển lao động trên
lãnh thổ còn nhiều hạn chế.
Thời kỳ từ năm 1986 đến nay sự cải cách kinh tế theo cơ chế thị trường đã
tạo môi trường cho thị trường lao động nước ta hình thành, phát triển và hội nhập
ngày càng sâu rộng hơn vào thị trường lao động quốc tế. Kết quả đã làm xuất hiện
cấu trúc mới về việc làm, với sự hình thành các chủ sử dụng lao động mới phù hợp
với nền kinh tế thị trường và hoạt động của thị trường lao động. Trong thời kỳ này
thị trường lao động nước ta cung lớn hơn cầu lao động, thị trường lao động bị phân
mảng lớn, thiếu cung lao động chất lượng cao, dư thừa lao động phổ thông và lao

động tay nghề thấp, tiền lương và tiền công trên thị trường lao động thấp.
Trong thời gian qua Nhà nước tiếp tục cải cách thể chế, đổi mới nội dung
chính sách kinh tế - xã hội và chúng đã tác động trực tiếp đến cung - cầu lao động,
thúc đẩy sự phát triển thị trường lao động, tạo điều kiện cho người lao động có cơ
hội tiếp cận được thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế, nâng cao cơ hội
tìm kiếm việc làm nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2.1.3 Đặc điểm của thị trường lao động
Thị trường lao động có sự khác biệt với các thị trường khác ở tính chất đặc
biệt của hàng hóa sức lao động. Đối với tất cả các nền kinh tế thị trường, thị trường
lao động đều có những đặc trưng cơ bản sau đây:
 Một là, hàng hóa trên thị trường lao động là hàng hóa đặc biệt: Sức lao
động trở thành hàng hóa ngay từ khi nền sản xuất hàng hóa nhỏ mới được hình
thành, cho phép có tích lũy tư bản nguyên thủy và sự phát triển của lao động làm
thuê và quan hệ lao động công nghiệp. Trên thị trường lao động, hàng hóa được
đem ra trao đổi là sức lao động, đó là một hàng hóa đặc biệt, có tiềm năng về thể
lực, trí lực, tâm lực. Tính đặc biệt của nó được thể hiện qua các điểm sau:
- Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động gắn chặt với người
có sức lao động cả về số lượng và chất lượng.
- Có sự khác biệt giữa “hàng hóa người lao động” và “hàng hóa sức lao
động”.
 Hai là, tính không đồng nhất của hàng hóa sức lao động trên thị trường lao

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

12


GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

động: Các loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là hàng hóa công nghiệp thường được
chuẩn hóa cao, đảm bảo tính đồng nhất về mẫu mã, chất lượng. Nhưng hàng hóa
sức lao động không đồng nhất. Mỗi người lao động khác nhau về tuổi tác, nguồn
gốc, giới tính, trí thông minh, sự khéo léo, thể lực, động lực làm việc và chúng đều
có ảnh hưởng đến năng suất và hiệu quả lao động. Đồng thời, người lao động còn
có sự khác nhau về trình độ văn hóa, cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật, số năm kinh
nghiệm công tác…
 Ba là, giá cả sức lao động trên thị trường lao động do quan hệ cung cầu
xác định: Sự hoạt động của quy luật cung - cầu lao động trên thị trường lao động
xác định giá cả sức lao động. Nó biểu hiện thông qua trạng thái quan hệ thỏa thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động về tiền lương, tiền công. Ngoài ra,
các vấn đề khác liên quan đến quan hệ lao động cũng được thảo thuận như: việc
làm, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội, môi trường lao động và các điều kiện làm
việc khác.
 Bốn là, giá cả không phải là tín hiệu duy nhất để điều chỉnh quan hệ cung cầu lao động. Ngoài sự hoạt động của quy luật cung - cầu lao động còn có vai trò
của Chính phủ đối với các khuyết tật của thị trường lao động để đạt được các mục
tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Chính phủ điều tiết bằng lương tối thiểu
chung toàn quốc, tiền lương tối thiểu ngành, tiền lương tối thiểu vùng. Ngoài ra,
Chính phủ còn quy định các tiêu chuẩn lao động, các chuẩn mực quan hệ lao động
mà bắt buộc người lao động và người sử dụng lao động phải tuân thủ trong quá
trình mua bán sức lao động.
 Năm là, thị trường lao động hoạt động đa dạng với nhiều phân lớp khác
nhau. Ngoài thị trường lao động chung toàn quốc, người ta còn xác định các phân
mảng thị trường lao động khác như: thị trường lao động theo lãnh thổ địa lý, khu
vực thị trường lao động theo trình độ kỹ năng.
 Sáu là, vị trí yếu hơn của người lao động trong đàm phán trên thị trường
lao động, bởi các lý do sau:

- Ở các nước đang phát triển, thông thường số lượng những người đi tìm việc
làm nhiều hơn số lượng cơ hội việc làm sẳn có.
- Người lao động tìm việc không có tư liệu sản xuất, nguồn lực hạn chế phải
bán sức lao động, trong khi đó người sử dụng lao động có nhiều khả năng chờ đợi
và lựa chọn lao động hơn.

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

13

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

- Trên thị trường lao động với cung lao động dồi dào thì người sử dụng lao
động thường ở thế mạnh trong đàm phấn với người lao động.
 Bảy là, trong quá trình mua bán sức lao động có thể xây dựng mối quan hệ
lao động tích cực: quá trình mua bán sức lao động giữa người sử dụng sức lao động
và người lao động được thực hiện trong các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan. Trong
quá trình này hai bên có thể xây dựng mối quan hệ lao động tích cực thông qua cơ
chế vận hành hiệu quả các quy định của Bộ luật Lao động tại doanh nghiệp như:
hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, quy chế trả lương, nội quy doanh
nghiệp…
 Tám là, thị trường lao động và pháp luật nhà nước: Thị trường lao động dù
hoàn hảo hay không đều chịu sự tác động của pháp luật. Các thể chế, quy chế được
luật hóa và các quy định không thành văn bản, có tác động đến hành vi và điều kiện
của hai chủ thể người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình thỏa

thuận các điều kiện và giá cả của dịch vụ lao động.
1.2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường lao động Việt Nam
Nước ta thuộc diện một trong số các nước đang phát triển và có đặc điểm là
trải qua nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Do đó, việc đảm bảo các điều
kiện cho sự phát triển của thị trường lao động có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với
giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc của quốc gia trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ đặc điểm phát triển nền kinh tế thị trường, các
nhân tố chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường lao động nước ta được xác
định gồm:
- Đảm bảo tăng trưởng của nền kinh tế: Thông qua tăng trưởng kinh tế cao
mới có khả năng tạo ra mức cầu lao động cao, mới có cơ sở vật chất cho phát triển
chất lượng của cung lao động.
- Thúc đẩy hiệu quả quá trình CNH – HĐH đất nước: Quá trình CNH – HĐH
được thúc đẩy đạt tốc độ càng cao thì thị trường lao động càng có mức độ phát triển hơn.
- Nâng cao chất lượng của cung lao động: Chất lượng lao động có vai trò
quan trọng trong quá trình thúc đẩy thị trường lao động phát triển.
- Thiết lập chính sách thị trường lao động hiện đại.
1.2.1.5 Các yếu tố của thị trường lao động
 Cung, cầu về lao động
* Cung về lao động: Cung về lao động là tổng số lượng lao động đang tham

