Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

8 tiểu luận sự giống và khác nhau giữa tổ chức chính trị xã hội và tổ chức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.24 KB, 23 trang )

Họ và tên: ………..
Lớp: ……………..
Trường Đại học ……………………..
TIỂU LUẬN

Đề bài: Phân tích, so sánh làm rõ sự giống và khác nhau giữa tổ chức chính trị xã hội và tổ chức xã hội mà em biết? Lựa chọn phong trào có thật, phân tích sự hình
thành và phát triển của phong trào Việt Nam?
Bài làm:
1.
Phân tích, so sánh làm rõ sự giống và khác nhau giữa tổ chức chính
trị - xã hội và tổ chức xã hội mà em biết.
1.1.

Tổ chức xã hội

Khái niệm: Tổ chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động
được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước, nhân danh
tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của các thành viên.
Hoạt động quản lý nhà nước được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà
nước mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã hội và cá nhân. Là một bộ phận của
hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội
rất đa dạng về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Ðảng cộng Sản Việt Nam, Ðoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt nam, Trọng tài kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội Luật gia...
Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chổ dựa của nhà nước nhằm tuyên
truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có
những đặc điểm phân biệt với các cơ quan nhà nước.
Đặc điểm của tổ chức xã hội: Mỗi tổ chức xã hội đều có những hoạt động mang


tính chất đặc thù, phản ánh vị trí, vai trò của nó trong hệ thống chính trị. Tuy vậy, các
tổ chức xã hội cũng có những đặc điểm chung nhất định, đó là căn cứ để phân biệt các
tổ chức xã hội với các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Ðó là các đặc điểm sau:
1. Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động vì
những mục đích nhất định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành viên của mình
dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ...


+ Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc nhân dân được quyền tự do
lựa chọn và quyết định tham gia hay không tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó.
Không ai có quyền ép buộc một người nào đó phải tham gia hay không được tham gia
vào các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa
với tự do vô tổ chức mà mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối
với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội đó.
+ Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai trừ các thành viên
của tổ chức hoàn toàn do tổ chức xã hội và những thành viên của tổ chức đó quyết
định chứ nhà nước không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để
chi phối hoạt động đó.
2. Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu hiệu,
đặc điểm. Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ những lợi ích
chính đáng của họ.
Ví dụ: Cùng chung một mục đích như Ðảng Cộng sản Việt Nam;
Cùng chung một giai cấp như Hội Nông dân Việt Nam;
Cùng chung một nghề nghiệp như Hội Luật Gia;
Cùng chung một giới tính như Hội Phụ nữ...
3. Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nhân
danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường hợp
đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước.
Quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình,
không có hiệu lực đối với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do qui

định của pháp luật.
4. Các tổ chức xã hội có thể là chủ thể của quản lý nhà nước nhưng không phải
là chủ thể mặc nhiên.
+ Các tổ chức xã hội khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước không
được quyền nhân danh nhà nước nếu không được pháp luật quy định vì tổ chức xã hội
không phải là một thành phần trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ thừa nhận
và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ
pháp lý cho các tổ chức xã hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức
xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không nhân danh nhà nước, không sử dụng quyền
lực nhà nước.
+ Tuy nhiên, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, nhà nước trao
quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các tổ chức này được thay mặt nhà nước quản
lý một số công việc nhất định, lúc này tổ chức xã hội mới được phép nhân danh nhà
nước sử dụng quyền lực nhà nước, các quyết định do tổ chức xã hội đưa ra mới mang


tính chất quyền lực nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với những đối tượng có liên
quan.
Ví dụ: tổ chức Công đoàn được nhà nước cho phép thực hiện hoạt động
kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động, hợp đồng lao động, chế độ tuyển
dụng, cho thôi việc, tiền lương...
5. Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành viên
trong tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.
+ Phần lớn các tổ chức xã hội đều có điều lệ hoạt động như Ðảng Cộng sản Việt
Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
liên hiệp Phụ nữ Việt Nam...điều lệ đó được các thành viên trong tổ chức soạn thảo,
được nhà nước phê chuẩn, thừa nhận một cách chính thức. Tuy nhiên, có một số tổ
chức xã hội không có điều lệ hoạt động riêng mà hoạt động theo quy định của nhà
nước như Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải. Ngoài ra, có một số tổ chức vừa hoạt
động theo điều lệ, vừa hoạt động theo quy định của pháp luật như tổ chức Công đoàn.

