Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

3 tiểu luận lựa chọn phong trào có thật, phân tích sự hình thành và phát triển của phong trào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.66 KB, 14 trang )

Họ và tên:
Lớp:
Trường Đại học
BÀI KIỂM TRA MÔN: TỔ CHỨC VÀ PHONG TRÀO XÃ HỘI
***
Đề bài: Phân tích, so sánh làm rõ sự giống và khác nhau giữa tổ chức chính trị xã hội và tổ chức xã hội mà em biết? Lựa chọn phong trào có thật, phân tích sự hình
thành và phát triển của phong trào Việt Nam?
Bài làm:
1.
Phân tích, so sánh làm rõ sự giống và khác nhau giữa tổ chức chính
trị - xã hội và tổ chức xã hội mà em biết.
1.1.

Tổ chức xã hội

Khái niệm: Tổ chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động
được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước, nhân danh
tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của các thành viên.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà
nước mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân. Là một bộ phận của
hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội
rất đa dạng về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Ðảng cộng Sản Việt Nam, Ðoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt nam, Trọng tài kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội Luật gia...
Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chổ dựa của nhà nước nhằm tuyên
truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có
những đặc điểm phân biệt với các cơ quan nhà nước.
Đặc điểm của tổ chức xã hội: Mỗi tổ chức xã hội đều có những hoạt động mang


tính chất đặc thù, phản ánh vị trí, vai trò của nó trong hệ thống chính trị. Tuy vậy, các
tổ chức xã hội cũng có những đặc điểm chung nhất định, đó là căn cứ để phân biệt các
tổ chức xã hội với các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Ðó là các đặc điểm sau:
1.1.

Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động vì
những mục đích nhất định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành viên
của mình dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ...


+ Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc nhân dân được quyền tự do
lựa chọn và quyết định tham gia hay không tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó.
Không ai có quyền ép buộc một người nào đó phải tham gia hay không được tham gia
vào các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa
với tự do vô tổ chức mà mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối
với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội đó.
+ Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai trừ các thành viên
của tổ chức hoàn toàn do tổ chức xã hội và những thành viên của tổ chức đó quyết
định chứ nhà nước không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để
chi phối hoạt động đó.
1.2.

Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu hiệu,
đặc điểm. Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ những lợi
ích chính đáng của họ.
Ví dụ: Cùng chung một mục đích như Ðảng Cộng sản Việt Nam;
Cùng chung một giai cấp như Hội Nông dân Việt Nam;
Cùng chung một nghề nghiệp như Hội Luật Gia;
Cùng chung một giới tính như Hội Phụ nữ...


3. Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nhân
danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường hợp
đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước.
Quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình,
không có hiệu lực đối với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do qui
định của pháp luật.
4. Các tổ chức xã hội có thể là chủ thể của quản lý nhà nước nhưng không phải
là chủ thể mặc nhiên.
+ Các tổ chức xã hội khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước không
được quyền nhân danh nhà nước nếu không được pháp luật quy định vì tổ chức xã hội
không phải là một thành phần trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ thừa nhận
và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ
pháp lý cho các tổ chức xã hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức
xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không nhân danh nhà nước, không sử dụng quyền
lực nhà nước.
+ Tuy nhiên, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, nhà nước trao
quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các tổ chức này được thay mặt nhà nước quản
lý một số công việc nhất định, lúc này tổ chức xã hội mới được phép nhân danh nhà
nước sử dụng quyền lực nhà nước, các quyết định do tổ chức xã hội đưa ra mới mang


tính chất quyền lực nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với những đối tượng có liên
quan.
Ví dụ: tổ chức Công đoàn được nhà nước cho phép thực hiện hoạt động
kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động, hợp đồng lao động, chế độ tuyển
dụng, cho thôi việc, tiền lương...
5. Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành viên
trong tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.
+ Phần lớn các tổ chức xã hội đều có điều lệ hoạt động như Ðảng Cộng sản Việt
Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội