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

14


GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

gia và sẳn sàng tham gia vào thị trường lao động ở những thời điểm nhất định (thời
điểm xem xét). Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến
động của cầu về lao động, trình độ đào tạo hướng nghiệp - dạy nghề và tiền lương
(tiền công) trên trị trường lao động. Bởi vì, cung lao động có tính thời điểm nên ta
có cung thực tế và cung tiềm năng.
- Cung thực tế về lao động bao gồm những người lao động đang làm việc
cộng với những người thất nghiệp .
- Cung tiềm năng về lao động chỉ khả năng tiềm tàng về nguồn nhân lực của
một thị trường lao động. Bao gồm cung lao động thực tế; những người trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong
gia đình, đi nghĩa vụ quân sự và trong các tình trạng khác.
* Cầu về lao động: Là số lượng lao động được thuê mướn trên thị trường lao
động. Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của một
nền kinh tế (hoặc một ngành, một địa phương, doanh nghiệp… ) ở một thời kỳ nhất
định, bao gồm cả mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông
qua chỉ tiêu việc làm. Cầu lao động biểu hiện khả năng thuê lao động của người sử
dụng lao động trên thị trường và được xem xét ở hai góc độ là cầu thực tế và cầu
tiềm năng.
- Cầu thực tế về lao động: Là nhu cầu thực tế lao động cần sử dụng tại một
thời điểm nhất định, bao gồm cả những người đang làm việc, chổ làm việc trống và
chổ làm việc mới đang có nhu cầu cần thuê lao động làm việc.
- Cầu tiềm năng về lao động: Là nhu cầu lao động cho tổng số chổ làm việc
có thể có được, trên cơ sở nhu cầu lao động hiện tại và có tính đến yếu tố tạo việc
làm trong tương lai. Như vậy cầu tiềm năng được tính như sau:
Cầu tiềm năng
về lao động

=


Cầu thực tế về lao động

+

Số chổ làm sẽ được tạo ra
trong tương lai.

 Quan hệ cung cầu và giá cả hàng hóa sức lao động
Quan hệ cung cầu lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả sức lao động
(tiền lương, tiền công) trên thị trường, biểu hiện cụ thể qua hình sau:

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

W

W1

15

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

S
D


D1

S1

Hình 1: Quan hệ cung - cầu lao động và tác động của tiền lương
Trên đồ thị, trục tung biểu thị giá cả của hàng hóa sức lao động (W), trục
hoành biểu thị số lượng hàng hóa sức lao động (L), đường cong S biểu diễn sự biến
thiên của mức cung lao động (đườngEcung lao động), đường cong D biểu diễn sự
W0
biến thiên của
mức cầu lao động (đường cầu lao động).
Khi cung và cầu lao động trên thị trường lao động đạt mức cân bằng (cung vừa đủ
W2
thảo mãn cầu
và điểm E làSđiểm
cân bằng của thịD2trường lao động) thì giá cả có xu
2
hướng dừng lại ở mứ W0 (mức tiền công W0 gọi là mức giá cân bằng với lượng cầu
lao động L0).
L
L0 dừng lạiLở2 mức W , cao hơn W Lthì mức
Nếu giá cả hàng hóa1 sức lao động
1
0
cung lao động sẽ tăng đến S1 nhưng lúc đó cầu lao động sẽ giảm còn L 1. Khoảng
D1S1 chính là khoảng chênh lệch giữa cung và cầu trên thị trường lao động.
Trong trường hợp ngược lại, nếu giá cả sức lao động ở mức thấp W 2, thì cầu lao
động sẽ tăng lên ở mức L2 và cung chỉ ở mức S2. Khoảng cách D2S2 là sự chênh lệch
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng


Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

16

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

giữa cung và cầu lao động, trường hợp này cầu lớn hơn cung. Theo quy luật của thị
trường thì giá cả sức lao động luôn có xu hướng trở về W0.
Đối với thị trường lao động nước ta hiện nay, có đặc trưng là cung lớn hơn
cầu, do nguồn nhân lực tăng nhanh, nền kinh tế đang trong quá trình cơ cấu lại, cầu
lao động của ngành công nghiệp, dịch vụ còn thấp… Vì vậy, để có thể cân bằng
được cung - cầu lao động cần có chính sách tăng cầu lao động trên cơ sở thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phát triển nhanh các khu vực kinh tế, kích cầu tiêu dùng, hội
nhập quốc tế mạnh mẽ và có cơ chế chính sách nâng cao chất lượng nguồn lao
động.
1.2.2. Thông tin thị trường lao động
1.2.2.1 Khái niệm về thông tin thị trường lao động
Thông tin thị trường lao động là hệ thống các chỉ tiêu phản ánh trạng thái các
thành tố của thị trường lao động như: cung lao động, cầu lao động, các điều kiện
làm việc (tiền lương, trợ cấp… ) và các trung gian thị trường lao động (các tổ chức
và cơ chế hỗ trợ việc kết nối người tìm việc (sức lao động) và chổ làm việc trống
(người sử dụng lao động)).
Ngoài các thông tin định lượng, thông tin thị trường lao động được thu thập
có thể là thông tin định tính, thí dụ các văn bản pháp luật, quy định, báo cáo, bản
ghi dữ liệu về điều kiện làm việc, nhu cầu đào tạo, lỗ hổng kỹ năng, đào tạo nghề và
đầu ra.
1.2.2.2 Vai trò thông tin thị trường lao động

- Thông tin thị trường lao động đóng vai trò quan trọng trong hoạch định và
điều chỉnh các chính sách thị trường lao động chủ động và thụ động. Các nhà hoạch
định chính sách cần có thông tin thị trường lao động và các xu hướng làm việc, thất
nghiệp và thiếu việc làm để phân tích cung và cầu lao động, thiết kế và kiểm tra các
chính sách thị trường lao động.
- Đối với các Trung tâm dịch vụ việc làm, thông tin thị trường lao động là
loại thông tin mà Giám đốc và cán bộ Trung tâm, người sử dụng lao động, người
tìm việc có thể sử dụng để so sánh các cơ hội hiện có. Đó là thông tin về sự lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp, tiền công và điều kiện làm việc, cầu lao động hiện
nay và địa điểm phân bổ việc làm và các lợi ích liên quan khác bao gồm đào tạo và
phát triển.
- Thông tin thị trường lao động giúp cho Chính phủ và cộng đồng xã hội
đánh giá những trợ cấp và chi phí của hệ thống bảo hiểm xã hội cho người lao động
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

17

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

với các nội dung như trợ cấp thất nghiệp, đền bù mất việc làm, đào tạo tái hòa nhập
thị trường lao động, hưu trí…
- Thông tin thị trường lao động cần cho các nhà đầu tư trong quyết định vấn
đề tuyển dụng, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp theo số lượng, chất
lượng lao động, kỹ năng nghề nghiệp, tiền lương và pháp luật lao động.
- Những người dạy nghề cần thông tin thị trường lao động để thiết kế, thực

hiện các chương trình đào tạo theo tín hiệu, yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp, ngành
nghề của lao động trên thị trường.
- Thông tin thị trường thực sự quan trọng cho người tìm việc, qua các kênh
thông tin thị trường người tìm việc có thể biết được nơi nào cần tuyển dụng, yêu cầu
của nhà tuyển dụng như thế nào… Mặt khác dự báo tốt về thị trường lao động trong
tương lai giúp cho người lao động có định hướng về nghề nghiệp của mình từ đó
đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Thông tin thị trường giúp cho người tìm việc và việc tìm người dễ dàng gặp
nhau hơn.
1.3. Một số lý luận về người nghèo
Nghèo là sự diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng
với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên
nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y
tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu
nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm
(Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.
1.3.1 Nghèo tuyệt đối
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển,
Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm
nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức
độ tuyệt đối...là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt
đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong
tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh
ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là
chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới
nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng


Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

18

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

la cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến
14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
1997). Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo
trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2009.
Theo Quyết định số 170/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 7 năm 2009 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2008-2010
thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới
3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11 % dân số.
1.3.2 Nghèo tương đối
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào
hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung
cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về
một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định
khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn

tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóaxã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được
các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
1.3.3 Ranh giới nghèo tương đối
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau
cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị
và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong
các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có
ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người
phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống
của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng
vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế
những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

19

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo
tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người
không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác
vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề
nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu
trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng
cho ranh giới nghèo tương đối.

Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới
nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một
cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào
cuộc sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định
được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần
trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều
không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được
quyết định qua những quá trình chính trị.
1.3.4 Định nghĩa theo tình trạng sống
Cái gọi là định nghĩa tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài
thu nhập khi định nghĩa "nghèo con người", thí dụ như cơ hội đào tạo, mức sống,
quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định
chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã
đưa ra chỉ số phát triển con người (tiếng Anh: human development index–HDI). Các
chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ mù chữ, trình độ
học vấn, sức mua thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác. Trong "Báo cáo phát
triển thế giới 2000" Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh các yếu tố quyết định
khách quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và tự trọng.
1.3.5 Đặc điểm lao động là người nghèo
Khoảng 90% cộng đồng người nghèo chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn,
có đặc điểm chung là dân số tăng nhanh, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp, lao động tham gia trong các công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề
chiếm tỷ lậ thấp.
Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp vẫn là lãnh vực tạo việc làm truyền thống
và thu hút hầu hết lực lượng lao động nông thôn và công đồng lao động nghèo, song
bị giới hại diện tích đất canh tác và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hóa và
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49



Chuyên đề thực tập

20

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

công nghiệp hóa đang phát triển mạnh, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn
kiệt, thiếu tư liệu sản xuất. Việc di chuyển lực lượng lao động dôi dư này sàng các
khu vực khác còn gặp nhiều hạn chế, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn và cộng
đồng người nghèo còn chiếm tỷ lệ cao.
Mang tính thời vụ: Chủ yếu lực lượng lao động này tập trung trong lĩnh vực
nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp lại chịu sự tác động và bị chi phối bởi các quy
luật sinh học và các điều kiện tự nhiên. Vì vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp
mang tính thời vụ cao, việc sử dụng lao động trong nông nghiệp phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên và quy luật sinh trưởng của sinh vật, cho nên có thời kỳ cần nhiều lao
động, có thời ký cần rất ít lao động. Điều đó dẫn đến khả năng thu hút lao động
trong nông nghiệp, nông thôn là không đều, tạo ra tính nông nhàn trong nông thôn.
Thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động chuyển sàng làm các công việc khác theo
tính thời vụ và ngắn hạn tạm thời. Người ta có xu hướng là nhận bất cứ việc gì, bất
kể những công việc ấy có thích hợp với họ hay không, ngay cả trong môi trường
mất an toàn lao động, thiếu thiết bị bảo hộ lao động, không được sự hỗ trợ từ phái
người sử dụng lao động.
Lao động ít chuyên sâu: Hầu hết lao động trong cộng đồng người nghèo hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ngành mà có nhiều laoij công việc mang
tính chất khác nhau. Một lao động có thể làm được nhiều việc và nhiều lao động có
thể làm cùng một việc. Chính vì vây, lao động trong lĩnh vực này ít được chuyên
sâu, công việc lao động phổ thông, lao động ít được đào tạo, chủ yếu sản xuất bằng
kinh nghiệm là chính. Vì thế, hiệu quả lao động thấp, khó khăn trong việc chuyển

giao khao học kỹ thuật.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp diến ra trên phạm vi không gian rộng lớn,
chu kỳ sản xuất kéo dài lại phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, các dịch
vụ sản xuất và yếu tố thị trường. Do đó, rủi ro đến với người lao động trong lĩnh
vực này có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Việc làm trong nông nghiệp nông thôn thường là những công việc giải đơn,
thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao, tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai và tư liệu thô sơ,
dễ học hỏi, dễ chia sẻ. Vì vậy, lao động có thể làm được nhiều việc, nhưng sản
phẩm lamg ra chất lượng thấp, mẫu mã còn đơn điệu, tính đồng đều chưa cao, năng
suất lao động thấp đẫ đến thu nhập thấp.
Thị trường sức lao động ở nông thôn đã có từ lâu nhưng kém phát triển. Hình
thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống cộng đồng, thiếu
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

