Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

8 tiểu luận tình huống lớp bồi dưỡng QLNN chương trình chuyên viên và chuyên viên chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.06 KB, 19 trang )

PHẦN I - LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện ra
đời ngày 03/02/1930, từ đó đến nay, Đảng luôn luôn giữ vững vai trò tiên phong lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, liên tiếp giành được thắng lợi; từ phong trào giải phóng
dân tộc đến công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, giành lại cơm no, áo ấm cho toàn
dân. Trong cơn phong ba bão táp của cách mạng thế giới, Đảng vẫn vững tay trèo lái,
đưa cách mạng Việt Nam vững vàng trong thời mở cửa; đổi mới nhưng không “đổi
màu” khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu vững chắc “Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Thành quả to lớn đó, được Bác Hồ và Đảng ta đã dày công vun đắp xây dựng
một đội ngũ cán bộ đảng viên đủ “đức”, đủ “tài”. Bác đã từng khẳng định: “để lãnh
đạo cách mạng là Đảng mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng
viên đều tốt” (Hồ Chí Minh toàn tập). Bác rất quan tâm công tác xây dựng Đảng ở
chi bộ, vì đó là những tế bào của tổ chức Đảng, là nơi cụ thể hoá đường lối chính
sách của Đảng, nơi để các đảng viên trực tiếp rèn luyện, tu dưỡng; Người luôn căn
dặn Đảng, phải chăm lo củng cố xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững
mạnh; làm tốt công tác phát triển Đảng, giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn nắm vững lý luận Chủ nghĩa
Mác Lê Nin - Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đã sáng tạo, đề ra những
bước đi thích hợp; nghiêm khắc tự phê bình, lấy xây dựng chỉnh đốn Đảng là việc
làm cần thiết và thường xuyên của toàn Đảng, cương quyết đưa ra khỏi tổ chức
những đảng viên thoái hóa, biến chất, không còn đủ tư cách đảng viên; đồng thời rất
coi trọng chăm lo công tác phát triển Đảng; vì làm tốt công tác phát triển Đảng sẽ
1


tăng thêm sinh lực mới cho Đảng, trẻ hoá đội ngũ làm cho Đảng mạnh lên và trẻ ra,
sức sống dồi dào, hoàn thành tốt sứ mệnh, lịch sử đã giao phó.


Dân Chính Đảng Thừa Thiên Huế là đảng bộ cấp trên cơ sở, nơi hội tụ tổ chức
cơ sở đảng của các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh và cơ quan Trung ương đóng trên địa
bàn, luôn quan tâm xây dựng đảng bộ lớn mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và
tổ chức, coi trọng công tác phát triển Đảng.
Tuy nhiên, trong công tác phát triển Đảng còn có những vấn đề vướng mắc,
cần tháo gỡ, như số tổ chức cơ sở Đảng có kết nạp đảng viên tăng thêm không nhiều,
có tổ chức cơ sở Đảng nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên, tỷ lệ đảng viên
là đoàn viên thanh niên còn thấp, một số nơi chưa quan tâm công tác kết nạp Đảng…
Theo chúng tôi, đây là vấn đề cần bàn bạc, tìm ra những giải pháp thích hợp, nhằm
nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, góp phần thực hiện
thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ Dân chính Đảng lần thứ III (nhiệm kỳ 2001 2005), hoàn thành chỉ tiêu phấn đấu kết nạp Đảng mỗi năm trong nhiệm kỳ từ 160 170 đảng viên mới.
Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy, cô Trường Cán
bộ quản lý NN&PTNT I đã không quản khó nhọc, giành thời gian, tạo điều kiện tốt
nhất truyền thụ kiến thức, giúp cho tôi hoàn thành tiểu luận này.
Trong quá trình trình bày, nếu có gì sơ suất, rất mong quý thầy cô và các bạn
thông cảm!

….., ngày 12 tháng 8 năm 201….

2


PHẦN II - NỘI DUNG
I. Mô tả tình huống vướng mắc trong công tác phát triển Đảng
1. Tình hình công tác phát triển Đảng
1.1. Đặc điểm tình hình chung
Đảng uỷ Dân Chính Đảng Trung ương thành lập từ năm 1948, đến nay Dân
Chính Đảng vẫn là một trong những mô hình đang được thử nghiệm. Sau khi chia
tỉnh (1989), thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn
Đảng của Ban Bí thư, Thường vụ Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế đã ra Nghị quyết số 13 TV/TU ngày 12/7/1989 “v/v thành lập Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng Thừa

Thiên Huế” trực thuộc Tỉnh uỷ, là Đảng bộ cấp trên cơ sở.
Sự ra đời của Đảng bộ phù hợp với điều 11 chương II Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhằm làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, nâng cao chất
lượng đảng viên, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng các tổ
chức cơ sở yếu kém, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thực hiện tốt theo quy định 49,
54, 51, 15, 16 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Quá trình vận động và phát triển, Đảng bộ đã tự khẳng định mình, kết quả là
ngày 31/6/1995, Thường vụ Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế kết luận “Căn cứ tình hình thực
tiễn ở tỉnh ta, qua phân tích, cân nhắc, Thường vụ Tỉnh uỷ thống nhất giữ nguyên mô
hình Đảng bộ Cơ quan Dân Chính Đảng như hiện nay; đồng thời có sự điều chỉnh cần
thiết một số tổ chức cơ sở Đảng cho phù hợp với quy định của Trung ương và Nghị
quyết Trung ương 3 (khoá VII). Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ là lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị, xây dựng Đảng, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng làm công
tác tổ chức và cán bộ, công tác phát triển đảng viên mới, công tác kiểm tra, tăng
cường sự lãnh đạo đối với các đoàn thể, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nếu trong chiến tranh, giải đất miền trung đã kiên cường trong lửa, đạn, thì
trong hoà bình nhân dân Thừa Thiên Huế rất dũng cảm trước những mặt trái kinh tế
thị trường; những thiên tai khốc liệt của thiên nhiên, là tỉnh nằm trong vùng bị bão, lũ
3