liên hiệp Phụ nữ Việt Nam...điều lệ đó được các thành viên trong tổ chức soạn thảo,
được nhà nước phê chuẩn, thừa nhận một cách chính thức. Tuy nhiên, có một số tổ
chức xã hội không có điều lệ hoạt động riêng mà hoạt động theo quy định của nhà
nước như Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải. Ngoài ra, có một số tổ chức vừa hoạt
động theo điều lệ, vừa hoạt động theo quy định của pháp luật như tổ chức Công đoàn.
+ Cho dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước
thì những hoạt động nội bộ của các tổ chức xã hội vẫn mang tính chất tự quản. Nhà
nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức này cũng như
không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp người lao động hay cách chức người
lao động trong tổ chức xã hội đó.
6. Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là nguyên tắc “ quyền lực – phục tùng” như trong các cơ quan
nhà nước.
+ Trong quá trình hoạt động, tổ chức xã hội tự xử lý và giải quyết các công việc
nội bộ của tổ chức mình. Nhà nước sẽ không can thiệp vào nếu hoạt động của các tổ
chức xã hội không trái pháp luật.
+ Hoạt động của chúng trên nguyên tắc giáo dục thuyết phục và các biện pháp
tác động xã hội, chứ không mang tính cưỡng chế nhà nước. Các tổ chức xã hội có thể
áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo, khiển trách, cách chức, khai trừ ra khỏi tổ
chức đối với những thành viên vi phạm điều lệ. Các tổ chức xã hội không được quyền
sử dụng quyền lực nhà nước để truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với thành viên của tổ
chức mình.
7. Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức pháp luật
cho các thành viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng thời, hoạt động của
các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các thành viên trong tổ chức. Khi có những hành vi xâm hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên trong tổ chức hay những người lao động khác thì các tổ chức
xã hội có thể tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó,



đồng thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục lại những
lợi ích mà các thành viên trong tổ chức hay người lao động đã bị xâm hại.
Ngoài ra, cũng có một số tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động nhằm thỏa
mãn các nhu cầu về văn hóa- xã hội của các thành viên hoặc để tăng gia sản xuất. Các
tổ chức xã hội cũng có thể làm kinh tế từ những hoạt động văn hóa thể thao, kinh
doanh nhưng đây không phải là mục đích hoạt động chính của các tổ chức này.
1.3.

Các loại tổ chức chính trị xã hội

Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ chức xã hội được chia
thành các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức tự quản, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
và các tổ chức quần chúng.
Ðây là các tổ chức tự nguyện được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến cơ sở. Các tổ chức xã hội này có
điều lệ hoạt động do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua.
Bao gồm các tổ chức như: Ðảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh tính
riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta trong mối liên hệ
so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế giới. So với hệ thống chính trị
trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã
hội trong một hệ thống chung là hệ thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên
hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã
hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về
chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao
đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc
của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn
của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp

hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày
càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản
lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó.
Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt
hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành
viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các
tổ chức xã hội.
1.4.

Ðảng Cộng sản Việt Nam


Là một tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chính trị, có cương lĩnh, đường
lối và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo nhà nước
và xã hội, là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Các đường lối, chủ trương chính sách của Ðảng là kim chỉ nam cho hoạt động
nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách của Ðảng thể chế hoá thành pháp luật. Tuy lãnh
đạo hệ thống chính trị, nhưng Ðảng không can thiệp trực tiếp vào công việc nhà nước,
mà định ra phương hướng hoạt động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của mình
trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
b. Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập theo cơ chế bầu cử dân chủ được
phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc.
Thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam gồm các tổ chức: Ðảng Cộng sản
Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam. Các tổ chức này có cơ cấu
hoàn chỉnh và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Hoạt động của chúng

ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định quản lý nhà nước.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập nhằm phát huy truyền thống đoàn kết
toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị đối với nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân.
c. Công đoàn
¨ Khái niệm và các chức năng chính
Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, đại diện
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
+ Có trách nhiệm tham gia với nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc
làm, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
+ Thực hiện chức năng động viên người lao động thực hiện nghĩa vụ công dân.
+ Kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc thực
hiện pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội.
¨ Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu, công đoàn có tổ chức chặt chẽ và được phân cấp để hoạt động trong
phạm vi toàn quốc. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ quan lãnh
đạo cao nhất của mỗi cấp là Ðại hội công đoàn cấp đó. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan
lãnh đạo là Ban chấp hành công đoàn do đại hội bầu ra.


