Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.78 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
MỞ BÀI.................................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................1
I. Khái quát chung..............................................................................................1
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.......1
2. Định nghĩa xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có
yếu tố nước ngoài............................................................................................2
II. Quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài...........................3
1. Hệ thuộc thứ nhất: Luật do các bên thỏa thuận lựa chọn...........................4
2. Hệ thuộc thứ hai: áp dụng nơi phát sinh hậu quả của sự kiện thiệt hại nếu
các bên không có thỏa thuận...........................................................................7
KẾT LUẬN............................................................................................................9

0


MỞ BÀI
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay khi các giao lưu dân sự
đang diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể ở các quốc gia khác
nhau thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
đã trở thành một vấn đề mang tính pháp lý quốc tế, là một trong những nội dung
quan trọng của Tư pháp quốc tế. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói
riêng đã được BLDS 2015 đề cập đến tương đối chi tiết. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng các quy định này đã bộc lộ một số hạn chế cần phải khắc phục nhằm đảm
bảo quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự quốc tế,
góp phần hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam. Do đó thông
qua đề bài: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam (BLDS năm 2015) trong
việc giải quyết xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài.” có thể có những đánh giá về ưu điểm cũng như nhược điểm của


quy định của pháp luật Việt Nam trong giải quyết xung đột pháp luật bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan
hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây
thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói
trên vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện
gây ra thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần. Cụ thể người gây thiệt
hại là người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước người bị hại và người bị
1


hại có quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những hành vi nhất định
nhằm đảm bảo lợi ích của mình.
Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết không trên cơ sở của hợp đồng
dân sự (vì không có hợp đồng) mà chỉ giải quyết trên cơ sở của pháp luật quy
định là thiệt hại thực tế đã gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế
được hiểu là quan hệ trách nhiệm có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở yếu tố nước
ngoài trong quan hệ dân sự được quy định tại khoản 2 điều 663 Bộ luật dân sự
2015, quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, các bên chủ thể tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng bao gồm bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quốc tịch khác nhau.
Thứ hai, các bên chủ thể tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập,
thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài.

Thứ ba, các bên chủ thể tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của
quan hệ bồi thường đó ở nước ngoài.
2. Định nghĩa xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu
tố nước ngoài
Song song với xung đột thẩm quyền, một hiện tượng khác cũng thường
hay xuất hiện trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài
và thậm chí còn phổ biến và mang tính chất phức tạp hơn đó là xung đột pháp
2


luật. Cũng giống như xung đột thẩm quyền, không có văn bản nào định nghĩa cụ
thể khái niệm xung đột pháp luật, đây là tên gọi của một hiện tượng xảy ra
thường xuyên trong thực tiễn khi giải quyết quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Đó là “hiện tượng mà pháp luật của hai hay
nhiều nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điểu chỉnh các mối quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài và dẫn tới kết quả giải quyết mối
quan hệ là khác nhau”.
Như vậy có thể định nghĩa xung đột pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là hiện tượng mà pháp luật của hai hay
nhiều nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điểu chỉnh quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài và dẫn tới kết quả giải
quyết là khác nhau.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam được quy định tại Điều 687
BLDS 2015 như sau:
“1. Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trường

hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự
kiện gây thiệt hại được áp dụng.
2. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có nơi cư trú, đối với cá nhân
hoặc nơi thành lập, đối với pháp nhân tại cùng một nước thì pháp luật của nước
đó được áp dụng.”

3


Điều luật này đã áp dụng nhiều hệ thuộc luật được kết hợp với nhau theo trật tự
thứ bậc:
1. Hệ thuộc thứ nhất: Luật do các bên thỏa thuận lựa chọn.
Theo đó, các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng (khoản 1 điều 687). Trong trường hợp có hành
vi trái pháp luật phát sinh và gây thiệt hại cho một chủ thể khác, thì chủ thể gây
ra thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại có quyền tự thỏa thuận thương lượng với nhau
về lựa chon pháp luật áp dụng giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Trường hợp các bên thỏa thuận được luật áp dụng thì Tòa án có thẩm
quyền xét xử sẽ thụ lý vụ việc và giải quyết theo pháp luật mà hai bên đã lựa
chọn.
 Tôn trọng và mở rộng quyền tự do định đoạt của các bên trong quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng nói chung, xuất phát từ tính chất của quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài là các quan hệ tư, được hình thành trên nguyên tắc nền tảng là sự thỏa
thuận giữa các bên. Việc cho phép các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được quyền chọn pháp luật áp dụng không ảnh hưởng đến lợi
ích công cộng, lợi ích xã hội, lợi ích của nhà nước mà còn có ý nghĩa lớn trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, nhất là bên bị thiệt hại.
Nhà làm luật trong BLDS 2015 khẳng định quan điểm việc của người dân thì
để người dân tự giải quyết, trao sự chủ động cho các đương sự, tôn trọng sự