+ Cho dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước
thì những hoạt động nội bộ của các tổ chức xã hội vẫn mang tính chất tự quản. Nhà
nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức này cũng như
không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp người lao động hay cách chức người
lao động trong tổ chức xã hội đó.
6. Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là nguyên tắc " quyền lực - phục tùng" như trong các cơ quan
nhà nước.
+ Trong quá trình hoạt động, tổ chức xã hội tự xử lý và giải quyết các công việc
nội bộ của tổ chức mình. Nhà nước sẽ không can thiệp vào nếu hoạt động của các tổ
chức xã hội không trái pháp luật.
+ Hoạt động của chúng trên nguyên tắc giáo dục thuyết phục và các biện pháp
tác động xã hội, chứ không mang tính cưỡng chế nhà nước. Các tổ chức xã hội có thể
áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo, khiển trách, cách chức, khai trừ ra khỏi tổ
chức đối với những thành viên vi phạm điều lệ. Các tổ chức xã hội không được quyền
sử dụng quyền lực nhà nước để truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với thành viên của tổ
chức mình.
7. Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức pháp luật
cho các thành viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng thời, hoạt động của
các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
các thành viên trong tổ chức. Khi có những hành vi xâm hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên trong tổ chức hay những người lao động khác thì các tổ chức
xã hội có thể tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó,


đồng thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục lại những
lợi ích mà các thành viên trong tổ chức hay người lao động đã bị xâm hại.
Ngoài ra, cũng có một số tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động nhằm thỏa
mãn các nhu cầu về văn hóa- xã hội của các thành viên hoặc để tăng gia sản xuất. Các
tổ chức xã hội cũng có thể làm kinh tế từ những hoạt động văn hóa thể thao, kinh

doanh nhưng đây không phải là mục đích hoạt động chính của các tổ chức này.
1.1.

Các loại tổ chức chính trị xã hội

Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ chức xã hội được chia
thành các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức tự quản, các tổ chức xã hội nghề nghiệp
và các tổ chức quần chúng.
Ðây là các tổ chức tự nguyện được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến cơ sở. Các tổ chức xã hội này có
điều lệ hoạt động do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua.
Bao gồm các tổ chức như: Ðảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh tính
riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta trong mối liên hệ
so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế giới. So với hệ thống chính trị
trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã
hội trong một hệ thống chung là hệ thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên
hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã
hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về
chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao
đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).
Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc
của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn
của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp
hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày
càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản
lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó.

Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt
hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành
viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các
tổ chức xã hội.
a. Ðảng Cộng sản Việt Nam


Là một tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chính trị, có cương lĩnh, đường
lối và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo nhà nước
và xã hội, là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Các đường lối, chủ trương chính sách của Ðảng là kim chỉ nam cho hoạt động
nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách của Ðảng thể chế hoá thành pháp luật. Tuy lãnh
đạo hệ thống chính trị, nhưng Ðảng không can thiệp trực tiếp vào công việc nhà nước,
mà định ra phương hướng hoạt động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của mình
trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
b. Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập theo cơ chế bầu cử dân chủ được
phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc.
Thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam gồm các tổ chức: Ðảng Cộng sản
Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam. Các tổ chức này có cơ cấu
hoàn chỉnh và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Hoạt động của chúng
ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định quản lý nhà nước.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập nhằm phát huy truyền thống đoàn kết
toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị đối với nhân dân, tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền nhân dân.
c. Công đoàn
¨ Khái niệm và các chức năng chính
Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, đại diện

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
+ Có trách nhiệm tham gia với nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc
làm, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
+ Thực hiện chức năng động viên người lao động thực hiện nghĩa vụ công dân.
+ Kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc thực
hiện pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội.
¨ Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu, công đoàn có tổ chức chặt chẽ và được phân cấp để hoạt động trong
phạm vi toàn quốc. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ quan lãnh
đạo cao nhất của mỗi cấp là Ðại hội công đoàn cấp đó. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan
lãnh đạo là Ban chấp hành công đoàn do đại hội bầu ra.


Công đoàn Việt Nam tổ chức theo ngành nghề và địa phương gồm bốn cấp cơ
bản:
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam;
- Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành
nghề toàn quốc;
- Công đoàn ngành nghề địa phương, Liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và cấp tương đương;
- Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn.
d. Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Là tổ chức xã hội của thanh niên được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào
những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với
thanh niên.
Ðoàn thanh niên cũng là nơi đào tạo ra các viên chức, cán bộ có phẩm chất
trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức vụ trọng trách trong các tổ chức chính trị
xã hội, ví dụ như Ðảng, công đoàn.
Các tổ chức của Ðoàn thanh niên hình thành trên phạm vi cả nước, có mặt ở

hầu hết tất cả các tổ chức, cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương.
e. Hội liên hiệp Phụ nữ
Là tổ chức xã hội rộng lớn của giới nữ nhằm động viên thu hút các tầng lớp phụ
nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, tham gia giải quyết các công việc của nhà nước.
Mặt khác, Hội phụ nữ còn là tổ chức đại diện cho tất cả các phụ nữ Việt nam bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng
nam nữ.
g. Hội liên hiệp nông dân Việt Nam
Là một tổ chức đại diện của giai cấp nông dân Việt Nam, được thành lập nhằm
động viện, tổ chức nông dân lao động trong cả nước hăng hái tham gia sản xuất, giáo
dục tinh thần yêu nước. Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt Nam- một bộ phân
dân cư lớn nhất ở nước ta.
Ngoài ra, nước ta còn có các cơ quan xã hội được hình thành theo sáng kiến
của nhà nước và không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của nhà nước.
Ví dụ: Uỷ ban đoàn kết á-Phi, Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt nam...
1.2.