Công đoàn Việt Nam tổ chức theo ngành nghề và địa phương gồm bốn cấp cơ
bản:
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam;
- Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành
nghề toàn quốc;
- Công đoàn ngành nghề địa phương, Liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và cấp tương đương;
- Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn.
d. Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Là tổ chức xã hội của thanh niên được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào
những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với
thanh niên.
Ðoàn thanh niên cũng là nơi đào tạo ra các viên chức, cán bộ có phẩm chất
trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức vụ trọng trách trong các tổ chức chính trị
xã hội, ví dụ như Ðảng, công đoàn.
Các tổ chức của Ðoàn thanh niên hình thành trên phạm vi cả nước, có mặt ở
hầu hết tất cả các tổ chức, cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương.
e. Hội liên hiệp Phụ nữ
Là tổ chức xã hội rộng lớn của giới nữ nhằm động viên thu hút các tầng lớp phụ
nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, tham gia giải quyết các công việc của nhà nước.
Mặt khác, Hội phụ nữ còn là tổ chức đại diện cho tất cả các phụ nữ Việt nam bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng
nam nữ.
g. Hội liên hiệp nông dân Việt Nam
Là một tổ chức đại diện của giai cấp nông dân Việt Nam, được thành lập nhằm
động viện, tổ chức nông dân lao động trong cả nước hăng hái tham gia sản xuất, giáo
dục tinh thần yêu nước. Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt Nam- một bộ phân
dân cư lớn nhất ở nước ta.
Ngoài ra, nước ta còn có các cơ quan xã hội được hình thành theo sáng kiến
của nhà nước và không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của nhà nước.
Ví dụ: Uỷ ban đoàn kết á-Phi, Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt nam...
1.5.

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp:


Là loại hình tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến thành lập được hình thành

theo quy định của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt
dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội
nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ
của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà
nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.
Tổ chức xã hội nghề nghiệp bao gồm: Ðoàn Luật sư, Trọng tài kinh tế,
1.6.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam

Trọng tài kinh tế: Là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của
công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu, việc thành lập, giải thể công ty.
b. Ðoàn Luật sư:
Là hội nghề nghiệp của các luật sư được thành lập nhằm mục đích tập hợp,
hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi cho các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp
và nâng cao hiệu quả hành nghề của các luật sư thành viên. Ðoàn luật sư có tư cách
pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng
góp và bằng các nguồn thu hợp pháp khác.
c. Các tổ chức kinh tế tự nguyện: (theo tính chất sản xuất)
Là những tổ chức hình thành nhằm thu hút người lao động vào việc giải quyết
các nhiệm vụ sản xuất. Ðó là các hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp.
1.7.

Các tổ chức tự quản

Là các tổ chức của nhân dân lao động được thành lập theo sáng kiến của nhà
nước, hoạt động theo quy định của nhà nước. Các tổ chức này được thành lập theo
nguyên tắc tự quản trong một phạm vi nhất định đối với các công việc mà nhà nước

không trực tiếp quản lý.
Các tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, giữa các tổ chức cùng loại không có mối quan hệ đoàn thể.
Hoạt động của tổ chức tự quản được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của các cơ quan nhà
nước hữu quan.
1.8.

Các hội quần chúng

Là các tổ chức xã hội được thành lập theo những dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích
hoặc các dấu hiệu khác như: kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật, thể thao và quốc
phòng.


Ðiều lệ hoạt động của hội quần chúng do các tổ chức dự thảo và quyết định, khi
đăng ký thành lập hội phải báo cáo điều lệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép thành lập để các cơ quan này chuẩn y.


So sánh cụ thể Đoàn Thanh niên và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam
STT

Tiêu chí

Đoàn Thanh niên

1

Giống nhau


1

Khái niệm

Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh (Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh) là tổ chức chính trị
- xã hội của thanh niên Việt
Nam, do Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện.

2

Chức năng

Đoàn là trường học xã hội
chủ nghĩa của thanh niên Việt
Nam; tạo môi trường đưa
thanh niên vào các hoạt động
giúp họ rèn luyện và phát triển
nhân cách, năng lực của người
lao động mới phù hợp với yêu
cầu của xã hội hiện nay.

3

Nhiệm vụ


Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
là thành viên trong hệ thống
chính trị, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

-

Hội Liên hiệp Thanh niên

Là một tổ chức có đầy đủ các đặc điểm của tổ chức độc lập.
Hướng tới mục đích phát triển xã hội.
Đều là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hội Liên hiệp Thanh niên
(LHTN) Việt Nam là tổ chức
xã hội rộng rãi của thanh niên
và các tổ chức thanh niên Việt
Nam yêu nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh và lý tưởng của
Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hội LHTN Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam.

