Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.57 KB, 31 trang )

đặc điểm nguồn nhân lực việt nam trong nền kinh tế thị trờng

Trong nền kinh tế thị trờng, nguồn nhân lực Việt nam có 6
đặc điểm nổi bật chủ yếu sau:
- Nguồn nhân lực có quy mô lớn, tăng nhanh hàng năm
- Nguồn nhân lực trẻ, tỷ lệ nam- nữ khá cân cân bằng
- Cơ cấu nguồn nhân lực phân bổ cha hợp lý giữa thành
thị, nông thôn, giữa vùng, miền lãnh thổ; giữa các ngành kinh
tế và các thành phần kinh tế
- Nguồn nhân lực có trình độ văn hoá, chuyên môn, kỹ
thuật còn thấp, bố trí không đều, sức khoẻ cha đáp ứng yêu cầu
của kinh tế thị trờng
- Nguồn nhân lực có tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
cao và thời gian lao động ở khu vực nông thôn không thấp.
- Nguồn nhân lực có năng suất lao động và thu nhập thấp
Cụ thể nh sau:
1.Nguồn nhân lực có quy mô lớn, tăng nhanh hàng năm
Nguồn nhân lực có quy mô lớn, tăng nhanh hàng năm là
đặc trng cơ bản về số lợng nguồn nhân lực của Việt Nam trong
nền kinh tế thị trờng hiện nay.
Cho đến nay, Việt nam là quốc gia số dân lớn, theo báo cáo
kết quả điều tra lao động - việc làm ngày 1-7-2005 của Ban
chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung ơng (gọi tắt là Báo
cáo điều tra lao động-việc làm), năm 2005 dân số Việt nam là
83,121 triệu ngời, xếp thứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong các nớc
Đông Nam á. Mặc dù số con bình quân của 1 phụ nữ sinh ra đã


giảm từ 2,25 con (năm 2000) xuống còn 2,11 con (năm 2005), nhng vẫn ở mức sinh trên 2 con ( cao hơn mức sinh thay thế). Từ
năm 2003 đến nay mức sinh giảm chậm và đang chững lại, nhng với quy mô dân số lớn, những năm gần đây do làm tốt công
tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản nên tỷ suất chết giảm, điều đó


dẫn đến dân số Việt nam còn tiếp tục tăng đến giữa thế kỷ
21.
Theo khảo sát và dự báo sân số Việt Nam của Tổng cục
thống kê Việt Nam và Văn phòng dân số Hoa Kỳ, dân số Việt
Nam năm 2010 ớc đạt từ 91-97 triệu dân, năm 2020 đạt từ 96102 triệu dân, năm 2024 đạt 99-108 triệu. Nh vậy dân số liên
tục tăng đến năm 2024, trung bình mỗi năm tăng khoảng 1
triệu dân, bằng dân số của tỉnh trung bình hiện nay. Cụ thể
đân số từ năm 2004 đến năm 2024 xem tại bảng 1.1.
Bảng 1.1: Thống kê dân số Việt Nam giai đoạn 20042024
Đơn vị tính: Triệu ngời
Năm/

2004

2010

2015

2020

2024

cấp
Tổng cục

80,859

86,409

91,408


95,977

99,275

Thống kê
Văn phòng

85,120

91,729

97,128

102,35

108,01

Nguồn cung

Dân số Hoa Kỳ

9
Ng

uồn [2, tr.42].


Theo quy định của pháp luật Việt nam, dân số có khả
năng lao động đợc tính vào nguồn nhân lực là những ngời có

độ tuổi từ 15-55 đối với nữ và từ 15-60 đối với nam. Theo kết
quả khảo sát, điều tra gần đây cho thấy, nguồn nhân lực
chiếm tỷ lệ cao trong dân số và có xu hớng tăng lên. số ngời có
độ tuổi từ 15 trở lên năm 2003 chiếm 72,3% dân số, có 27,7%
dân số dới 15 tuổi. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, thành
phần cơ bản của nguồn nhân lực, chiếm trên 60%, có xu hớng
tăng nhanh trong vòng 20 năm tới. Năm 1996, dân số trong độ
tuổi lao động chiếm 48% tổng dân số, năm 2003 chiếm 51%,
năm 2005 chiếm 52% [1, tr.129], dự kiến các năm 2010 chiếm
66%, năm 2015 chiếm 65,4%, năm 2020 chiếm 65% [2, tr.46]. Do
đó, có thể thấy nguồn nhân lực của Việt Nam tiềm năng dồi
dào cho phát triển kinh tế, đến năm 2020 ớc đạt trên 65 triệu
ngời trong độ tuổi lao động.

Quy mô nguồn nhân lực của Việt Nam trong những năm tới
có đặc điểm nổi bật là tốc độ tăng lao động nhanh hơn tốc
độ tăng dân số. Có thể so sánh tốc độ tăng của dân số và
nguồn lao động tại sơ đồ 1.1
Sơ đồ 1.1: So sánh dân số và nguồn lao động Việt Nam
giai đoạn 2004-2024
Đơn vị tính: Triệu ngời


So sánh dâ
n số vàlao động

Đ ơn

150,000
100,000

50,000
0
20
20
20
24

5

20
1

20
1

20
0

0

Dân số
Nguồn lao động
4

Số ngời

vịtính triệu ng ời

Năm
Nếu xét về lực lợng lao động tham gia vào các hoạt động

kinh tế từ nay đến năm 2020 hàng năm tăng nhanh. Theo Báo
cáo điều tra lao động-việc làm quy mô lực lợng lao động tham
gia vào các hoạt động kinh tế luôn chiếm khoảng chiếm 97%
tổng số nhân lực, số lợng cụ thể là: Năm 2003 có 42,128 triệu
ngời, năm 2004 có 43,242 triệu ngời, năm 2005 có 44,385 triệu
ngời, dự báo đến năm 2010 quy mô lực lợng lao động sẽ vào
khoảng 49,280 triệu ngời, năm 2015 khoảng 52,597 triệu ngời và
đến năm 2020 khoảng 56,308 triệu ngời [2, tr.46, 48]. Nh vậy,
số lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế hàng năm
đợc bổ sung nh sau: Năm 2004 so với năm 2003 tăng 1,114 triệu
ngời, năm 2005 so với năm 2004 tăng 1,143 triệu, từ năm 2003
đến 2005 hàng năm tăng thêm khoảng 1,1 triệu ngời, giai đoạn
2005-2010 tiếp tục hàng năm tăng trên 0,9 triệu ngời, từ năm
2010 đến năm 2020 vẫn giữ mức tăng bình quân hàng năm
khoảng 0,7 triệu ngời.