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp:


Là loại hình tổ chức xã hội do nhà nước sáng kiến thành lập được hình thành
theo quy định của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt
dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội
nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ
của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà
nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.
Tổ chức xã hội nghề nghiệp bao gồm: Ðoàn Luật sư, Trọng tài kinh tế,
a. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam

Trọng tài kinh tế: Là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của
công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu, việc thành lập, giải thể công ty.
b. Ðoàn Luật sư:
Là hội nghề nghiệp của các luật sư được thành lập nhằm mục đích tập hợp,
hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi cho các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp
và nâng cao hiệu quả hành nghề của các luật sư thành viên. Ðoàn luật sư có tư cách
pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng
góp và bằng các nguồn thu hợp pháp khác.
c. Các tổ chức kinh tế tự nguyện: (theo tính chất sản xuất)
Là những tổ chức hình thành nhằm thu hút người lao động vào việc giải quyết
các nhiệm vụ sản xuất. Ðó là các hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp.
1.3. Các tổ chức tự quản
Là các tổ chức của nhân dân lao động được thành lập theo sáng kiến của nhà
nước, hoạt động theo quy định của nhà nước. Các tổ chức này được thành lập theo
nguyên tắc tự quản trong một phạm vi nhất định đối với các công việc mà nhà nước
không trực tiếp quản lý.
Các tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, giữa các tổ chức cùng loại không có mối quan hệ đoàn thể.
Hoạt động của tổ chức tự quản được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của các cơ quan nhà
nước hữu quan.
1.4. Các hội quần chúng
Là các tổ chức xã hội được thành lập theo những dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích
hoặc các dấu hiệu khác như: kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật, thể thao và quốc
phòng.


Ðiều lệ hoạt động của hội quần chúng do các tổ chức dự thảo và quyết định, khi
đăng ký thành lập hội phải báo cáo điều lệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho

phép thành lập để các cơ quan này chuẩn y.


So sánh cụ thể Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội kiến trúc sư Việt Nam
S
TT

Tiêu
chí

1

VN

vụ

Nam

(tiếng Anh: Vietnam
Women’s
Union,
viết
tắt VWU) là một tổ chức
chính trị, xã hội của phụ nữ
Việt Nam, mục đích hoạt
động vì sự bình đẳng, phát
triển của phụ nữ.

Chức


Hội có chức năng đại
diện, chăm lo, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng
của các tầng lớp phụ nữ,
tham gia xây dựng Đảng,
tham gia quản lý Nhà nước.
Ngoài ra Hội còn đoàn kết,
vận động phụ nữ thực hiện
đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; vận động xã
hội thực hiện bình đẳng giới.

Hội Kiến trúc sư Việt
Nam là tổ chức chính trị – xã
hội - nghề nghiệp sáng tạo tự
nguyện của kiến trúc sư của cả
nước.

Nhiệm

1. Tuyên truyền, giáo
dục chính trị, tư tưởng, lý
tưởng cách mạng, phẩm chất
đạo đức, lối sống; đường lối,
chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà
nước;

1.Hội kiến trúc sư Việt

Nam đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và
quản lý Nhà nước, hoạt động
của Hội góp phần thiết thực
vào công việc xây dựng đất
nước.

năng

3

Hội kiến trúc sư Việt

Khái
niệm

2

Hội liên hiệp phụ nữ

Hội Kiến trúc sư Việt
Nam là hội nghề nghiệp của
các kiến trúc sư trên toàn lãnh
thổ Việt Nam, là một hội thành
viên của Liên hiệp các Hội
Văn học nghệ thuật Việt. Hội
được thành lập năm 1948 tại
Hội là thành viên tỉnh Vĩnh Yên (nay là Vĩnh
của Mặt trận Tổ quốc Việt Phúc).
Nam, thành viên của Liên

đoàn phụ nữ Dân chủ quốc
tế và Liên đoàn các tổ chức
phụ nữ ASEAN.


2. Vận động các tầng
lớp phụ nữ chủ động, tích cực
thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước,
tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng
cao năng lực, trình độ, xây
dựng gia đình hạnh phúc;
chăm lo cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của phụ
nữ;

2.Hội tập hợp, đoàn kết
và phát huy tài năng trí tuệ các
kiến trúc sư phục vụ Tổ quốc.
3.Hội bảo vệ quyền lợi
chính đáng của hội viên trong
hoạt động nghề nghiệp theo
quy định của pháp luật.

3. Tham mưu đề xuất,
tham gia xây dựng, phản biện
xã hội và giám sát việc thực

hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước có liên
quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của phụ nữ,
gia đình và trẻ em;
4. Xây dựng, phát
triển tổ chức Hội vững mạnh;
5. Đoàn kết, hợp tác
với phụ nữ các nước, các tổ
chức, cá nhân tiến bộ trong
khu vực và thế giới vì bình
đẳng, phát triển và hòa bình.
4

Hệ
thống tổ chức

Gồm 4 cấp
1. Trung ương
2. Tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và tương
đương (gọi chung là cấp tỉnh)
3. Huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnhvà

Hoạt động của các tổ
chức xã hội nghề nghiệp được
đặt dưới sự quản lý của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề
nghiệp cũng là tổ chức hoạt
động mang tính chất tự quản,
cơ cấu tổ chức nội bộ của từng


tương đương (gọi chung là tổ chức do tổ chức đó quyết
cấp huyện)
định hoạt động không mang
4. Xã, phường, thị trấn tính quyền lực nhà nước, đảm
và tương đương (gọi chung là bảo nguyên tắc tự nguyện khi
hình thành tổ chức.
cấp cơ sở).
Cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Hội là Đại hội đại
biểu Phụ nữ toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là
Đại hội đại biểu hoặc Đại hội
toàn thể hội viên của cấp đó.
Đại hội đại biểu phụ
nữ các cấp tổ chức 5 năm
một lần.
Cơ quan chuyên trách
Hội cấp TW, tỉnh, huyện là
cơ quan tham mưu, giúp việc
cho BCH, ĐCT hoặc Ban
Thường vụ cùng cấp.
5

Điều

Phụ nữ Việt Nam từ
Công dân Việt Nam
kiện trở thành 18 tuổi trở lên; không phân đang hành nghề kiến trúc sư.
hội viên
biệt dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp, nơi làm việc, nơi cư
trú; tán thành Điều lệ Hội và
tự nguyện tham gia tổ chức
Hội thì được công nhận là hội
viên.

6

Nguyê
Hội Liên hiệp Phụ nữ
n tắc tổ chức Việt Namtổ chức và hoạt
và hoạt động động theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, liên hiệp,
thống nhất hành động.
Cơ quan lãnh đạo Hội
Liên hiệp Phụ nữ các cấp do
bầu cử lập ra, tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập

Tổ chức xã hội nghề
nghiệp cũng là tổ chức hoạt
động mang tính chất tự quản,
cơ cấu tổ chức nội bộ của từng
tổ chức do tổ chức đó quyết
định hoạt động không mang

tính quyền lực nhà nước, đảm
bảo nguyên tắc tự nguyện khi
hình thành tổ chức.


trung dân chủ.


2. Lựa chọn phong trào xã hội có thật, phân tích sự hình thành và phát
triển của phong trào xã hội ở Việt Nam:
PHONG TRÀO TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC VỀ Ý THỨC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG
Do nhận thức của công chúng về môi trường ngày càng được nâng cao cho nên
những phong trào hoặc hình thức vận động rộng lớn cho công tác bảo vệ môi trường
đã lôi cuốn được nhiều người thuộc mọi tầng lớp và lứa tuổi tham gia một cách tự
nguyện. Những việc làm tình nguyện này xuất phát từ lợi ích trực tiếp hàng ngày của
cộng đồng tại cơ sở. Các hoạt động tình nguyện đã phát triển với nhiều hình thức, quy
mô và mức độ khác nhau: từ việc dọn dẹp, giữ gìn vệ sinh đường làng ngõ xóm đến
việc tổ chức có tính thường xuyên và dài ngày trong phạm vi cả nước hoặc một địa
phương. Cộng đồng cũng tham gia các chương trình tình nguyện quốc tế về hỗ trợ phát
triển và bảo vệ môi trường do UNDP phát động rộng khắp trên thế giới.
Giáo dục môi trường (GDMT) nhằm giúp cho cộng đồng hiểu được bản chất
phức tạp của hệ thống môi trường thiên nhiên cũng như nhân tạo để từ đó giúp con
người có những hành vi đối xử “thân thiện” hơn đối với môi trường.
Mục tiêu của GDMT cũng nhằm trang bị cho cộng đồng những kỹ năng hành
động bảo vệ môi trường một cách hiệu quả hơn. Phương pháp GDMT hiệu quả nhất là
giáo dục kiến thức về môi trường trong một môi trường cụ thể nhằm hướng đối tượng
giáo dục có hành động bảo vệ môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng của việc
GDMT trong công tác bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách,
những chương trình hành động cụ thể, và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Các

chương trình GDMT bao gồm cả chính khóa và ngoại khóa đã được triển khai tới tất
cả các cấp học trong hệ thống giáo dục của Việt Nam. Các chiến dịch nâng cao nhận
thức cộng đồng, và vận động quần chúng cũng như các tổ chức xã hội khác tham gia
vào việc bảo vệ mội trường tiến hành hàng năm. Hệ thống thông tin và dữ liệu môi
trường cũng đã được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Song song với những
thành quả này, nội dung báo cáo cũng nêu lên những hạn chế, tồn tại trong công tác
giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.
I. Về công tác giáo dục môi trường
1. Vai trò và ý nghĩa của công tác giáo dục môi trường
Năm 1987, tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng
tổ chức, đã đưa ra kết luận về tầm quan trọng của giáo dục môi trường: “Nếu không
nâng cao được sự hiểu biết của công chúng về những mối quan hệ mật thiết giữa chất
lượng môi trường với quá trình cung ứng liên tục các nhu cầu ngày càng tăng của họ,
thì sau này sẽ khó làm giảm bớt được những mối nguy cơ về môi trường ở các địa


