Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

luật môi trường quản lí chất thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.3 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng của nhiều quốc gia. Ngày nay, khi xã hội ngày
càng phát triển thì cũng là lúc mà con người càng tác động nhiều đến môi trường. Sự ô
nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ở mức độ cao hơn đang đặt ra cho
chúng ta nhiều thách thức. Cùng với phát triển kinh tế, mức sinh hoạt của người dân ngày
càng nâng cao thì lượng chất thải càng tăng nhanh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng môi trường và sức khoẻ con người. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài những ảnh
hưởng đó. Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà nước ta
đang can thiệp vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của
môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện
pháp mà nhà nước ta sử dụng trong lĩnh vực này và cũng như trong tuyệt đại đa số các lĩnh
vực khác trong đời sống, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò
ngày càng tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang
nền kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường, đặc biệt là
vấn đề về chất thải nguy hại. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin được lựa chọn đề số 36:
“Ưu điểm và hạn chế của các quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại”.
NỘI DUNG
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÍ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1. Khái niệm chất thải nguy hại
Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc
hoạt động khác. (Khoản 12, điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014).
Tại khoản 13 điều 3 Luật môi trường có nêu rõ khái niệm: “Chất thải nguy hại là chất
thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc
hoặc có đặc tính nguy hại khác.”
Tại khoản 2 điều 3 Chương I, Quyết định của thủ tướng chính phủ SỐ 155/1999/QĐ


– TTG ngày 16/7/1999 về việc ban hành quy chế quản lí chất thải nguy hại thì: “Chất thải

2


nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại
trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy
hại khác), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con
người”.
Tuy có sự khác nhau về từ ngữ nhưng cả hai định nghĩa trên đều có nội dung tương
tự nhau, đó là đều nhấn mạnh vào đặc tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe cộng
đồng của chất thải nguy hại.
Pháp luật môi trường hiện hành nghiêm cấm các hành vi xả thải các loại chất thải sau
đây:
+ Chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy
trình kĩ thuật về bảo vệ môi trường.
+ Thải chất thải chưa được xử lí đạt quy chuẩn kĩ thuật môi trường; các chất độc,
chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và khó khăn.
+ Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng
xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn môi trường.
+ Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kĩ thuật môi trường.
+ Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
2. Các quy định của pháp luật về quản lí chất thải nguy hại
2.1. Các quy định về quản lí chất thải nguy hại
Luật bảo vệ môi trường 2014 đã có quy định mới, toàn diện về quản lí chất thải, theo
đó “Chất thải phải được quản lí trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại, thu
gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy”; “chất thải thông thường có lẫn chất thải
nguy hại vượt qua ngưỡng quy định mà không thể phân loại được thì phải quản lí theo quy
định của pháp luật về chất thải nguy hại (Điều 85).
Quản lí chất thải nguy hại: Pháp luật có các quy định rất chặt chẽ và chi tiết về điều

kiện để quản lí chất thải nguy hại, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với mỗi công đoạn
của quá trình quản lí chất thải nguy hại. Cụ thể:

3


+ Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải lập hồ sơ về chất thải nguy hại và đăng kí
với cơ quan quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Tổ chức, cá nhân có đủ điều
kiện và có giấy phép mới được xử lí chất thải nguy hại. (Điều 90 Luật bảo vệ môi trường
2014).
+ Việc phân loại, thu gom, lưu giữ trước khi xử lí chất thải nguy hại phải được tiến
hành theo cách: Chủ nguồn thải chất thải nguy hại phải tổ chức phân loại, thu gom, lưu giữ
và xử lí đạt quy chuẩn kĩ thuật môi trường; trường hợp chủ nguồn thải chất thải nguy hại
không có khả năng xử lí chất thải nguy hại đạt quy chuẩn kĩ thuật môi trường phải chuyển
giao cho cơ sở có giấy phép xử lí chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại phải được lưu giữ
trong thiết bị, phương tiện chuyên dụng bảo đảm không tác động xấu đến con người và môi
trường (Điều 91 LBVMT 2014).
+ Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải bằng thiết bị, phương tiện chuyên dụng
phù hợp và được ghi trong giấy phép xử lí chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại được vận
chuyển sang nước khác phải tuân thủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên (K2 – Đ92 LBVMT 2014). Việc xử lí chất thải nguy hại phải được
tiến hành bằng phương pháp, công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc tính hóa học, lí học và
sinh học của từng loại chất thải nguy hại để đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường; trường hợp
trong nước không có công nghệ, thiết bị xử lí thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật
và hướng dẫn của cơ quan quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải
được xử lí.
+ Điều kiện của cơ sở xử lí chất thải nguyên nhân là: Địa điểm thuộc quay hoạch của
cấp có thẩm quyền phê duyệt; có khoảng cách bảo đảm để không ảnh hưởng xấu đối với
môi trường và con người; có công nghệ, phương tiện, thiết bị chuyên dụng cho việc lưu giữ
và xử lí chất thải nguy hại đạt quy chuẩn kí thuật môi trường; có công trình, biện pháp bảo

vệ môi trường; có nhân sự quản lí được cấp chứng chỉ và nhân sự kĩ thuật có trình đọ
chuyên môn phù hợp; có quy trình vận hành an toàn công nghệ, phương tiện, thiết bị
chuyên dụng; có phương án bảo vệ môi trường; có kế hoạch phục hồi môi trường sau khi