Nếu tính số lợng nhân lực dựa trên thời gian quy đổi theo
thời gian lao động thực tế, tức là tính số lợng nhân lực theo
công thức:
Số lợng nhân lực quy đổi = Dân số x Tỷ lệ nhân lực trong
dân số x Tỷ lệ nhân lực tham gia lao động x Thời gian lao động
Theo công thức trên, thì số lợng nhân lực của Việt Nam là
rất lớn, vì:
- Tỷ lệ nhân lực trong dân số lớn (chiếm trên 60% dân số)
- Tỷ lệ nhân lực thực tế tham gia hoạt động lao động
(chiếm 97% [3, tr.64]),
- Thời gian lao động của Việt Nam so với nhiều nớc vẫn ở
mức cao trớc năm 2002, đối với các cơ quan hành chính và các
đơn vị sự nghiệp trung bình 1 tuần 6 ngày, mỗi ngày 8 giờ, từ

năm 2002 đến nay trung bình 1 tuần 5 ngày, mỗi ngày 8 giờ,
còn đối với doanh nghiệp trung bình 1 tuần 5,5 ngày, mỗi ngày
8 giờ, thậm chí có doanh nghiệp làm ngày 10-11 giờ.
Với quy mô nguồn nhân lực lớn, tăng nhanh hàng năm, với đa
phần nhân lực bổ sung trẻ, khoẻ, có kiến thức chuyên môn và
khả năng nhanh nhạy, thích ứng đợc với cơ chế thị trờng, có thu
nhập đang tăng lên (cứ sau từ 7-8 năm thu nhập tăng lên gấp
đôi) sẽ là điều kiện thuận lợi đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực
cho phát triển kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng lên nhanh
chóng (trên 8%/năm), là lợi thế trong việc thu hút đầu t, trong
khai thác, sử dụng, kết hợp các nguồn lực đầu vào khác cho phát
triển kinh tế, đồng thời quy mô nhân lực lớn là điều kiện thúc
đẩy thị trờng tiêu thụ nội địa mạnh mẽ.


Tuy nhiên, việc tăng nhanh về quy mô, tốc độ của nguồn
nhân lực, trong điều kiện vẫn là nớc nông nghiệp là chủ yếu,
nền kinh tế kém phát triển sẽ tạo ra sức ép mạnh mẽ về đào tạo
nghề cho ngời lao động, mở rộng sản xuất, kinh doanh để giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho ngời lao động, nâng
cao chất lợng cuộc sống và đáp ứng các dịch vụ công cộng khác.
2. Nguồn nhân lực có đặc diểm trẻ, tỷ lệ nam- nữ
khá cân cân bằng
- Nguồn nhân lực có đặc điểm trẻ: Nguồn nhân lực trẻ của
Việt Nam là bộ phận dân số có khả năng lao động, có độ tuổi
từ 15-24, đây là bộ phận nhân lực tham gia vào các lĩnh vực
đòi hỏi có sức khoẻ, có trình độ, vào những công trình trọng
điểm, nhà máy, hầm mỏ, những hoạt động sản xuất vất vả,
đây cũng nhóm có nhiều u thế về trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn và thể lực, có sức tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa

học, công nghệ mới, năng động.
Nguồn nhân lực trẻ cũng là lợi thế quan trọng làm tăng hiệu
quả sử dụng nguồn nhân lực và khả năng cạnh tranh của nguồn
nhân lựcViệt Nam trên thị trờng lao động trong và ngoài nớc.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trẻ là bộ phận đang tích cực
tìm kiếm việc làm, cha có nhiều kinh nghiệm trong lao động,
sản xuất, kinh doanh, luôn thay đổi công việc, là lực lợng tham
gia vào tích cực vào thị trờng lao động và chịu sức ép mạnh
nhất về thiếu việc làm của xã hội.
Sở dĩ Việt Nam có nguồn nhân lực trẻ xuất phát từ đặc
điểm nguồn nhân lực Việt Nam những năm gần đây. Theo kết
quả khảo sát, hàng năm dân số có độ tuổi dới 15 chiếm ở mức


cao trong dân số, khoảng 27,7%, có trên 1 triệu ngời đến tuổi
lao động bổ sung vào lực lợng lao động, trong đó ngời lao
động tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế khoảng gần
1 triệu ngời, đây là nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, là đặc điểm
thuận lợi trong chiến lợc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
Theo báo cáo điều tra lao động-việc làm, năm 2005, cơ
cấu lao động trong độ tuổi lao động của Việt Nam có đặc
điểm sau:
- Nhóm tuổi từ 15-19 chiếm 18%;
- Nhóm tuổi từ 20-24 chiếm 16%;
- Nhóm tuổi từ 25-54 chiếm 61%;
- Nhóm tuổi từ 55-60 chiếm 5%.
Nh vậy, nhóm tuổi lao động đợc gọi là trẻ là từ 15-24 tuổi
chiếm 34% tổng số lao động, cao gần gấp 2 lần tỷ lệ trung
bình của thế giới (tỷ lệ lao động trẻ trung bình của thế giới
chiếm khoảng 17,5% )[2, tr.48;185].