21

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

một cơ chế thống nhất và không được pháp chế hóa, thông tin việc làm chỉ thực hiện
trao đổi miệng với nhau, hợp đồng lao động chủ yếu được thực hiện bằng miệng. Vì
vậy, giá trị ngày công lao động thường được đánh giá theo thỏa thuận dân sự, trực
tiếp. Quan hệ thuê mướn lao động dựa trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu.
Các đặc điểm trên có ảnh hưởng đến chủ trương, chính sách hỗ trợ người
nghèo tìm việc và định hướng phát triển thị trường lao động nông thôn, tạo điều
kiện cho lao động nông thôn nói chung và cộng đồng người nghèo nói riêng trong

việc tiếp cận thị trường lao động.
1.4. Kinh nghiệm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường số nước và vùng lãnh thổ
1.4.1. Kinh nghiệm một số nước và vùng lãnh thổ
Một số nước trong khu vực có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khá
giống nước ta, nhưng trình độ phát triển kinh tế lại hơn ta khá xa, điều đó do nhiều
nguyên nhân, song có một nguyên nhân đáng kể đó là do lao động của họ đáp ứng
được yêu cầu của thị trường lao động, lao động có việc làm đầy đủ và mang lại
năng suất lao động cao, có thu nhập cao. Có thể điểm qua một số nét về việc nâng
cao chất lượng nguồn lao động ở một số nước sau:
1.4.1.1. Singapore
Singapore là một quốc gia thuộc Đông Nam châu Á¸ với diện tích đất nhỏ và
dân số ít, nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm nhưng đã đạt được nhiều thành
tựu kinh tế kỳ diệu. Việc phát triển kinh tế - xã hội Singapore trông chờ vào tài năng
và kỹ năng của con người để phát triển.
“Giáo dục, đào tạo là động lực chủ yếu thông qua đó mỗi cá nhân đều có
được cơ hội phát triển ngang nhau. Chiến lược phát triển nguồn lao động của
Singapore dựa trên những nguyên tắc sau:
- Giáo dục cho tất cả mọi người có được năng lực tối đa.
- Phát triển những kỹ năng đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp
và doanh nghiệp.
- Khuyến khích tiếp tục đào tạo và đào tạo lại để thích ứng với sự phát triển
nhanh chóng của kỹ thuật và tiếp thu thêm những kỹ năng mới”
Đồng thời Chính phủ Singapore tập trung vào việc thiết lập và mở rộng các
trung tâm đào tạo để có tiêu chuẩn hóa chất lượng lao động trên phạm vi toàn quốc,
chú trọng tới định hướng nghề nghiệp cụ thể là việc thực hành cho các học sinh tại
các trường Trung học phổ thông và các trường đại học cũng như các học viện.
Thực tế cho thấy ngân sách dành cho giáo dục ở Singapore rất cao và tăng
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49



Chuyên đề thực tập

22

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

liên tục từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay. Singapore là nước có đội ngũ tri
thức lớn, có khả năng tiếp thu và áp dụng thành công vốn tri thức mới và công nghệ
tiên tiến, đấy là nhờ vào coi trọng giáo dục đào tạo.
Song song với việc định hướng nghề nghiệp, đào tạo nâng cao chất lượng lao
động, việc hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển thị trường lao động và thông tin
thị trường lao động của được Chính phủ nước này đặc biệt quan tâm.
1.4.1.2. Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng.
Cải cách mở cửa của Trung Quốc và công cuộc đổi mới của Việt Nam đều bắt đầu
từ nông thôn. Với hơn 1,3 tỷ dân, gần 800 triệu người sống ở nông thôn.
Về việc thực hiện những chính sách nhằm giải quyết hiệu quả vấn đề “ tam
nông”, Chính phủ đã triển khai các chính sách như: Giảm phần lớn những khoản
thuế thu cho dân. Đầu những năm cải cách mở cửa, nộp thuế là một gánh nặng đối
với nông dân Trung Quốc. Nhưng hiện nay nông dân vừa được miễn thuế, vừa được
chính phủ hỗ trợ, như hỗ trợ lương thực, hỗ trợ phân bón trong trồng trọt, hoặc hỗ trợ
kỹ thuật khi trồng thử nghiệm….; chính sách giải quyết việc làm, giải quyết khó khăn
cuộc sống hàng ngày cho nông dân; phát triển giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, trình độ
học vấn được nâng cao. Trẻ em ở nông thôn hiện nay đều được miễn học phí.
Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng đầu tư cho khoa học - kỹ thuật. Đầu tư
cho khoa học – kỹ thuật đặc biệt chú trọng đến kỹ thuật trong nông nghiệp, công
nghệ phát triển, nghiên cứu ruộng đất... Gắn chặt đầu tư với các chương trình tuyên
truyền hướng dẫn và trao đổi kỹ thuật, nhằm thúc đẩy ứng dụng. Ngoài ra, Chính