Tập hợp, đoàn kết, giáo
dục mọi tầng lớp thanh niên
Việt Nam. Hướng dẫn và tạo

điều kiện để hội viên hoàn
thiện nhân cách, trở thành
công dân tốt, cống hiến tài
năng sức trẻ vào sự nghiệp
Đoàn là người đại diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
chăm lo và bảo vệ quyền lợi
Đại diện, bảo vệ lợi ích
của tuổi trẻ. Chức năng này
khẳng định rõ tổ chức Đoàn hợp pháp của hội viên và tổ
TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chức thành niên trước pháp
của thanh niên, vì thanh niên. luật và công luận.

Đoàn kết, tập hợp các lực
lượng thanh niên Việt Nam
trong và ngoài nước cống hiến
tài năng, sức trẻ cho mục tiêu
chung, khuyến khích hội viên


Trong hệ thống chính trị, và thanh niên tham gia tích
Đảng Cộng sản Việt Nam là cực vào hoạt động ích nước,
người lãnh đạo, Đoàn là một
lợi nhà, hướng thiện.
trong các tổ chức thành viên.
Đối với Đảng: Đoàn
hoạt động dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng, là đội dự
bị tin cậy của Đảng, nguồn
cung cấp cán bộ theo yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của Đảng.

-

Đối với Nhà nước:
Đoàn là chỗ dựa vững chắc
của Nhà nước trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đoàn phối hợp
với các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể và các tổ chức xã hội
chăm lo giáo dục, đào tạo và
bảo vệ thanh thiếu nhi.

- Tổ chức các hoạt động thiết
thực, góp phần giải quyết và
đáp ứng những nhu cầu chính
đáng của hội viên, thanh niên.
- Kêu gọi và kiến nghị kịp
thời với các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội cùng
chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của hội viên và các tổ
chức
thành
viên.
- Đoàn kết hợp tác với tổ chức
thanh niên trong khu vực và
trên thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ
xã hội vì cuộc sống văn minh,

hạnh phúc của tuổi trẻ.

Đối với các tổ chức
xã hội của thanh niên và
phong trào thanh niên: Đoàn
giữ vai trò làm nòng cốt chính
trị trong việc xây dựng tổ chức
và hoạt động của Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam,
Hội Sinh viên Việt Nam và - Thường xuyên chăm lo xây
các thành viên khác của Hội.
dựng Hội, mở rộng mặt trận
Đối với Đội Thiếu đoàn kết tập hợp thanh niên,
niên Tiền phong Hồ Chí Minh: tích cực tham gia xây dựng
Đoàn giữ vai trò là người phụ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
trách xây dựng tổ chức Đội,
lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác thiếu nhi;
tạo điều kiện về cơ sở vật chất
và tài chính cho hoạt động của
Đội.

4

Hội LHTN Việt Nam được
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Hệ thống tổ
được tổ chức theo hệ thống tổ chức ở:
chức

- Trung ương.
bốn cấp như sau:
- Tỉnh, thành phố trực
Trung ương Đoàn.
thuộc Trung ương và tương
Tỉnh đoàn và tương đương. đương.


- Huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương
Tổ chức cơ sở Đoàn gồm: đương.
Đoàn cơ sở và chi đoàn cơ
- Xã, phường, thị trấn và
sở.
tương đương.
Huyện và tương đương.

Tổ chức cơ sở của Hội bao
gồm các chi hội, câu lạc bộ,
đội, nhóm và các hình thức
tập hợp thanh niên được Uỷ
ban Hội các cấp thành lập
theo địa bàn dân cư, trong
trường học, cơ quan, doanh
nghiệp; nghề nghiệp; sở thích
và các nhu cầu chính đáng
khác của thanh niên.
Uỷ ban Hội các cấp được
thành lập tổ chức cơ sở.


5

Hội LHTN Việt Nam tổ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
Nguyên tắc
chức
và hoạt động theo
tổ chức và được tổ chức và hoạt động nguyên tắc:
theo nguyên tắc tập trung dân
hoạt động
- Tự nguyện, tự quản.
chủ.
- Hiệp thương dân chủ.
- Đoàn kết tôn trọng lẫn
nhau.
- Hợp tác bình đẳng, phối
hợp và thống nhất hành động.