Nguồn nhân lực hiện nay có cơ cấu trẻ, song đang có xu hớng già đi. Những năm gần đây, nguồn nhân lực trẻ sẽ có tốc
độ tăng chậm lại, từ năm 2003 đến 2005 nguồn lao động bổ
sung hàng năm là 1,1 triệu ngời, các giai đoạn sau giảm đi, nhng
giảm với mức độ chậm, giai đoạn 2005-2010 giảm còn 0,9 triệu
ngời, từ năm 2010 đến năm 2020 giảm còn 0,7 triệu ngời.
Năm 2000 nhóm tuổi từ 40 trở lên chiếm 24,13% tổng số
nhân lực thì năm 2005 tăng lên 27,86% và nhóm tuối 15-19
giảm từ 19,13% xuống còn 17,56%. Lao động trẻ có độ tuổi từ
15-24 sẽ giảm theo số liệu sau: Năm 2005 là 1,746 triệu ngời,


năm 2010 là 1,753 triệu ngời, đến năm 2020 giảm còn 1,413 ngời, với tỷ trọng trong tổng số nguồn nhân lực giảm tơng ứng là:
Năm 2005 chiếm 34,16%, năm 2010 xuống 31,24%, năm 2020
còn 23,78% [2, tr.121].
- Tỷ lệ nam, nữ trong nguồn nhân lực là khá bằng nhau: Từ
nhiều năm nay, ở lứa tuổi từ 15-60 tỷ lệ nam chiếm 50% và nữ
50% dân số, lứa tuổi từ 15 tuổi trở lên (tính cả những ngời hết
tuổi lao động-nữ trên 50 tuổi) nữ chỉ chiếm 51,7%. Hơn nữa
pháp luật Việt Nam không phân biệt nam, nữ khi tham gia vào
các cơ quan nhà nớc, các đơn vị sự nghiệp và các hoạt động
kinh tế khác. Phụ nữ Việt Nam có quyền bình đẳng với nam
giới trong việc làm, quan hệ xã hội, vai trò của gia đình, nhất là
việc làm và thu nhập.
Thực tế số lao động nữ của Việt Nam chiếm 49,35% lực lợng lao động, trong đó thực tế tham gia hoạt động kinh tế
chiếm 47,7% [2, tr.48]. Nh vậy, phụ nữ trong độ tuổi lao động
tham gia vào hoạt động kinh tế chiếm trên 95%. Việc nữ tham
gia tích cực vào hoạt động lao động, hoạt động kinh tế cho
thấy nguồn nhân lực Việt Nam có quy mô lớn, đồng thời đã huy
động đợc toàn bộ phụ nữ tham gia vào nguồn nhân lực, tham
gia hoạt động kinh tế để tạo ra của cải cho xã hội.

Vấn đề tích cực giải quyết việc làm cho lao động nữ, tạo
cho tỷ lệ nam, nữ trong hoạt động kinh tế tơng đối bằng nhau
là sự cố gắn của Chính phủ, cơ sở sử dụng lao động và đặc
biệt là sự cố gắng vơng lên của lao động nữ. Tuy nhiên, nguy
cơ thất nghiệp, hoặc thất nghiệp tạm thời của nữ là rất lớn (do


sức khoẻ, nghỉ sinh, đẻ; do sắp xếp, giải thể doanh nghiệp và
giảm biên chế của cơ quan hành chính, sự nghiệp).
3. Cơ cấu nguồn nhân lực phân bổ cha hợp lý giữa
thành thị, nông thôn, giữa vùng, miền lãnh thổ; giữa các
ngành kinh tế và các thành phần kinh tế
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo mô hình
kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, kinh tế-xã hội Việt
Nam có những chuyển biến đáng kể. Cơ cấu kinh tế đang có
có biến đổi mạnh mẽ theo hớng tăng tỷ trọng các ngành công
nghệp, dịch vụ. Cơ cấu nguồn nhân lực đã có sự chuyển dịch
theo hớng tích cực, nhng phân bổ cha hợp lý giữa thành thị,
nông thôn; giữa vùng, miền lãnh thổ; giữa các ngành kinh tế và
các thành phần kinh tế
- Phân bổ nguồn nhân lực giữa thành thị, nông thôn,
vùng, miền lãnh thổ còn bất hợp lý: Dân số ở khu vực nông thôn
có sự chuyển dịch sang thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ nhng
còn chậm. Hiện nay, vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân số. Năm
1999 có gần 76,39% dân số sống ở nông thôn, năm 2003 là
74,2%, năm 2005 là 73,56%.
Trong dân số ở khu vực nông thôn thì tỷ lệ lao động
thuần nông (lao động ở nông thôn chủ yếu sản xuất nông
nghiệp) chiếm tỷ lệ lớn. Năm 2000 có 23,1 triệu lao động thuần
nông, chiếm 63% tổng số nguồn lao động ở nông thôn, năm

2005 là 23 triệu ngời, chiếm 57%. Ngoài ra, còn bộ phận nhân
lực ở nông thôn buôn bán nhỏ, làm các nghề tiểu thủ công
nghiệp nhng vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp, còn gọi là lực lợng bán nông nghiệp.


Theo báo cáo điều tra lao động-việc làm, năm 2005, dân
số Việt Nam có 83,121 triệu ngời, thì 73,56% sống ở nông thôn,
tức là có 61,14 triệu ngời, trong đó có 44,2 triệu ngời trong độ
tuổi lao động, chiếm 72,28%, có khoảng 33 triệu ngời hoạt
động kinh tế ở nông thôn, chiếm 74,67% nhân lực trong độ
tuổi lao động sống ở nông thôn.
Nh vậy, số nhân lực lao động tại nông thôn chiếm hơn 2/3
số nhân lực cả nớc, nhng sản phẩm chủ yếu nông thôn làm ra
(sản phẩm nông, lâm, ng nghiệp) năm 2005 chỉ chiếm 20,7%
sản lợng của nền kinh tế quốc dân. Điều này cho thấy, năng suất
của nhân lực trong nông thôn quá thấp, cần chuyển đổi lao
động nông thôn sang các loại hình hoạt động kinh tế khác.
Nguồn nhân lực đợc phân bố ở các vùng miền không đều
nhau, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu long. Vùng đồng bằng sông Hồng ngời có độ tuổi
15 trở lên tham gia hoạt động kinh tế chiếm 22,4% nhân lực cả
nớc (năm 2005), vùng đồng bằng sông Cửu long chiếm 21,44%,
còn lại nhân lực đợc bố trí tại 6 vùng còn lại, nhng chỉ chiếm
56,16%. Nhân lực vùng Đồng bằng sông Hồng gấp 7 lần Tây Bắc
bộ
Trong các vùng thì nhân lực sống ở nông thôn là chủ yếu,
nhất là 2 vùng có quy mô nhân lực lớn là đồng bằng sông Hồng
và đồng bằng sông Cửu long nhân lực sống ở nông thôn chiếm
trên 70%, còn lại sống ở thành thị. Riêng chỉ vùng Bắc Trung bộ
và Đông Nam bộ tỷ lệ nhân lực sống ở nông thôn chiếm thấp