phủ còn xây dựng hệ thống thông tin công cộng nhằm cung cấp miễn phí thông tin
thị trường cho nông dân. Nông dân có thể thông qua hệ thống này tự tìm thị trường
cho sản phẩm của mình.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn Trung Quốc đang rất cao (khoảng
78 triệu trong số 1,3 tỷ lao động nông thôn), lao động nông thôn làm việc trong các
doanh nghiệp phần lớn đều trở về quê hương, vì nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh
khiến các doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản hoặc cắt giảm nhân công. Nhưng
trở về địa phương, họ đều nắm bắt được trình độ kỹ thuật nhất định, họ có thể vận
dụng vào chế biến nông sản, nâng cao kỹ thuật trồng trọt, từ đó cải thiện cuộc sống.
Ở một chừng mực nhất định có thể giảm nhẹ tình trạng thất nghiệp.
1.4.2. Kinh nghiệm từ trong nước
Một số bài học có thể xem xét và vận dụng vào nước ta
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

23

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước kinh tế phát triển và các nước
trong khu vực về nâng cao khả năng tiếp cận thị trường cho lao động nông thôn nói
chung và người nghèo nói riêng có thể rút ra một số bài học để xem xét, vận dụng
vào nước ta:
 Thứ nhất, coi trọng giáo dục chuyên nghiệp dạy nghề.
Giáo dục chuyên nghiệp chuyên nghiệp dạy nghề sẽ tạo ra đội ngũ lao động có
chuyên môn, có tay nghề. Cần coi trọng giáo dục dạy nghề theo giác độ mở rộng quy

mô và nâng cao chất lượng của các cơ sở dạy nghề nhằm một mặt, thu hút các học sinh
tốt nghiệp phổ thông trung học, mặt khác, nâng cao được chất lượng nguồn lao động
(trình độ chuyên môn, tác phong và kỷ luật lao động… ).
 Thứ hai, đa dạng hóa các hình tổ chức đào tạo, tấp huấn theo nhu cầu và
điều kiện của người nghèo nông thôn, đảm bảo cho lao động nông thôn có nhu cầu
đều có thể tiếp cận với các hình thức đào tào nghề.
 Thứ ba, Nhà nước phải quan tâm nhiều đến cơ cấu lao động qua đào tạo.
Cơ cấu lao động qua đào tạo hợp lý sẽ tạo ra sự phát triển cân đối của nền
kinh tế, bởi nếu ngược lại thì vừa dư thừa lao động không thích ứng, vừa thiếu lao
động cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Cơ cấu lao động hợp lý là một tiêu chí phản
ánh chất lượng nguồn lao động cao.
 Thứ tư, xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phát triển thị trường lao động
đồng bộ, tránh chia cắt thị trường. Hệ thống thông tin trên thị trường là yếu tố cho
người lao động và người sử dụng lao động gặp nhau đễ dàng hơn, giúp cho các cơ
sở đào tạo và giới thiệu việc làm có kế hoạch đào tạo phù hợp với nhu cầu thị
trường.
 Thứ năm, sắp xếp lại các Trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm, nâng cao chất lượng phục vụ.