phương cũng như trên toàn thế giới. Bởi vì, hành động của con người tùy thuộc vào
động cơ của họ và động cơ này lại tùy thuộc vào chính nhận thức và trình độ hiểu biết
của họ. Do đó, giáo dục môi trường là một phương tiện không thể thiếu để giúp
mọi người hiểu biết về môi trường”.
Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường của Liên hợp quốc tổ chức tại Tbilisi
vào năm 1977 đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường có mục đích làm cho cá
nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và môi
trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã hội,
kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trị, thái độ và kỹ năng
thực hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và
giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường”.
Giáo dục môi trường không phân biệt giáo dục cho đông đảo nhân dân, giáo
dục trong các trường phổ thông, giáo dục đại học hay trung học chuyên nghiệp đều
nhằm mục tiêu đem lại cho các đối tượng được giáo dục có cơ hội:

a) Hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường: tính phức tạp, quan hệ nhiều
mặt, nhiều chiều, tính hạn chế của tài nguyên thiên nhiên và khả năng chịu tải của môi
trường, mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển, giữa môi trường địa
phương, vùng, quốc gia với môi trường khu vực và toàn cầu. Mục tiêu này thực chất là
trang bị cho các đối tượng được giáo dục các Kiến thức về môi trường.
b) Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như
một nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển, đối với bản thân họ cũng như
đối với cộng đồng, quốc gia của họ và quốc tế, từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn
trước các vấn đề môi trường, xây dựng cho mình quan niệm đúng đắn về ý thức trách
nhiệm, về giá trị nhân cách để dần hình thành các kỹ năng thu thập số liệu và phát triển
sự đánh giá thẩm mỹ. Mục tiêu này có định hướng xây dựng Thái độ, cách đối xử thân
thiện với môi trường.
c) Có tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực trong
việc lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp lý và khôn
ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên, để họ có thể tham gia hiệu quả vào việc
phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể nơi họ ở và làm việc. Đây là
mục tiêu về khả năng

Hành động cụ thể.


Hình 1. Ba mục tiêu của giáo dục môi trường
Giáo dục môi trường hoàn toàn không tách rời những giá trị về kiến thức,
kinh nghiệm thực tế và cách thức thực hiện của từng địa phương hay khu vực về một
quá trình tạo lập và phát triển bền vững. Giáo dục môi trường luôn trân trọng những tri
thức bản địa và ủng hộ việc giáo dục tương ứng với việc học tập dựa trên môi
trường địa phương, coi trọng việc giáo dục toàn cầu cũng như giáo dục môi trường
địa phương, thậm chí về mặt cam kết và hành động lại hướng về cụ thể và địa phương:
“Nghĩ – toàn cầu, Hành động – Địa phương”.
Mục đích cuối cùng của giáo dục môi trường là tiến tới xã hội hóa các vấn đề

môi trường, nghĩa là tạo ra các công dân có nhận thức, có trách nhiệm với môi
trường, biết sống vì môi trường.
Một khi các vấn đề môi trường đã được xã hội hóa thì những lợi ích kinh tế cho
cộng đồng ngày một gia tăng và đặc biệt hiệu lực quản lý nhà nước tăng nhưng
gánh nặng chi phí sẽ giảm. Do đó, những kết quả nghiên cứu về môi trường và các
phương pháp khắc phục ở nhiều quốc gia trên thế giới đã đi đến kết luận chung là:
không có giải pháp nào kinh tế và hiệu quả bằng việc đầu tư vào con người thông qua
công tác giáo dục môi trường.
2. Một số phương thức và cách tiếp cận trong giáo dục môi trường
Giáo dục môi trường có nhiều phương thức, được phân chia thành các bộ phận
phù hợp với trình độ nhận thức và tính chất đặc thù của cương vị công tác như:
- Giáo dục môi trường cho cộng đồng còn gọi là nâng cao nhận thức về môi
trường cho cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng, các đợt tập huấn ngắn hạn, các hoạt động văn hóa, truyền thông và các
cuộc vận động quần chúng rộng rãi.
- Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý các cấp, các cán bộ ra quyết
định được thực hiện bằng nhiều biện pháp phù hợp.
- Giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở các trường từ
các trường mẫu giáo đến các trường cao đẳng và đại học.
- Đào tạo nhân lực chuyên môn về môi trường, bao gồm công nhân lành nghề,
kỹ thuật viên, kỹ sư, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy.
Như vậy, rõ ràng công tác đào tạo và nâng cao nhận thức môi trường cho cộng
đồng đều là những bộ phận vô cùng quan trọng không thể thiếu trong giáo dục môi
trường, thực hiện những mục tiêu chiến lược của giáo dục môi trường.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng, giáo dục môi
trường thường được thực hiện theo 3 cách tiếp cận sau đây:


a) Giáo dục về môi trường: xem môi trường là một đối tượng khoa học, người
dạy truyền đạt cho người học các kiến thức của bộ môn khoa học về môi trường, cũng