hơn 40%, nguyên nhân có tỷ lệ thấp này là vùng Bắc Trung bộ
và Đông Nam bộ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp trong


nền kinh tế, điều kiện khí hậu, thời tiết không thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp [2, tr.185].
Trong các miền, thì nhân lực chủ yếu tập trung ở khu vực
miền Bắc và miền Nam. Khu vực miền Bắc có nhân lực gấp 1,5
lần khu vực miền Trung; khu vực miền Nam có nhân lực gấp 1,4
khu vực miền Trung.
Nhân lực chủ yếu sống ở đồng bằng và sản xuất nông
nghiệp là chính, tạo nên sự mất cân đối về mật độ dân số
giữa nông thôn và thành thị; giữa vùng núi và đồng bằng; giữa
các vùng có sự chênh lệch quá mức. Theo số liệu khảo sát năm
2005, số lợng lao động và tỷ lệ lao động giữa các vùng lãnh thổ,
tỷ lệ lao động giữa nông thôn và thành thị 8 vùng trên cả nớc đợc phản ánh tại bảng 3.1.
Bảng 3.1. Số ngời từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
chia theo vùng lãnh thổ
ST

Vùng lãnh thổ

Số lợng

T

Tỷ lệ giữa các Tỷ lệ sống ở
vùng lãnh thổ

nông thôn %


%

Cả nớc

44.385.

100

72,28

22,41

78,27

11,79

82,45

3,17

88,22

032
1

Đồng bằng sông Hồng

9.947.75
5


2

Đông Bắc bộ

5.232.63
2

3

Tây Bắc bộ

1.406.96
3


4

Bắc Trung bộ

5.339.33

12,03

44,37

8,27

71,43


5,60

73,24

15,28

47,68

21,44

80,41

1
5

Duyên hải Nam Trung

3.670.25

bộ
6

Tây Nguyên

8
2.485.71
2

7


Đông Nam bộ

6.783.88
2

8

Đồng bằng sông Cửu

9.518.49

long

9
Nguồn [2, tr.195].

- Phân bổ nguồn nhân lực giữa ngành kinh tế không đều
nhau: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế kéo theo quá trình
chuyển dịch cơ cấu nhân lực.
Đối với Việt Nam có đặc điểm nổi lên là quá trình chuyển
dịch cơ cấu nhân lực diễn ra nhanh hơn chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Nguyên nhân cơ bản của tình hình đó là do xuất phát
điểm tỷ lệ nhân lực trong nông nghiệp quá cao, năng xuất lao
động trong nông nghiệp thấp, tình trạng thất nghiệp trá hình
diễn ra trong sản xuất nông nghiệp là phổ biến. Khi chuyển
dịch cơ cấu kinh tế giải quyết đợc nhanh chóng số lao động
không đủ việc làm sống ở nông thôn, tạo cho sự chuyển dịch về
cơ cấu nhân lực diễn ra nhanh chóng.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
cụ thể xem tại bảng 3.2.



Bảng 3.2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động 2000-2010
Số

Ngành

TT

1

Công

GDP

GDP

GDP

LĐ năm

LĐ năm

LĐ năm

năm

năm


năm

2000

2005

2010

2000

2005

2010

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

36,6

38


40

13,1

15

20

24,3

20

10

62,6

52

40

39,1

42

50

24,3

33


40

nghiệp
xây dựng

2

Nônglâm
nghiệp

3

Dịch vụ

Nguồn [4, tr.562].
Theo số liệu trên cho thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu
nhân lực nhanh hơn chuyển đổi cơ cấu kinh tế, bình quân
giai đoạn 200-2005, tỷ lệ nhân lực khu vực nông, lâm, ng
nghiệp hàng năm giảm 2,1% đoạn 2005-2010 dự kiến giảm
0,8% năm.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành
kinh tế diễn ra còn chậm, cần có sự chuyển dịch căn bản. Thực
tế tỷ lệ lao động trong nông, lâm nghiệp vẫn cao, năm 2000
chiếm 62%, năm 2005 chiếm 52%, dự kiến năm 2010 chiếm
40%, trung bình giai đoạn 2000-2010, mỗi năm tỷ trong nhân
lực trong nông, lâm nghiệp giảm khoảng 2%.