4


chấm dứt hoạt động; có báo cáo đánh giá tác động môi trường được bộ tài nguyên và môi
trường thẩm định và phê duyệt (Đ93 – LBVMT 2014).
2.2. Việc quản lí nhà nước về quản lí chất thải nguy hại
Do chất thải nguy hại thường có nguồn gốc phát sinh từ các hoạt đồng sản xuất kinh
doanh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên pháp luật môi trường cũng quy định trách nhiệm
của nhiều loại cơ quan trong việc quản lý loại chất thải này. Cụ thể trong Quyết định của
thủ tướng chính phủ số 155/1999/QĐ – TTG ngày 16/7/1999:
+ Tại điều 21: Bộ tài nguyên và môi trường thực hiện việc thống nhất quản lý nhà
nước về chất thải nguy hại trong phạm vi toàn quốc; chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các
hoạt động quản lý chất thải nguy hại.
+Tại điều 22: Bộ xây dựng có trách nhiệm Hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương trong việc quy hoạch xây dựng các khu xử lý chất thải nguy hại hợp vệ sinh,
các bãi chôn lấp chất thải nguy hại phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
+Tại điều 23: Bộ công nghiệp có trách nhiệm giám sát, kiểm tra và triển khai các
biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn thải phải tuân thủ các quy định của Quy chế này.
Trường hợp các chủ nguồn thải không có khả năng tự thực hiện được việc thu gom, xử lý,
tiêu hủy CTNH, thì yêu cầu các chủ nguồn thải phải ký hợp đồng với các chủ thu gom, vận
chuyển, xử lý, tiêu hủy CTNH.
+Tại điều 24: Bộ y tế có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và có các biện pháp hữu
hiệu buộc các bệnh viện, trạm y tế, cơ sở dịch vụ y tế tuân thủ các quy định của Quy chế.
+Tại điều 25: Bộ quốc phòng, Bộ công an có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và triển
khai thực hiện các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn thải thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ

Công an tuân thủ các quy định về quản lý chất thải nguy hại.
+Tại điều 26: Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Bộ Thương
mại là căn cứ vào kế hoạch hàng năm, kế hoạch dài hạn của các Bộ, ngành và địa phương
về quản lý CTNH, cân đối các nguồn vốn, kể cả các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để bảo

5


đảm điều kiện cần thiết cho các Bộ, ngành và địa phương thực hiện kế hoạch quản lý
CTNH.
+Tại điều 27: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Chỉ đạo Sở
Xây dựng lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng các khu lưu giữ, các cơ sở xử lý, tiêu hủy và
các bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh thuộc địa bàn quản lý của địa phương.
2.3. Một số quy định trong các văn bản pháp luật khác
Pháp luật hiện nay ở nước ta còn có một số văn bản khác quy định về vấn đề quản lí
chất thải nguy hại như:
+ Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lí chất thải nguy hại (Căn cứ vào Luật Bảo
vệ môi trường ngày 23 tháng 6 năm 2014;Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2
năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo
vệ môi trường...)
+ Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ về quản lý
chất thải và phế liệu.
+ Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
II. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
LÍ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1. Ưu điểm của các quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại
Khi định nghĩa về chất thải nguy hại thì phần mà pháp luật nước ta đề cập đến là đặc
tính gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng của chất thải nguy hại. Do đó mục
đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại chủ yếu là bảo vệ môi trường và sức khỏe của

cộng đồng. Việc đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nước
về môi trường; quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại,
pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước
giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời
pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động