như phương pháp nghiên cứu về đối tượng đó. Cụ thể là:
- Cung cấp những hiểu biết về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó;
- Cung cấp những hiểu biết tác động của con người tới môi trường.
b) Giáo dục trong môi trường: xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo
như một địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với cách tiếp cận
này, môi trường sẽ trở thành “phòng thí nghiệm thực tế” đa dạng, sinh động cho người
dạy và người học. Xét về hiệu quả học tập kiến thức, kỹ năng, nghiên cứu có thể hiệu
quả rất cao.
c) Giáo dục vì môi trường: truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của môi
trường hình thành thái độ, ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm giá trị nhân cách,
đạo đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ năng, phương pháp cần thiết cho
những quyết định, hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Giáo dục môi trường có hiệu quả nhất khi kết hợp cả 3 cách tiếp cận trên, tức là
giáo dục kiến thức về môi trường trong môi trường cụ thể nhằm hướng đối tượng giáo
dục có hành động vì môi trường.
II. Giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức cộng đồng cho các đối
tượng trong xã hội ở Việt Nam
1. Giáo dục môi trường ở các bậc học
1.1. Giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non
Giáo dục mầm non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở quan trọng
đặt nền móng ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người Việt Nam. Giai
đoạn từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Trong giai
đoạn này, trẻ phát triển rất nhanh về mặt thể chất, nhận thức, tình cảm. Các mối quan
hệ xã hội, những nét tính cách, phẩm chất và các năng lực chung,… nếu không được
hình thành ở trẻ trong lứa tuổi này, thì khó có cơ hội hình thành ở lứa tuổi sau.
Hiện nay, cả nước có trên 10.000 trường mẫu giáo, mầm non với gần 3 triệu
trẻ em và trên 15.000 giáo viên. Một lực lượng khá đông đảo sẽ được trang bị
những kiến thức, kỹ năng về môi trường và bảo vệ môi trường nếu đưa giáo dục bảo
vệ môi trường vào trường mầm non.

1.2. Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc tiểu học
Tiểu học là bậc học cơ bản, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng cho việc đào
tạo trẻ em trở thành công dân tốt cho đất nước. Mục đích quan trọng của giáo dục bảo
vệ môi trường không chỉ làm cho các em hiểu rõ tầm quan trọng của bảo vệ môi


trường mà quan trọng là phải hình thành thói quen, hành vi ứng xử văn minh, thân
thiện với môi trường. Nếu ở cấp học này các em chưa hình thành được tình yêu
thiên nhiên, sống hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới thế giới xung quanh, có thói
quen sống ngăn nắp, vệ sinh thì ở các cấp sau khó có thể bù đắp được. Vì vậy, nội
dung và cách thức bảo vệ môi trường trong trường tiểu học mang tính quyết định đối
với việc hình thành những phẩm chất đó.
1.3. Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc trung học
Ở cấp học này, nội dung giáo dục môi trường phải được coi là nội dung chính
thống, có hệ thống, có chất lượng và phải hiệu quả. Cách thức đưa vào chương trình
phổ thông và phương thức đào tạo có thể mềm dẻo nhưng việc đánh giá kết quả phải
được đặt ra một cách tương xứng với tầm quan trọng của vấn đề. Cần phải giúp cho
các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức, kỹ năng và tự thân các học sinh xác định thái
độ phái đối xử đúng đắn với thiên nhiên như chính ngôi nhà của mình.
1.4. Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học
Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học có thể được thực hiện
theo 3 phương thức:
− Tiến hành như một môn học mới, hoặc một chuyên đề mới được đưa vào
chương trình: Phương thức này tương đối rõ ràng, đơn giản, nhưng gặp khó khăn
do chương trình đào tạo đang có không còn thời lượng cho môn học mới.
− Lồng ghép với các môn học khác: Phương thức này sẽ thuận lợi cho tính
chất liên ngành, không đòi hỏi việc sắp xếp lại khung chương trình. Tuy nhiên lại gặp
khó khăn lớn là phải đào tạo giáo viên mới và huấn luyện bồi dưỡng giáo viên đương
chức về mục tiêu, nội dung và phương pháp lồng ghép.
− Giáo dục môi trường qua các hoạt động ngoại khóa: Phương thức này

được vận dụng để giải quyết khó khăn về quỹ thời gian học tập của học sinh. Giáo dục
ngoại khóa có ưu điểm là sinh động, dễ gắn liền với thực tế, vừa cung cấp được kiến
thức, kỹ năng, vừa có tác dụng rèn luyện nhận thức, thái độ. Tuy nhiên có khó khăn là
không liên tục, không hệ thống và bị động với nhiều nhân tố bên ngoài.
2. Giáo dục môi trường cho các cán bộ quản lý
Những cán bộ quản lý các cấp chính là những người có vai trò quyết định đối
với sự phát triển bền vững của xã hội. Tuy nhiên, nhiều cán bộ quản lý còn chưa thể
hiện sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của môi trường hoặc còn xem vấn đề
môi trường là yếu tố gây cản trở với quá trình phát triển, với việc khai thác các nguồn
tài nguyên phục vụ cho công cuộc phát triển. Bởi vậy, ở nhiều ngành khi lập kế
hoạch phát triển kinh tế, thì vấn đề môi trường mới chỉ được coi là nội dung mang
tính tham khảo hoặc một nội dung bổ trợ mà chưa được xem là mục tiêu cần thiết
của ngành đó.