định đoạt của các đượng sự ngay cả trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng.
Ngoài ra, còn một lý do nữa để sự cho phép các bên tự thỏa thuận lựa chọn
pháp luật áp dụng trở nên có lý và thuyết phục là vì nếu các bên đã chọn luật
thì họ cũng dễ dàng chấp nhận những quy định của hệ thống pháp luật do họ
lựa chọn hơn và việc thực thi pháp luật vì thế sẽ được thực hiện một cách tự
4


nguyện, thuận lợi và dễ dàng hơn. Điều này cũng góp phần đảm bảo quyền tự
định đoạt của các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có
yếu tố nước ngoài.
Vấn đề đặt ra, thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng giải quyết bồi thường
thiệt hại phát sinh có yếu tố nước ngoài, tại thời điểm nào được chấp nhận?
Trước khi thiệt hại xảy ra hay sau khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế? Để tạo điều
kiện cho các bên trong việc xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ của họ và để
tôn trọng quyền định đoạt của họ, thiết nghĩ cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng theo hướng,
ghi nhận thời điểm lựa chọn pháp luật, chỉ chấp nhận cho các bên lựa chọn pháp
luật sau khi có sự kiện gây thiệt hại, điều này phù hợp với pháp luật các nước,
không chấp nhận thỏa thuận nói chung và thỏa thuận lựa chọn pháp luật khi chưa
có sự kiện gây thiệt hại xảy ra.
Việc pháp luật Việt Nam cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng
điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài
phù hợp với Quy định Rome II năm 2007 và pháp luật nhiều nước trên thế giới.
 Tuy nhiên, sự lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên bị giới hạn. Các bên
không được lựa chọn pháp luật áp dụng trong trường hợp bên gây thiệt hại và
bên bị thiệt hại có nơi cư trú đối với cá nhân hoặc nơi thành lập đối với pháp
nhân tại cùng một nước vì pháp luật của nước đó áp dụng (khoản 2 điều 687).
Tức là, trong trường hợp này áp dụng pháp luật của nước mà các bên có nơi cư
trú chung. Quy định này dựa vào căn cứ nhân thân của các bên để xác định luật

áp dụng chứ không phải dựa trên thỏa thuận các bên. Thay đổi này xuất phát từ
việc áp dụng các hệ thống pháp luật đó (hệ thống pháp luật nơi cư trú của cá
nhân và hệ thống pháp luật nơi thành lập pháp nhân) các bên sẽ nắm bắt dễ dàng
và do đó sẽ dễ chấp nhận kết quả giải quyết của tòa án hơn.
5


Đây là điểm hoàn toàn mới so với quy định tại khoản 3 điều 773 BLDS 2005
“Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là
công dân hoặc pháp nhân Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.” bởi lẽ, nguyên tắc được các nhà làm luật Việt Nam lựa chọn để
áp dụng giải quyết là theo pháp luật quốc tích của các đương sự, cụ thể là điều
khoản này quy định về vấn đề xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với các trường hợp hành vi gây thiệt hại
xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mà chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại
đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Đối
với trường hợp gây hậu quả ngoài lãnh thổ Việt Nam trong quan hệ giữa công
dân, pháp nhân Việt Nam với nhau nguyên tắc lựa chọn pháp luật ở đây là pháp
luật quốc gia mà các chủ thể mang quốc tịch. Trong trường hợp này, áp dụng
pháp luật Việt Nam là phù hợp hơn cả vì dễ xác định các chủ thể đều là công dân
hoặc pháp nhân Việt Nam. Quy định này nhằm bảo hộ lợi ích của công dân và
pháp nhân Việt Nam, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải áp dụng
pháp luật của nước ngoài. Tuy nhiên điểm bất cập ở đây là điều 773 chỉ đề cập
đến tình huống bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại là công dân, pháp nhân Việt
Nam thì sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam nhưng nếu các bên cùng là công dân,
pháp nhân nước ngoài thì lại không có quy định tương ứng cùng nguyên tắc áp
dụng luật. Do đó, theo nội dung khoản 2 điều 687 BLDS 2015, các nguyên tắc
chọn luật theo quốc tịch của đương sự không còn được áp dụng nữa mà thay vào

đó là hệ thuộc Luật nơi cư trú. Vì thông thường yếu tố cư trú sẽ chi phối và ảnh
hưởng nhiều hơn yếu tố quốc tịch trong các quan hệ bồi thường thiệt hại, đó là lý
do pháp luật các nước thường chọn luật nơi xảy ra hành vi hoặc nơi xảy ra hậu
quả để điều chỉnh quan hệ này mà không căn cứ vào quốc tịch. Hệ thuộc luật nơi
6