6


liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất
thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe
con người cũng như môi trường sống.
Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần hạn chế các vi
phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể. Các biện chúng ta có thể kể ra là:
- Biện pháp pháp lý: với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật điểu chỉnh hành
vi xử sự của con người, pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã tác động trực tiếp đến hành
vi xử sự của các chủ thể. Đây là biện pháp đem lại hiệu quả cao nhất, thông qua đó hoạt
động quản lý chất thải nguy hại được thể chế hóa bằng pháp luật.
- Biện pháp kinh tế: Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc buộc các
chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý chất thải. Biện pháp này
thực hiện thông qua hình thức thu phí chất thải đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm
hạn chế lượng chất thải có thể phát sinh ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những
sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe con người ở mức độ cao. Đó
còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị
công nghệ thân thiện môi trường... Biện pháp kinh tế rất cần thiết và có hiệu quả phòng
ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Biện pháp khoa học công nghệ: Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến
vào việc quản lý chất thải để kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày nay. Biện pháp này
giúp hạn chế được lượng chất thải, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt để chất thải.
- Biện pháp chính trị: Đảng đưa ra vấn đề môi trường và quản lý chất thải trong

cương lĩnh của mình, từ đó thể chế hóa thành pháp luật. Biện pháp này có tác dụng định
hướng và có tính bao quát cao.
Các quy định của pháp luật về quản lí chất thải nguy hại ngày càng rõ ràng, chi tiết
và phù hợp hơn với bối cảnh hiện tại. Điều đó góp phần nâng cao trách nhiệm ý thức và tinh
thần quản lí và làm việc có hiệu quả của các tổ chức, cơ quản nhà nước có thẩm quyền liên
quan.

7


2. Hạn chếcủa các quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại
Bên cạnh những ưu điểm thì các quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại vẫn
còn tồn tại một số vấn đề bất cập gây khó khăn trong công tác quản lí chất thải nguy hại.
Sau đây là một sô hạn chế theo quan điểm của bản thân em:
+ Thứ nhất phải kể đến là hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại
của chúng ta vẫn còn chưa đầy đủ chưa hoàn thiện, thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn
việc thực hiện và nhất là thiếu các chế tài xử phạt. Quy định về lưu giữ chất thải chờ thiết bị
công nghệ không mang tính khả thi, chưa có quy định của pháp luật về phân loại các chất
thải nguy hại trong sinh hoạt. Thêm vào đó các văn bản kém ổn định làm mất hiệu quả quản
lý của các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động của người bị quản lý. Có những
văn bản mới ban hành xong, lại sửa đổi, bổ sung. Vì thế nó dễ bị chồng chéo, lặp lại và khó
thống nhất.
+ Thứ hai là việc xây dựng các tiêu chuẩn hiện nay dựa tên giả định trước rằng đã
đầy đủ cơ quan giám sát các hoạt động người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những
người vi phạm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống thanh tra môi trường ở các địa phương chưa
được hoàn thiện, chưa có đủ chuyên môn. Việc này đặt ra yêu cầu quá cao trong khi mặt
bằng chung của cả nước không đồng đều dẫn đến khó thực thi.
+ Thứ ba là các chế tài xử phạt được quy định trong các văn bản pháp luật của nước
ta về quản lý chất thải nguy hại còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm, thiếu các quy định liên
quan đến mua bán chất thải, kinh doanh chất thải và chúng ta chưa thể thể chế hóa được các

chế tài xử lí cụ thể việc vi phạm các quy định về quản lí chất thải. Người bán chất thải nguy
hại chỉ bị xử lí kỉ luật, không bị xử lí về phương diện môi trường. Người mua cũng không
bị xử lí về phương diện môi trường mà chỉ bị xử lý kỷ luật.
+ Thứ tư đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người xả chất thải
nguy hại vẫn còn quy định rất chung chung. Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm
thiểu chất thải nguy hại ngay từ nguồn nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể.
Chất thải nguy hại rất đa dạng, mỗi loại lại có những biện pháp xử lí riêng nên công việc
này khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn nữa. Phải tổ chức

8


lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải nguy hại theo chủng loại
theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an toàn kĩ thuật. Vì việc lưu giữ chất thải
nguy hại là một vấn đề khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo một quy trình kĩ thuật xử
lí phức tạp đòi hỏi phải có chi phí kinh tế lớn mà với cơ sở xả thải thì rất khó để những đối
tượng này chi ra một khoản tiền lớn như vậy. Trên thực tế thì các cơ sở này cũng khó có thể
đáp ứng được đúng các tiêu chuẩn kĩ thuật.
+ Thứ năm, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người vận chuyển
chất thải. Pháp luật quy định chỉ được vận chuyển khi có giấy phép vận chuyển chất thải
nguy hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Nhưng trên thực tế vấn đề xin cấp giấy
phép còn gặp nhiều khó khăn, phải qua nhiều khâu xem xét, thẩm định... Ngoài ra còn thiếu
quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra trong quá trình vận
chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu trách nhiệm còn chịu trách
nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ. Việc quy định về phương tiện vận chuyển
còn chung chung, chưa có quy định cụ thể về phương tiện chuyên dụng là gì.
+ Cuối cùng, đối với người xử lý chất thải nguy hại. Chỉ được thực hiện những hoạt
động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt động do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền cấp. Đây là một quy định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy phép lại gây ra
những khó khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý dễ làm ảnh hưởng đến tốc độ của