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

24

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG CHO NGƯỜI NGHÈO
Ở HUYỆN CON CUÔNG TỈNH NGHỆ AN
2.1. Đặc điểm của địa bàn huyện Con Cuông
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1 Vị trí địa lí

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An
Huyện Con Cuông nằm ở phía tây nam của tỉnh Nghệ An, cách Thành phố
Vinh 130 km về phía Đông Nam, có tọa độ địa lý từ 18 046’30” đến 19023’42” vĩ độ
Bắc; từ 104031’57” đến 105030’80” kinh độ Đông, vị trí của huyện tiếp giáp với các
huyện sau:
- Phía Đông Bắc giáp 2 huyện Quỳ Hợp và Tân Kỳ
- Phía Tây Bắc giáp huyện Tương Dương
SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


Chuyên đề thực tập

25

GVHD: GS.TS Hoàng Ngọc Việt

- Phía Tây Nam giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
- Phía Đông Nam giáp huyện Anh Sơn
Huyện có dòng sông Lam chảy qua, có Quốc lộ 7 chạy dọc từ đầu đến cuối
huyện; đây là lợi thế cơ bản để phát triển kinh tế, giao lưu và trao đổi hàng hoá với

các vùng phụ cận.
2.1.1.2 Đặc điểm địa hình
Huyện thuộc vùng núi trong tỉnh nên bị ảnh hưởng chi phối của dãy Trường
Sơn; địa hình bị chia cắt phức tạp tạo thành nhiều khe sâu và dốc lớn, có thể chia
làm hai vùng như sau:
- Vùng hữu ngạn dòng sông Lam: gồm các xã Môn Sơn, Lục Dạ, Yên Khê,
Chi Khê, Châu Khê, Lạng Khê và thị trấn Con Cuông; địa hình vùng này có độ cao
trung bình 1000m so với mực nước biển; dãy núi Phù Chác cao nhất trong huyện có
độ cao 1800m, địa hình thấp dần về phía Đông Nam.
- Vùng tả ngạn sông Lam: gồm các xã Cam Lâm, Đôn Phục, Mậu Đức,
Thạch Ngàn và Bình Chuẩn, vùng này nghiêng dần về phía Đông Nam Tân Kỳ, Anh
Sơn; địa hình chia cắt mạnh tạo ra nhiều thung lũng và nhiều khe suối lớn nhỏ.
2.1.1.3 Khí hậu
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh và chia làm 2 mùa rõ
rệt: Mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều; mùa đông lạnh giá, ít mưa.
+ Chế độ nhiệt: Chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8,
nhiệt độ trung bình 23-240C, tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ cao tuyệt đối là
420C; mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ bình quân 19.9 0C, nhiệt
độ thấp tuyệt đối -0.50C; số giờ nắng trung bình/năm là 1500- 1700 giờ.
+ Chế độ mưa: Lượng mưa bình quân hàng năm từ 1200 - 2000 mm/ năm,
phân bổ cao dần từ Tây sang Đông và chia làm 2 mùa rõ rệt.
+ Chế độ gió: Có 2 mùa gió chính, gió mùa đông bắc xuất hiện từ tháng
11năm trước đến tháng 3 năm sau thường kèm theo mưa phùn, giá lạnh và có 1
hoặc 2 lần sương muối/ năm; gió Lào xuất hiện từ tháng tư đến tháng tám gây khô
nóng và hạn hán; huyện ít bị ảnh hưởng lốc cục bộ và mưa đá hàng năm.
2.1.1.4 Nguồn nước, thuỷ văn
Sông Cả, sông Giăng là hai con sông cung cấp nguồn nước chủ yếu cho sản
xuất, sinh hoạt của nhân dân; ngoài ra còn có một số con suối lớn như Khe Diêm,
Khe Chai, Khe Choăng, Khe Thơi, Khe Xì Vằng, Khe Khen Phèn, Khe Xan, Khe
Chôm Lôm, và nhiều suối nhỏ khác. Hệ thống sông suối đa dạng, địa hình phức tạp

SVTH: Đặng Thị Thúy Hằng

Lớp KTNN & PTNT K49


×