Đặc điểm nguồn nhân lực của Việt nam là nhân lực trong

nông nghiệp nhiều năm nay chiếm tỷ trọng lớn, tỷ trọng này còn
giữ ít nhất trong vòng 10 năm tới. Năm 2000 nhân lực trong
nông nghiệp gấp 4,8 nhân lực công nghiệp, năm 2005 gấp 3,5
lần, dự kiến năm 2010 gấp 2 lần. Nếu so nhân lực trong nông
nghiệp với nhân lực trong dịch vụ, thì năm 2000 gấp 2,6 lần,
năm 2005 gấp 1,6 lần, dự kiến đến năm 2010 nhân lực trong
nông, lâm nghiệp bằng nhân lực trong dịch vụ.
Theo số liệu trên cho thấy, năm 2005, tỷ lệ lao động nông
nghiệp chiếm 52%, lao động công nghiệp là 15%, lao động
dịch vụ là 33%, đến năm 2010, tỷ lệ này mới đạt là 40%, 20%
và 40%, trong khi đó các nớc phát triển tỷ lệ này là 2%, 27% và
71%, các nớc vừa hoàn thành công nghiệp hoá là 11%, 38% và
51%, các nớc đang phát triển có thu nhập thấp là 25%, 25% và
50% [2, tr.149].
- Phân bổ nguồn nhân lực giữa các khu vực kinh tế ổn
định: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hớng xã hội chủ nghĩa là chủ trơng đúng đắn đợc khẳng định
tại Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, từ đó đến
nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự xuất hiện
nhiều thành phần kinh tế mới, phát triển đan xen vào nhau,
đồng thời xuất hiện đa hình thức sở hữu.
Quá trình hình thành nguồn nhân lực của các thành phần
kinh tế với quy mô khác nhau, thu nhập khác nhau, địa vị xã hội
khác nhau, tạo nên bức tranh về nguồn nhân lực thay đổi nhiều
so với thời kỳ trớc năm 1986. Nếu nh trớc năm 1986, nhân lực
trong kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể chiếm đa số, những năm


sau này nhân lực trong khu vực kinh tế nhà nớc giảm, nhân lực
trong khu vực kinh tế ngoài nhà nớc, khu vực có vốn đầu t nớc

ngoài tăng. Từ năm 1998 đến nay, nhân lực trong các khu vực
kinh tế tăng về quy mô, nhng tỷ trọng giữa các khu vực ổn
định. Nhân lực trong khu vực nhà nớc, năm 1998 là 3.533.000
ngời, năm 2000 là 3.501.000 ngời, năm 2005 là 4.413.000 (bình
quân tăng 125.000 ngời/năm) nhng tỷ trọng luôn chỉ chiếm
khoảng 10% nhân lực cả nớc, các khu vực ngoài nhà nớc có tỷ
trọng ở mức từ 88%-90%, riêng khu vực có vốn đầu t nớc ngoài
có tỷ trọng tăng từ 0,5% lên 1,58%, nhng chiếm tỷ trọng nhỏ, cụ
thể xem bảng 3.3.
Bảng 3.3: Số lợng và tỷ lệ lao động các khu vực kinh tế
Đơn vị tính: 1000 ngời
S

T
T

1
2
3

4

Khu vực
kinh tế

Số LĐ
năm
1998

Tỷ lệ LĐ

năm
1998

Số LĐ
năm
2000

Tỷ lệ
LĐ năm
2000

Số LĐ
năm
2005

Tỷ lệ LĐ
năm
2005

Kinh
tế 3.533
nhà nớc
Kinh
tế 31.08
ngoài nhà
3
nớc
Khu
vực 184


vốn
đầu t nớc
ngoài
Cộng
36.7
98

10.2 %

3.501

9.3%

10,16%

89.3%

33.88
1

90.1%

4.41
3
38.3
55

0.5%

226


0.6%

687

1,58%

100%

39.6
08

100%

45.4
60

100%

88,26%

Nguồn [2, tr.51].
Cơ cấu nguồn nhân lực đã có sự chuyển dịch theo hớng
tích cực, nhng phân bổ cha hợp lý giữa thành thị, nông thôn;
giữa vùng, miền lãnh thổ; giữa các ngành kinh tế và các thành


phần kinh tế. Điều này khó khăn cho việc phát triển kinh tế ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và giải quyết việc làm cho các
tỉnh đồng bằng.

4. Nguồn nhân lực có trình độ văn hoá, chuyên môn,
kỹ thuật còn thấp, bố trí không đều, sức khoẻ cha đáp
ứng yêu cầu của kinh tế thị trờng
- Trình độ văn hoá còn thấp, phân bổ không đồng đều:
Những năm gần đây Việt Nam đã có nhiều cố gắng nâng cao
dân trí, thực hiện xoá mù, phổ cập tiểu học cho vùng núi, phổ
cập THCS cho đồng bằng, thành phố, thị xã. Tỉ lệ ngời đi học
của nhóm dân số tuổi từ 6-23 tăng từ 51,5% năm 1995, 62,5%
năm 1997, dự kiến năm 2020 khoảng 88-90%, số năm đi học
bình quân từ 7,3 năm hiện nay, dự kiến năm 2010 từ 9-9,5,
năm 2020 là 10-11 năm.
Tuy nhiên, trình độ văn hoá của nguồn nhân lực còn thấp
so với một số nớc trong khu vực nh Singapore, Malaixia. Năm 1999,
trình độ văn hoá của lực lợng lao động nh sau: 18,56% mù chữ
và cha hết tiểu học; 28,33% tốt nghiệp tiểu học; 35,82% tốt
nghiệp trung học cơ sở; 15,28% tốt nghiệp phổ thông trung
học, năm 2005 trình độ văn hoá của lực lợng lao động tơng ứng
nh sau: 17,1%; 29,09%; 32,58%; 21,22%. Nh vậy, tỷ trọng số ngời mù chữ và cha hết tiểu học giảm 1,46%, số ngời tốt nghiệp
phổ thông trung học tăng 5,94%, nhng vẫn còn nhiều ngời mù
chữ và cha hết tiểu học, cha phổ cập đợc trung học cơ sở.
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực không đồng đều
giữa các vùng, các ngành kinh tế, đặc biệt khu vực miền núi,
vùng sâu còn nhiều ngời mù chữ. Số ngời không biết chữ và cha


hết tiểu học ở khu vực Tây Bắc chiếm cao nhất (36,43%), sau
đó đến khu vực Tây Nguyên (chiếm 24,8%), trong đó hai khu
vực này có rất nhiều tiềm năng kinh tế và cần thiết phát triển
kinh tế-xã hội, ngợc lại số ngời tốt nghiệp phổ thông trung học ở
đồng bằng sông Hồng chiếm cao nhất (28,83%), sau đó là Đông