2.
Lựa chọn phong trào xã hội có thật, phân tích sự hình thành và phát
triển của phong trào xã hội ở Việt Nam:

Phong trào Thanh niên tình nguyện Thủ đô – Ba Sẵn sàng
Khởi xướng phong trào “Ba sẵng sàng”
Tháng 8/1964, sau sự kiện đế quốc Mỹ gây hấn vịnh Bắc Bộ, chuẩn bị đợt
chiến tranh không quân đánh phá miền Bắc, tuổi trẻ Hà Nội sục sôi một ý chí chiến
đấu chống ngoại xâm, được xông pha giết giặc lập công. Chống Mỹ cứu nước đã trở
thành nguyện vọng thiết tha, khát vọng cháy bỏng của thanh niên Hà Nội lúc bầy giờ.
Tối ngày 7/8/1964, tại phòng họp trụ sở cơ quan Thành Đoàn Hà Nội , số 42

Lý Thái Tổ (nay là trụ sở Thành ủy Hà Nội), BTV Thành Đoàn Hà Nội đã họp bất
thường và thống nhất phát động phong trào “Ba sẵn sàng” với 3 nội dung: Sẵn sàng
chiến đấu, chiến đấu dũng cảm; Sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang; Sẵn sàng đi
bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến.
Thủ đô Hà Nội có vinh dự là nơi khởi nguồn cho phong trào thanh niên “Ba
sẵn sàng”, một phong trào hành động cách mạng, một trường học rèn luyện của thanh
niên miền Bắc trong thời kỳ chống Mỹ. Từ ngày khởi đầu, phong trào “Ba sẵn sàng”
đã sớm trở thành một phong trào cách mạng rộng lớn, thu hút hàng chục vạn thanh
niên Thủ đô và 22 tỉnh, thành miền Bắc đã hướng tất cả tình cảm, suy nghĩ và hành
động của mình vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Tháng 3/1965, Ban Chấp hành
Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã chính thức kêu gọi thanh niên cả
nước hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng” của tuổi trẻ Thủ đô và bổ sung thêm vào
nội dung của phong trào:
- Sẵn sàng chiến đấu, gia nhập lực lượng vũ trang
- Sẵn sàng học tập, lao động xây dựng cuộc sống mới
- Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc yêu cầu
Tháng 5/1965, Đoàn Thanh niên các cơ quan Trung ương đã tổ chức Đại hội sơ
kết phong trào “Ba sẵn sàng”, cuộc họp đó đã vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tham dự và động viên. Đánh giá cao phong trào “Ba sẵn
sàng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi “Các cháu là thế hệ anh hùng của thời đại
anh hùng”. Bác khẳng định “Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng
ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Vì vậy Bác rất tự hào, sung sướng như thấy mình trẻ lại, thấy tương lai
của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”.


Phong trào “Ba sẵn sàng” đã thắp sáng ngọn lửa hào hùng, khơi dậy và cổ vũ
phong trao cách mạng cho lớp lớp thanh niên miền Bắc náo nức “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, gợi mở phong trào “Phụ nữ ba đảm đang” và phong trào “Năm xung
phong” của tuổi trẻ Miền Nam .

“Ba sẵn sàng” ở miền Bắc cùng với “Năm xung phong” ở miền Nam hoàn
thành bản anh hùng ca tuổi trẻ Việt Nam đánh Mỹ, cổ vũ mọi tầng lớp thanh niên đoàn
kết và chiến đấu dưới khẩu hiệu “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ cứu nước”.
Sức sống của phong trào tập trung vào 3 vấn đề chính, đó là: Giá trị lịch sử và
ý nghĩa thời đại cũng như ý nghĩa giáo dục của phong trào “Ba sẵn sàng” đối với thế
hệ trẻ đã nêu bật những đóng góp to lớn, những cống hiến hy sinh, bản lĩnh trí tuệ của
lớp lớp thanh niên thế hệ “Ba sẵn sàng”; khẳng định tính đúng đắn và sức sống của
phong trào “Ba sẵn sàng” có sức lan tỏa và gợi mở cho phong trào cách mạng gắn với
nhiệm vụ của tuổi trẻ hiện nay từ đó tạo động lực ý chí phấn đấu và cơ hội phấn đấu
cống hiến của thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tiếp lửa
truyền thống “Ba sẵn sàng” tiếp tục được khẳng định sứ mệnh lịch sử của tuổi trẻ nói
chung và của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội nói riêng xung kích, tình
nguyện xây dựng, bảo vệ Thủ đô và đất nước. Đồng thời, khẳng định tầm quan trọng
và ý nghĩa lịch sử cũng như những đóng góp to lớn của phong trào “Ba sẵn sàng”
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một trong những phong trào có sức san
tỏa mạnh mẽ nhất, hiệu triệu lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược thể hiện sáng ngời ý chí quyết tâm, lý tưởng cao đẹp thanh
niên thời bấy giờ. Với ý nghĩa lịch sử thời đại của phong trào “Ba sẵn sàng” đã khẳng
định dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng, dân tộc Việt Nam là dân tộc kiên cường,
khi có những sự cố, kẻ thù đến xâm lăng thì dân tộc Việt Nam vùng lên chiến đấu.
Trong đó, thanh niên luôn là lực lượng xung kích đi đầu.
“Ba sẵn sàng” thực sự là dấu son trong lịch sử chiến đấu vẻ vang của thanh
niên Hà Nội và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với những đóng góp to lớn và hy sinh cống
hiến của một “thế hệ vàng” cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ Tổ quốc.
Phong trào đã vẫn luôn bừng sáng trong trái tim của thế hệ thanh niên hôm nay, “Ba
sẵn sàng” vẫn còn nguyên giá trị của thời đại. Phong trào đã góp phần quan trọng
trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng thế hệ trẻ để kế thừa và tiếp bước các
thế cha anh trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Thủ đô và đất nước.
Giá trị của phong trào “Ba sẵng sàng” và phong trào “Năm xung phong” đã huy
động động đông đảo thanh niên tham gia nhập ngũ, thanh niên xung phong tham gia