quá trình này.
Bên cạnh đó trong pháp luật còn quy định khi trong nước không có công nghệ thiết
bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải được xử lý. Nhưng trên thực tế công nghệ
khoa học kỹ thuật trong nước về kiểm định và xử lý chất thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí
để đổi mới và bổ sung các thiết bị khoa học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn
đầu tư. Vì thế nếu không có công nghệ thiết bị phù hợp với đặc tính của chất thải nguy hại
mà phải lưu giữ để chờ mua được thiết bị phải chờ đợi rất lâu.
Ngoài các vấn đề quy định về con người thì vấn đề vốn công nghệ và trình độ công
nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Về cơ bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải đặc biệt là

9


xử lí chất thải còn hạn hẹp, trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có đầu tư lớn và tập
trung. Mặc dù nguồn chi ngân sách cho bảo vệ môi trường đều tăng theo từng năm và đạt
11.400 tỷ đồng trong năm 2015, tăng 14,2% so với năm trước đó, song con số này chỉ
chiếm 1% trong tổng chi ngân sách Nhà nước.Đến năm 2016, ngân sách nhà nước bố trí chi
sự nghiệp môi trường 12.290 tỷ đồng, vẫn chỉ đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Công
nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu. Các trạm xử lí nước thải hoạt động thường xuyên là của
đơn vị đầu tư nước ngoài nhưng cũng chỉ là đối phó với cơ quan chức năng.Mặt khác, lại
thấy hầu hét các trạm xử lí chất thải đều không có các cán bộ kĩ thuật chuyên trách về môi
trường đề điều chính các thông số tối ưu trong xử lí nên hệ thống vận hành không đúng theo
hướng dẫn kĩ thuật, làm giảm tuổi thọ hệ thống…
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÍ CHẤT THẢI NGUY HẠI
+ Thứ nhất là chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
kiến thức về chất thải nguy hại và pháp luật về chất thải nguy hại để nhân dân hiểu rõ tác
hại của nó và chủ động hành động bảo vệ môi trường.
+ Thứ hai là xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể đồng thời bổ sung và thậm chí

tăng nặng mức xử phạt đối với hành vi vi phạm: Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc
chọn lựa địa điểm, thiết kế xây dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Ban hành
danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (có quy định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được
phép nhập khẩu dùng trong sản xuất công nghiệp.
Hiện nay, các mức phạt theo quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi
trường là quá nhẹ. Nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định về chất thải nguy hại và
vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao so với việc phải đầu tư trang
thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì vậy, tính răn đe của pháp luật chưa được
phát huy được hiệu lực. Do đó cần sửa đổi, bổ sung các mức xử phạt sát với thực tế nhằm
nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề này.
+ Thứ ba nên tiến hành thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm để kích thích
các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực

10


tiếp vào một số sản phẩm có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có
chì, nhà máy nhiệt điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng... Tăng cường hệ thống
thanh tra môi trường; xây dựng những khu công nghiệp tập trung nhằm giảm được chi phí
riêng biệt cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực khác
nhau. Tích cực nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ trong lĩnh vực xử
lý chất thải nguy hại.
+ Thứ tư làgiao lưu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và các quốc tế
về vấn đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp, các chính sách phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ
giúp cho các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đạt kết
quả cao hơn. Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản lý chất
thải nguy hại.
KẾT LUẬN
Chất thải nguy hại đang càng ngày càng nhiều, việc tuyên truyền và nâng cao ý thức

người dân thông qua các quy định pháp luật cũng được thực hiện ngày một tốt hơn. Dù vẫn
còn nhiều tồn tại nhưng không thể phủ định những ưu điểm mà các quy định về quản lí chất
thải nguy hại đang đạt hiệu quả khá tốt, đó là một dấu hiệu đáng mừng. Mỗi người chúng ta
cần chung tay bảo vệ môi trường và bảo vệ chính cuộc sống của mình bằng cách chấp hành
đúng quy định của pháp luật về quản lí chất thải nói chung và chất thải nguy hại nói riêng.
Hãy ý thức hơn, để Việt Nam của chúng ta trở nên ngày càng xanh – sạch – đẹp, để Trái đất
trở lại thành hành tinh xanh như cái tên của nó.
Bài làm của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật môi trường, Trường đại học Luật Hà Nội
2. Luật Bảo vệ Môi trường 2014, Nxb. Lao Động
3. Thông tư 36/2015/TT-BTNMT
4. Quyết định của thủ tướng chính phủ số 155/1999/QĐ – TTG ngày 16/7/1999
5. Báo dân trí:
/>6. Trang web:
/>
12



×