Nam bộ (chiếm 27,99%). Trình độ văn hoá không đồng đều
dẫn đến có nhiều khó khăn trong việc đào tạo nâng cao trình
độ chuyên môn cho nguồn nhân lực khu vực miền núi và áp
dụng khoa học công nghệ cho vùng sâu, vùng xa.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp, cơ cấu trình
độ bất hợp lý, bố trí không đồng đều: Trình độ chuyên môn,
nghề nghiệp của nguồn nhân lực 10 năm trở lại đây đợc đầu t
tích cực, đã tăng tỷ lệ ngời qua đào tạo, trong đó tăng đáng kể
là đào tạo nghề và đào tạo nhân lực có trình độ cao đẳng,
đại học và sau đại học.
Năm 1995, tỷ lệ nhân lực kỹ thuật chiếm 14,25% tổng số
nguồn nhân lực (còn 85,75% nhân lực cha đợc đào tạo, đây là
tỷ lệ quá lớn), trong đó trình độ đại học, cao đẳng và sau đại
học (ĐH, CĐ) là 2,3%, trung học chuyên nghiệp (THCN) là 3,7% và
công nhân kỹ thuật (CNKT) là 8,2%, với tỷ lệ so sánh giữa ĐH, CĐ/
THCN/CNKT/lao động phổ thông là 1/1,6/3,6/37 [4, tr.358].
Năm 2005, tỷ lệ nhân lực kỹ thuật chiếm 24,79% tổng số
nguồn nhân lực, tơng đơng 11 triệu ngời (tăng 10,54% so với
năm 1995, còn 75,21% nhân lực cha đợc đào tạo), trong đó
trình độ đại học, cao đẳng và sau đại học là 5,27% (tăng 2,3
lần so với năm 1995), trung học chuyên nghiệp là 4,3% và công


nhân kỹ thuật là 15,22% (tăng 1,9 lần so với năm 1995), tỷ lệ so
sánh tơng ứng là 1/0,8/2,9/14,3 [2, tr.49].
Tuy nhiên, tỷ lệ đào tạo nhân lực có trình độ từ cao đẳng
trở lên tăng nhanh hơn so với đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và
đào tạo công nhân kỹ thuật, đây cũng là bất hợp lý trong cơ
cấu đào tạo. Nếu so với một số nớc công nghiệp, tỷ lệ đào tạo
ĐH,CĐ/ THCN/CNKT/lao động phổ thông là 5,5%/24,5%/35%/35%,

tơng ứng là 1/4/6,4/6,4, so với các nớc công nghiệp phát triển tỷ
lệ là 1/4/10 thì tỷ lệ nhân lực đợc đào tạo của Việt Nam quá
thấp, chỉ bằng 38% so với các nớc công nghiệp, cơ cấu giữa các
cấp trình độ nguồn nhân lực còn nhiều bất hợp lý [4, tr.358].
Bộ phận nhân lực có trình độ chuyên môn cao (trình độ
từ cao đẳng trở lên) năm 2005 tăng gấp 2,3 lần so với năm 1995,
nhng so với công nghiệp mới (NICs) còn thấp, năm 2003 số nhân
lực có trình độ từ cao đẳng trở lên tính trên 1000 dân mới có
khoảng 16 ngời, trong khi đó Hàn Quốc có 52 ngời, Nhật Bản có
70 ngời. Bộ phận nhân lực có trình độ chuyên môn cao chủ yếu
tập trung trong ngành giáo dục và đào tạo (43,8%), trong khi đó
ở các ngành công nghệ mũi nhọn quá ít, cần có cán bộ để trực
tiếp làm ra sản phẩm, dịch vụ cho xã hội chỉ chiếm 15,4%. So
với số công nhân kỹ thuật, số cán bộ khoa học công nghệ chiếm
tỷ lệ cao hơn, nhng chủ yếu làm việc tại khu vực hành chính sự
nghiệp, chiếm 67,3%, trong khi đó các nớc nh Thái Lan là 58,2%,
Hàn Quốc là 48%, Nhật Bản là 64,4%, Singapore là 44%. Phần lớn
cán bộ khoa học công nghệ tập trung ở các cơ quan trung ơng,
các thành phố lớn và có từ 50-70% làm việc trái nghề.


Bộ phận nhân lực có học vị (trình độ từ thạc sỹ trở lên),
học hàm ( phó Giáo s, Giáo s) phần lớn tuổi cao, đội ngũ kế cận
mỏng, đến cuối năm 2004 cả nớc có 5479 phó Giáo s, Giáo s,
trong đó có 3075 ngời đang làm việc, chiếm 56,1%. Tỉ lệ lao
động khoa học và công nghệ trong các cơ quan nghiên cứu có
trình độ tiến sỹ là 9,7%, thạc sỹ là 3,43% (năm 2003), trong khi
tỉ lệ này ở Hàn Quốc là 29,48% và 45,78% [1, tr.82].
Tỷ lệ nhân lực đợc đào tạo giữa vùng núi, vùng sâu, vùng xa
với vùng đồng bằng, giữa thành thị và nông thôn chênh lệch

đáng kể. Trong 8 vùng lãnh thổ, vùng có tỷ lệ nhân lực đợc đào
tạo cao nhất là Đồng bằng sông Hồng (31,9%) và Đông Nam bộ
(31,8%); tiếp đến là Duyên hải Nam Trung bộ (25,4%), thấp nhất
là vùng Tây Bắc (11,3%), 4 vùng còn lại tỷ lệ này từ 14-18% [2,
tr.74].
Tỷ lệ cán bộ có chuyên môn cao phân bố càng bất hợp lý
giữa các ngành, vùng miền. Trong ngành nông nghiệp số cán bộ
có trình độ chuyên môn cao chỉ chiếm 8%, nhng chủ yếu tập
trung tại các cơ quan trung ơng (chiếm 89,3%); 8,9% ở cấp
tỉnh; 1,8% ở cấp huyện, ở xã hầu nh không có [2, tr.5].
- Sức khoẻ nguồn nhân lực cha đáp ứng yêu cầu của kinh tế
thị trờng: Sức khoẻ nguồn nhân lực đợc nâng lên nhng cha đáp
ứng yêu cầu của kinh tế thị trờng. Mức dinh dỡng đã tăng từ
2.400 cal/ngời/ngày năm 1995 lên 3.000 cal/ngời/ngày năm 2005.
Đời sống vật chất, tinh thần đợc nâng lên, công tác chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng dân c đợc Chính phủ quan tâm, chính sách xoá
đói, giảm nghèo đợc đánh giá là quốc gia đi đầu trong số các
quốc gia kém phát triển. Tuy nhiên, do điều kiện là một nớc