Do đó, giáo dục thông qua đào tạo cập nhật môi trường là rất cần thiết để họ
phải có trách nhiệm với môi trường mỗi khi cầm bút phê duyệt một dự án phát triển,
một công trình xây dựng hay một quyết định có liên quan tới khai thác tài nguyên và
bảo vệ môi trường.
3. Giáo dục môi trường cho cộng đồng
Giáo dục môi trường và nâng cao nhận thức về môi trường cho cộng đồng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng bởi lẽ cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng trực tiếp
bởi môi trường sống của chính họ, họ vừa là nguyên nhân vừa là những người gánh
chịu hậu quả những vấn đề môi trường của địa phương. Khi được nâng cao nhận thức,
kiến thức về bảo vệ môi trường sẽ góp phần thúc đẩy cộng đồng tham gia bảo vệ môi
trường. Công tác này thường được thực hiện thông qua các hoạt động xã hội, các tổ
chức quần chúng, các đoàn thể chính trị - xã hội để từng bước tiến tới xã hội hóa công
tác bảo vệ môi trường, điều này có nghĩa là huy động các nhân tố thị trường và cộng
đồng dân cư vào các mặt hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Đây là một quá trình đòi hỏi sự bền bỉ, thời gian dài và đặc biệt là sự kết hợp

hài hòa và tổng hợp các giải pháp. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, không có
một giải pháp đơn lẻ nào có thể phát huy hiệu quả trong vấn đề này.
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đặt vị trí quan trọng của công
tác bảo vệ môi trường trong hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Quan điểm này
được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 và sau này là Nghị
quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng CSVN về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước: "Bảo vệ môi trường là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức,
mọi gia đình và của mỗi người". Quyết định số 256/2003/QĐ- TTg, ngày 2/12/2003
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường
là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của
mọi người dân".
Theo Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 về công tác quản lý
khoa học và công nghệ, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ngày càng phát triển. Hiện
nay, có hàng trăm đơn vị hội viên thuộc Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam và nhiều các trung tâm hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại các
tỉnh và thành phố. Các hội này nói chung không có hệ thống tới cơ sở, mà thường là
tập hợp các nhà chuyên môn trong một lĩnh vực nhất định để tiến hành các hoạt
động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tư vấn đào tạo và chuyển giao công
nghệ. Cho đến nay, các hội đã đóng góp ý kiến xây dựng các chính sách, luật pháp về
bảo vệ môi trường, như Luật Bảo vệ môi trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh
học, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia,... Đối với một số dự án quan trọng, như


Dự án xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La, các hội đã được yêu cầu nghiên cứu
đóng góp ý kiến cho báo cáo nghiên cứu khả thi của công trình này, trong đó có phần
về đánh giá tác động môi trường. Nhiều điều kiến nghị đã được các cơ quan có thẩm
quyền xem xét và chấp nhận.
Tuy không có hệ thống tổ chức đến tận cơ sở, nhưng các hội vẫn có thể tổ chức

thực hiện nhiều hoạt động tại các địa phương trong cả nước, thông qua các đề tài
nghiên cứu, các dự án phát triển trong các lĩnh vực sản xuất, xã hội và bảo vệ môi
trường, như Hội Khoa học Kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam trong việc bảo vệ
rừng và các khu bảo tồn thiên nhiên.
Các tổ chức chính trị - xã hội, như Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,... có hệ thống tổ chức từ
Trung ương tới cơ sở, vì vậy có điều kiện và vai trò quan trọng trong việc huy động
hội viên cùng nhân dân địa phương thực hiện nhiều hoạt động bảo vệ môi trường tại
địa phương. Các chương trình lớn của quốc gia có liên quan đến môi trường, như
Chương trình 327 về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, Chương trình trồng 5 triệu ha
rừng, Chương trình Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,... có thành công hay
không, phần quyết định là ở các hoạt động của cộng đồng ở địa phương.
Các dự án do Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế tài trợ để xây dựng
những mô hình về cải thiện điều kiện sinh hoạt và bảo vệ môi trường chỉ có thể đạt kết
quả tốt, nếu mô hình phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của địa phương, được nhân dân
chấp nhận và nhất là sau khi dự án kết thúc, có thể được tiếp tục nhân rộng, nhằm giải
quyết vấn đề trong phạm vi rộng hơn.
Cộng đồng địa phương còn có thể đóng góp ý kiến cho các chủ trương, chính
sách của Nhà nước và các dự án đầu tư, nhất là những gì có tác động trực tiếp tới môi
trường, tới sản xuất và đời sống của nhân dân tại đó.
Vì vậy, thực hiện nguyên tắc "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là
một trong các biện pháp quan trọng để xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
III. Công tác giáo dục và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường tại
Việt Nam
1. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam tới công tác giáo dục, đào tạo,
nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường thể hiện qua việc Ban hành các Văn bản
Pháp luật
Công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác giáo dục, đào tạo và nâng
cao nhận thức về môi trường nói riêng đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm từ nhiều
năm nay và đã có những chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường trong

thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam:


Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 về “Tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã chỉ rõ:
“Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ
có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở mỗi nước, với
cuộc đấu tranh vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới”. Chỉ thị đã đưa
ra 8 giải pháp lớn về bảo vệ môi trường, trong đó giải pháp đầu tiên là: “Thường
xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần
chúng bảo vệ môi trường”.
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải pháp đầu
tiên được nêu ra là: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và
trách nhiệm bảo vệ môi trường”.
Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc
dân”.
Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020”.
Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam” (Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam).
Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của
Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Điều 5 và Điều 6 đề
cập đến chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường và những hoạt động được
khuyến khích, trong đó có công tác tuyên truyền, giáo dục. Riêng Chương XI,
Điều 107. Giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, quy

định rõ:
1) Công dân Việt Nam được giáo dục toàn diện về môi trường nhằm nâng cao
hiểu biết và ý thức bảo vệ môi trường.
2) Giáo dục về môi trường là một nội dung của chương trình chính khoá của
các cấp học phổ thông.
3) Nhà nước ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường, khuyến khích
mọi tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.
4) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường
chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục về môi trường và đào
tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.