cư trú còn tránh được tình trạng khó khăn trong áp dụng pháp luật khi các bên
trong quan hệ là các chủ thể khác quốc tịch. Như vậy, quy định của điều 687 có
tính bao quát và thống nhất hơn cho cả trường hợp các bên cùng là Việt Nam
hoặc cùng là nước ngoài.
2. Hệ thuộc thứ hai: áp dụng nơi phát sinh hậu quả của sự kiện thiệt hại nếu các
bên không có thỏa thuận.
“…Trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật của nước nơi phát sinh hậu
quả của sự kiện gây thiệt hại được áp dụng….” (khoản 1 điều 687)
Như vậy, theo quy định này nếu các bên không có thỏa thuận lựa chọn
pháp luật áp dụng để giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc
thỏa thuận nhưng không có sự nhất trí trong việc lựa chọn pháp luật giải quyết
thì sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại.
 Ở quy định này, BLDS năm 2015 cũng có sự thay đổi so với BLDS 2005,
đó là nếu như BLDS 2005 cho phép cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp được cân nhắc áp dụng giữa hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp luật
nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và hệ thống pháp luật nơi xảy ra hậu quả
của hành vi gây thiệt hại thì đên BLDS 2015 không còn sự lựa chọn như vậy
nữa, mà cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng một hệ thuộc luật đó là luật của
nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện thiệt hại. Đối với BLDS 2005 khi không
trùng nhau giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả thực tế gây ra thì vấn đề chọn
luật cần được xem xét. Trong trường hợp này đã xuất hiện hiện tượng xung đột
pháp luật mà trong điêù 773 chưa chỉ rõ được hệ thống pháp luật cụ thể nào sẽ
điều chỉnh. Nhà làm luật chỉ quy định chung là “xác định theo pháp luật của

nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành
vi gây thiệt hại” mà không đưa ra thứ tự ưu tiên áp dụng luật như thế nào. Do đó
7


sự thay đổi ở BLDS 2015 được đánh giá là phù hợp và tích cực, bởi nếu để cả
hai hệ thuộc luật và cho phép các cơ quan giải quyết tranh chấp được tùy tình
huống mà áp dụng hệ thống pháp luật nào mà cơ quan đó cho là phù hợp thì sẽ
nguy hiểm vì quy định như vậy dễ tạo sự tùy tiện và rất có thể sẽ vì những mục
đích khác không khách quan mà áp dụng hệ thống pháp luật có thể được xem là
có lợi hơn cho một bên. Hơn nữa đây là quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, là quan hệ mà khi phát sinh đã hàm chứa sẵn yếu tố bất đồng, mâu thuẫn.
Nên nếu để cho cơ quan giải quyết tranh chấp tự do lựa chọn luật, ngay cả khi sự
lựa chọn đó là hoàn toàn công tâm và minh bạch thì cũng rất dễ gây thắc mắc,
khiếu kiện vì nghi ngờ sự vô tư trong việc chon luật áp dụng của cơ quan giải
quyết tranh chấp. Quy định tại điều 687 BLDS 2015 đã khắc phục được những
hạn chế của điều 773 BLDS 2005 và đó là thay đổi một cách tiến bộ và chính
đáng.
 Việc pháp luật quy định áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả
của sự kiện gây thiệt hại đến giải quyết vấn đề liên quan việc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có những ý nghĩa nhất định:
 Pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại thể
hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại
không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì áp dụng nguyên tắc này là phù hợp.
 Đa số các trường hợp, việc áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu
quả của sự kiện gây thiệt hại tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của Tòa
án. Tòa án có thể dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh
về thiệt hại thực tế… đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của bên bị thiệt hại.
 Nhìn chung, nơi phát sinh hậu quả của sự kiện gây thiệt hại có mối quan
hệ gần gũi nhất đối với loại tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài

8


hợp đồng, xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi phát sinh hậu quả của
sự kiện gây thiệt hại là quy phạm thể hiện đúng bản chất của quan hệ.
 Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả của sự
kiện gây thiệt hại cũng có điểm khó khăn, đó là trong trường hợp hậu quả của sự
kiện gây thiệt hại xảy ra ở nước ngoài thì tòa án Việt Nam sẽ phải áp dụng pháp
luật nước ngoài. Ngoài ra, để có thể giải quyết vụ việc đúng thời hạn, dảm bảo
quyền và lợi ích của các bên thì cần phải có sự hợp tác tương trợ tư pháp quốc tế
giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với cơ quan hữu quan của nước
ngoài. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam theo BLDS 2015 chưa có hướng dẫn cụ thể
về trường hợp áp dụng nơi hậu quả của sự kiện thiệt hại gây ra trong trường hợp
hành vi vi phạm pháp luật ngoài hợp đồng gây ra các thiệt hại tại nhiều quốc gia
và vùng lãnh thổ khác nhau, thì thứ tự ưu tiên để chọn luật áp dụng sẽ được điều
chỉnh như thế nào ?
KẾT LUẬN
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại cho một chủ thể khác có ý nghĩa quan trong trên hai phương
diện: cá nhân và xã hội. Với ý nghĩa này pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có yếu tố nước ngoài cần phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ sâu sắc để
đưa vào áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp. Cũng như pháp luật
của các quốc gia trên thế giới, đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, với
nhiều biến động mạnh mẽ các quan hệ xã hội về cả số lượng và tính chất, pháp
luật việt nam cũng cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với những điều kiện
mới. Nhìn chung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ về
nguyên tắc xác định luật áp dụng cũng như ngoại lệ của nguyên tắc.
9




×