nghèo, thu nhập dới 600USD/ngời/năm trong nhiều năm qua,
đứng thứ 165/208 quốc gia và vùng lãnh thổ, còn 29% số dân có
thu nhập dới 1 USD/ ngày/ngời, 50% số dân thu nhập dới 2 USD/
ngày/ngời, chỉ có 55% dân số nông thôn có nớc sạch. Trong điều
kiện đó, dẫn đến dân số nói chung và nguồn nhân có sức khoẻ
không đảm bảo.
Theo đánh giá của Viện Dinh dỡng-Bộ y tế, số ngời gầy
chiếm 48,7% dân số, số ngời trung bình chiếm 50%, số ngời
béo chiếm 1.3%, về chiều cao, cân nặng lứa tuổi 15, lứa tuổi
bớc vào độ tuổi lao động là 147 cm, 34,4 kg, trong khi đó các nớc Thái lan là 149 cm, 40,5 kg; Philippin là 153 cm, 45,5kg; Nhật

Bản 164 cm, 53,3 kg[2, tr.5].
Theo kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu khoa học Bảo
hộ lao động, tỷ lệ công nhân mắc bệnh, ốm đau ngày càng
tăng, chỉ số sức khoẻ giảm 1,42%.
Chỉ số phát triển con ngời (HDI) theo đánh giá của Chơng
trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam tiến bộ chậm,
năm 1993 xếp thứ 116/174 nớc, năm 2000 xếp 109/174, năm
2003 xếp thứ 112/177
Theo đánh giá chung của Ngân hàng Thế giới về chất lợng
nguồn nhân lực của Việt Nam đợc chấm điểm đạt 17,87/60,
trong khi đó các nớc trong khu vực nh Thái Lan đạt 18,46/60;
Philippin đạt 29,8/60; Malaixia đạt 30/60; Trung Quốc đạt
31,54/60; Ân Độ đạt 33,6/60; Xingapore đạt 42,16/60.
Nh vậy, nhìn chung chất lợng nguồn nhân Việt Nam đợc
nâng lên nhng so với các nớc trong khu vực còn thấp, nhất là


trình độ chuyên môn, sức khẻo và sự phân bổ nguồn nhân lực
đợc đào tạo giữa các vùng, miền, điều đó dẫn đến cha đáp
ứng yêu cầu cho phát triển nền kinh tế thị trờng, thực hiện công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hoá theo hớng
hiện đại.
5. Nguồn nhân lực có tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc
biệt thất nghiệp ở khu vực thành thị và tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở khu vực nông thôn không cao
Trong chính sách phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam
luôn quan tâm đến giải quyết việc làm cho ngời lao động.
Chính phủ đã thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích
đầu t, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá
nông nghiệp, nông thôn, u tiên hỗ trợ và u đãi ngành nghề, doanh

nghiệp sử dụng nhiều lao động, đa dạng hoá ngành nghề, đầu
t cho đào tạo, nhất là đào tạo nghề để ngời lao động tự tìm
việc làm cho mình và tạo việc làm cho ngời khác, phát triển thị
trờng lao động trong và ngoài nớc nhằm tạo việc làm cho nguồn
nhân lực.
Tuy nhiên, sức ép về việc làm vẫn rất lớn do cung về lao
động vợt quá cầu trong nhiều năm qua, hàng năm phải giải
quyết việc làm cho từ 1-1,2 triệu thanh niên bớc vào tuổi lao
động, giải quyết trung bình trên 0,6 triệu lao động đang trong
độ tuổi sung sức ở thành thị đang chờ việc, thêm vào đó là
quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, quá trình đô thị
hoá nông thôn dẫn đến ngời lao động ở nông thôn không có
ruộng dẫn đến thời gian không lao động ngày càng cao. Thị trờng lao động Việt nam thừa lao động phổ thông nhng thiếu lao


động có tay nghề, thiếu thông tin về thị trờng lao động và cha
thực sự tích cực tham gia thị trờng lao động. Đây là những
nguyên nhân cơ bản làm cho tỷ lệ thất nghiệp cao, nhất là thất
nghiệp ở khu vực thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
ở khu vực nông thôn không cao.
Theo kết quả báo cáo của Chơng trình quốc gia giải quyết
việc làm năm 2005 thì: Năm 1990 giải quyết đợc 30,2 triệu việc
làm, năm 2000 là 40,6 triệu, năm 2005 là 43,5 triệu hàng năm,
tức là trung bình hàng năm tăng 1 triệu việc làm cho ngời lao
động, riêng từ năm 2001-2005 đã giải quyết đợc 7,5 triệu việc
làm mới cho ngời lao động. Điều đó góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị từ 6,28% năm 2001 xuống còn 5,3% năm
2005, tăng thời gian lao động nông thôn từ 74% năm 2001 lên
80,15% năm 2005.
Theo thống kê năm 2005, số ngời có độ tuổi từ 15 trở lên có