Chỉ thị số 02/2005/CT-BGD&ĐT ngày 31/01/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường.
Chỉ thị số 40/2008/CT-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013.
2. Một số kết quả đã đạt được
Trong nhiều năm qua, thực hiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường đã luôn được chú trọng.
Nhiều hình thức nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua các tư liệu, tranh ảnh, các
chiến dịch truyền thông đại chúng, các phương tiện truyền thông (báo chí, phát thanh,
truyền hình), các cuộc thi sáng tác, viết, vẽ, tìm hiểu pháp luật về môi trường, các cuộc
vận động quần chúng tham gia bảo vệ môi trường hằng năm được thực hiện thường
xuyên và đi vào nền nếp.
Giáo dục về pháp luật môi trường được thực hiện thông qua các chương trình
chính khóa và ngoại khóa ở các cấp học, từ mầm non, phổ thông, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học trong phạm vi cả nước. Nhiều tài
liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, sách tham khảo về bảo vệ môi trường đã được biên
soạn và phát hành.

Công tác đào tạo thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân về môi trường được thực hiện ở nhiều
trường đại học. Một số trường đại học có chuyên khoa về môi trường như Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế
Quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa Hà
Nội, Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, các trường Cao đẳng Tài nguyên và
Môi trường...
Nhiều hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế về môi trường đã được tổ chức.
Nhiều khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong nước và nước ngoài về môi trường được
tổ chức thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức môi trường và về pháp luật
môi trường cũng như kỹ năng quản lý cho các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp,
các doanh nghiệp cũng như các tổ chức xã hội.
Mạng lưới giáo dục môi trường đã được hình thành, phát huy tác động tích cực
trong việc phối hợp thực hiện công tác giáo dục, đào tạo về môi trường trên phạm vi
toàn quốc cũng như hợp tác trong khu vực và quốc tế. Báo cáo Môi trường quốc gia
hằng năm thường xuyên được xây dựng và phổ biến tới cộng đồng. Hằng năm,
Giải thưởng Môi trưởng Việt Nam được tổ chức nhằm tôn vinh và khuyến khích
các tập thể, cá nhân trong và ngoài nước có nhiều thành tích trong sự nghiệp bảo vệ
môi trường Việt Nam.
Tuy vậy, công tác giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về bảo vệ môi
trường vẫn còn tồn tại những hạn chế sau:


- Một số các bộ/ ngành, địa phương chưa làm tốt chức năng quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về
môi trường theo quy định của pháp luật.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, bộ, ngành, tổ chức trong giải
quyết các vấn đề môi trường và nâng cao nhận thức môi trường.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường nói chung và công tác giáo dục, đào
tạo, nâng cao nhận thức môi trường nói riêng còn hạn chế về số lượng, năng lực, khả
năng chuyên môn.

- Chưa có được chương trình chung, thống nhất về giáo dục, đào tạo môi trường
trong các trường học.
- Chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức môi trường cho cộng đồng
mới chỉ dừng ở giai đoạn nhận thức, còn hạn chế khi đi vào giải quyết những vấn đề
cụ thể phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh của địa phương.
- Các cơ quan truyền thông còn chưa thực sự phát huy chức năng của mình
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Truyền thông về môi trường chưa phát huy
hết hiệu quả và chưa được xã hội hóa đúng nghĩa.
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và nâng cao nhận thức môi
trường
Trong thời gian tới, cần tiếp tục duy trì phát huy những điểm mạnh, bổ khuyết
những điều còn hạn chế để làm tốt công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao nhận thức môi
trường. Có thể coi giai đoạn bước tiếp là chuyển biến từ nhận thức thành hành động
bảo vệ môi trường, vì vậy cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, ban/ngành, đoàn thể
xã hội, trong đó các cơ quan quản lý môi trường ở cấp trung ương và địa phương.
Các giải pháp chính về giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức môi trường
bao gồm:
- Thiết lập cơ chế phối hợp cũng như phân rõ trách nhiệm của các
bộ/ngành, các cơ quan hữu trách trong nâng cao nhận thức, thúc đẩy hành động bảo vệ
môi trường.
- Tăng cường năng lực cho cán bộ cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
- Chú trọng đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên gia môi trường phục vụ công
tác quản lý, nghiên cứu... thông qua công tác đào tạo môi trường bậc đại học và sau đại
học.

- Tăng cường đầu tư các nguồn lực (nhân lực, tài lực) cho giáo dục, đào tạo và
nâng cao nhận thức môi trường.





×