phục vụ các chiến trường và thanh niên ở các địa phương tích cực tham gia lao động
sản xuất chi viện cho chiến trường Miền Nam, thôi thúc thanh niên đóng góp công
hiến sức trẻ cho đất nước mà không hề đòi hỏi gì cho mình.


“Hai phong trào “Ba sẵng sàng” và “Năm xung phong” đã trở thành những
phong trào chủ đạo của Thanh niên trong chống Mỹ cứu nước, góp phần đánh thắng đế
quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Chiến thắng của dân tộc là có sự đóng góp không nhỏ
của thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ”
Từ “Ba sẵng sàng” đến phong trào thanh niên tình nguyện thủ đô hôm nay
Phát huy truyền thống “Ba sẵn sàng” năm xưa, Thành đoàn Hà Nội đã chính
thức phát động phong trào “Thanh niên Hà Nội xung phong tình nguyện xây dựng Thủ
đô và đất nước” nay là phong trào Thanh niên tình nguyện đã đánh dấu một mốc son
trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Thủ đô, xác định một hướng đi mới
có hiệu quả trong việc thu hút tập hợp thanh niên, học sinh, sinh viên.
Phong trào “Thanh niên tình nguyện” Thủ đô được gắn liền với hình ảnh màu
áo xanh tình nguyện, với những gương mặt ngời sáng của thanh niên có mặt mọi nơi
trên dải đất Việt Nam, từ những tỉnh biên giới xa xôi, còn nhiều khó khăn nơi địa đầu
Tổ quốc đến con đường Hồ Chí Minh huyền thoại; trên những công trường, nhà máy,
trường học, cánh đồng hay những công việc thầm lặng bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội.
Phong trào Thanh niên tình nguyện đã thực sự là cơ hội để tuổi trẻ Thủ đô
khẳng định sức mình ở những nơi, lĩnh vực đòi hỏi sự hi sinh, gian khổ, sự nỗ lực sáng
tạo không ngừng.
Và đến nay, hình ảnh màu áo xanh thanh niên tình nguyện ở bất kỳ nơi đâu
cũng đã thực sự trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Việt Nam, màu áo xanh ấy đã và
đang phát huy vai trò xung kích tình nguyện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phong trào thanh niên tình nguyện hôm nay chính là hình ảnh, là dáng dấp của
các phong trào: “Ba sẵng sàng” và “Năm xung phong” năm xưa, phong trào là sự kế
thừa của các phong trào đi trước, do đó cần phải rút ra được những bài học kinh

nghiệm để tổ chức có hiệu quả phong trào thanh niên tình nguyện hôm nay.
Phong trào “Thanh niên tình nguyện” phải được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, của nhiệm vụ đất nước; phải khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần xung kích, tình
nguyện của thanh niên và qua đó cần nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của thanh
niên để có được những giải pháp hiệu quả, phù hợp cho phong trào thanh niên tình
nguyện nói riêng, công tác Đoàn và phong trào TTN cả nước nói chung, để qua đó làm
nổi bật phong trào “Ba sẵn sàng” với khẩu hiệu “Đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì
khi Tổ quốc cần”.
Có thể nói “Ba sẵn sàng” đã đi vào lịch sử như một thiên anh hùng ca của tuổi
trẻ, là nền tảng để phong trào “Thanh niên tình nguyện” tiếp bước gánh vác sứ mệnh
lịch sử của thanh niên trong thời đại mới.



×