việc làm là 43,450 triệu ngời, chiếm 97,9% số ngời 15 tuổi trở
lên hoạt động kinh tế. Nếu tính số nhân lực trong độ tuổi lao
động, từ 15-60 tuổi là 40,898 triệu ngời, chiếm 97,8% số ngời
trong độ tuổi lao động hoạt động kinh tế. Nh vậy số nhân lực
thất nghiệp của năm 2005 tơng ứng là 2,1%, bằng 0,91 triệu ngời và 2,2%, bằng 0,899 triệu ngời.
Điều đặc biệt của Việt nam là bậc đào tạo càng cao thì
tỷ lệ thất nghiệp càng nhiều. Theo khảo sát của Tổng cục Dạy
nghề (năm 2003), tỷ lệ ngời có trình độ đại học-cao đẳng thất
nghiệp là 3,61%, trình độ cao đẳng là 3,41%, trung học
chuyên nghiệp là 2,72% và dạy nghề là 1,39%. ở bậc dạy nghề,
nghề có tỷ lệ thất nghiệp cao là sản xuất hoá chất (30%), nghề


lặn (31%), nghề tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất là nghề thủ công
mỹ nghệ (0,18%), nghề bán hàng (0,20).
Ngoài ra, còn 18,058 triệu ngời tuổi từ 15 trở lên không đi
làm mà đi học, nội trợ và hình thức khác, đây là bộ phận cần
có việc làm, nhất là những ngời đi học sau khi tốt nghiệp.
Việt Nam có đặc điểm khác biệt nữa là bậc đào tạo càng
cao thì tỷ lệ ngời không có nhu cầu làm việc càng lớn, theo khảo
sát của Tổng cục Dạy nghề (năm 2003), công nhân kỹ thuật, có
4,17% không có nhu cầu làm việc, ở bậc trung học chuyên
nghiệp là 5,62%, cao đẳng-đại học là 5,62%, trong khi tỷ lệ lao
động đợc đào tạo còn thấp, chi phí đào tạo tốn kém nhng
không mi\uốn làm việc thì đây là sự lãng phí rất lớn cho xã hội.
Về tỷ lệ sử dụng thời gian lao động (TGLĐ) ở khu vực nông
thôn thấp, cụ thể xem bảng 5.1.
Bảng 5.1: Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông
thôn
ST


Vùng lãnh thổ

T

Tỷ lệ sử

Tỷ lệ sử

Tỷ lệ sử

dụn

dụng TGLĐ

dụng TGLĐ

g

năm 2004

năm 2005

TGL

(%)

(%)

Đ

năm
199
6
(%)

1

Cả nớc

72,21

79,1

80,65

Đồng bằng sông Hồng

75,69

80,21

78,75


2

Đông Bắc bộ

78,68


80,31

3

Tây Bắc bộ

79,01

77,42

78,44

4

Bắc Trung bộ

73,35

76,13

76,45

5

Duyên hải Nam Trung

70,69

79,11


77,81

bộ
6

Tây Nguyên

74,98

80,60

81,61

7

Đông Nam bộ

61,76

81,34

82,90

8

Đồng bằng sông Cửu

68,16

78,37


80,00

long
Nguồn [2, tr.131].
Về tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn
bình quân cả nớc năm 2005 là 250 ngày, đạt tỷ lệ 80,15% tăng
1,55% so với năm 2004, tăng 6,15% so với năm 1994. Trong 8 vùng
lãnh thổ, có 3 vùng đạt tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu
vực nông thôn là trên 80%, 3 vùng đạt tỷ lệ từ 78-80%, 2 vùng đạt
tỷ lệ dới 78%. Nếu xét về cơ bản, tỷ lệ thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn giữa các vùng tơng đối đồng đều nhau.
Tuy nhiên, nếu xem xét cụ thể từng vùng cho thấy, 2 vùng có
thời gian sử dụng trong nông nghiệp có xu hớng giảm đi là vùng
Đồng bằng sông Hồng (nơi đất chật ngời đông) giảm 1,46%,
vùng Duyên hải Nam Trung bộ (nơi điều kiện sản xuất không
thuận lợi) giảm 1,3%, 2 vùng này có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất
cả nớc.
Theo số liệu trên tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam còn cao,
số nhân lực thất nghiệp trong độ tuổi lao động, từ 15-60 tuổi
của năm 2005 là 2,1%, bằng 0,91 triệu ngời, tỷ lệ thất nghiệp ở


thành thị vẫn chiếm 5,13%. Riêng số lao động ở nông thôn,
chiếm hơn 70% lực lợng xã hội, là 38,31 triệu ngời, với thời gian sử
dụng lao động mới đạt 80,65%, tức là 1/5 thời gian cha đợc sử
dụng thì Việt Nam còn lãng phí khoảng 7 triệu ngời lao động
quy đổi.
Tỷ lệ thất nghiệp giữa các vùng lãnh thổ còn nhiều bất hợp
lý, ba vùng kinh tế trọng điểm có mức thất nghiệp cao hơn

trung bình cả nớc, đó là vùng Đồng bằng sông Hồng tỷ lệ thất
nghiệp là 5,42%, vùng Duyên hải Nam Trung bộ là 5,24%, vùng
Đông Nam bộ là 5,47%. Trong khi đó 3 vùng này đợc tập trung
đầu t để đẩy mạnh công nghiệp hoá, nhng quan hệ cung cầu
về việc làm lại mất cân đối, điều đó vấn đề đầu t tăng, nhng
không giải quyết đợc nhiều việc làm, không tơng quan giữa tốc
độ tăng đầu t với việc gia tăng việc làm.
Mục tiuaw của Chính phủ Việt Nam đa ra đến năm 2010,
đảm bảo việc làm cho khoảng 49,5 triệu ngời, trong đó tạo
thêm việc làm cho 8 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị xuống dới 5%, giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn
xuống dới 6%. Nếu thực hiện đợc mục tiêu trên đã giảm đáng kể
tỷ lệ thất nghiệp, nhng so với các nớc trong khu vực thì tỷ lệ thất
nghiệp của Việt Nam vẫn còn rất lớn cả về tỷ lệ và quy mô,
điều đó đòi hỏi trong những năm tới vấn đề giải quyết việc
làm cho ngời lao động nói chung và lao động ở nông thôn là hết
sức cấp thiết.
6. Nguồn nhân lực có năng xuất lao động thấp, thu
nhập thấp


×