lụt xảy ra thường xuyên, hằng năm có từ 1 - 3 cơn bão với nhiều trận lũ lụt lớn, nhỏ.
Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng giá trị thiệt hại do bão, lũ lụt gây ra về cơ sở vật chất,
sản xuất kinh doanh của Nhà nước và nhân dân gần 2,5 tỷ đồng; trong đó trận lũ lụt
cuối năm 1999 đã gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng về tiềm lực kinh tế, cơ sở
hạ tầng, môi trường sinh thái và dân sinh với tổng giá trị thiệt hại hơn 1,7 tỷ đồng (số
liệu theo báo cáo 10/2000 của Cục Thống Kê TTH); trong đó lực lượng cán bộ, đảng
viên của Đảng bộ Dân Chính Đảng đóng góp một phần không nhỏ.
Công tác phát triển Đảng có vị trí vai trò rất quan trọng trong xây dựng Đảng;
nhằm tăng thêm lực lượng trẻ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển đội ngũ đảng viên

một cách vững chắc và liên tục. Phát triển Đảng tốt còn có ý nghĩa chiến lược trong
công tác xây dựng Đảng, tăng sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chuẩn bị tốt đội
ngũ trong tương lai, là cơ sở thực hiện chiến lược cán bộ, giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng bộ Dân Chính Đảng Thừa Thiên Huế - Một tổ chức Đảng cấp trên cơ sở
có 84 tổ chức cơ sở Đảng, bao gồm 29 Đảng bộ và 55 chị bộ cơ sở, 9000 cán bộ công
nhân viên, 2324 đảng viên, là nơi tập trung đội ngũ cán bộ, đảng viên đã từng dạn
dày trong đấu tranh cách mạng, trong chiến đấu, công tác, có trình độ chính trị,
chuyên môn nghiệp vụ khá cao, số đông hăng hái, nhiệt tình, đảm đương những chức
vụ chủ chốt, trọng yếu trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần
chúng cấp tỉnh. Vì vậy, công tác phát triển Đảng trong Đảng bộ lại càng có vị trí đặc
biệt quan trọng, nhất là trong tình hình hiện nay. Khi mà 4 nguy cơ tiếp tục đan xen,
diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch đang chống phá Đảng và Nhà nước ta quyết
liệt, với âm mưu thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hòng lật đổ Cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa ở nước ta.
Trong nhiệm kỳ 1996 - 2000, Đảng uỷ Dân Chính Đảng đã tập trung lãnh đạo
toàn Đảng bộ, nhất là những mặt sau:
- Coi trọng học tập lý luận, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng. Đây là
việc làm quan trọng hàng đầu, nhằm giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đến các tổ
4


chức cơ sở Đảng và mọi đảng viên, quần chúng. Các hình thức mở lớp truyền đạt
nghị quyết đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, có Nghị quyết sau khi học tập, học
viên được viết bài thu hoạch, nêu lên những nhận thức và kiến nghị của mình. Đảng
uỷ lãnh đạo 100% cơ sở đảng mua, đọc các loại báo, tạp chí của Đảng, tổ chức nói
chuyện thời sự. Phối hợp Trường Cán bộ Nguyễn Chí Thanh mở 4 lớp trung cấp lý
luận chính trị có hơn 900 đảng viên là cấp trưởng phó phòng thuộc diện Đảng uỷ
quản lý. Đảng uỷ động viên các cấp uỷ cơ sở tạo điều kiện cho đảng viên, cán bộ lãnh
đạo theo học những lớp cử nhân chính trị, đại học tại chức, ngoại ngữ, tin học ở các

trường trong và ngoài tỉnh. Qua đó, tư tưởng của đảng viên, cán bộ công nhân viên
ngày càng được nâng lên, tạo thêm sự thống nhất với Đảng về đánh giá tình hình của
đất nước và thế giới, khẳng định sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta và toàn dân đang thực
hiện là đúng đắn, giải quyết được tư tưởng chưa ổn định, lo lắng băn khoăn, của một
số cán bộ đảng viên. Tăng thêm niềm tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của
Đảng.
Tuy vậy, trước những diễn biến phức tạp gay gắt của tình hình chính trị, kinh tế
- xã hội, nhiền vấn đề mới đặt ra, song công tác chính trị, tư tưởng của Đảng uỷ
chuyển biến chưa theo kịp, còn bộc lộ một số mặt yếu, kém như: chưa đi vào chiều
sâu từng Nghị quyết, còn dàn trải, một số cấp uỷ chưa có chương trình hành động
thực hiện cho cấp mình, công tác bảo vệ nội bộ Đảng có khi còn chủ quan, dẫn đến
một số đảng viên vị phạm tư cách, kỷ luật Đảng (tham nhũng, cố ý làm trái pháp luật,
tiếp tay cho bọn buôn lậu… phải ngồi tù), một số đơn vị tình trạng mất đoàn kết kéo
dài.
- Phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng, “Phê bình là
sự tuần hoàn máu đều đặn, nếu thiếu nó sẽ không tránh khỏi tình trạng trì trệ và những hiện tượng
bệnh hoạn” (N.OSTROVSKI). Thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức, coi trọng và nâng cao năng
lực lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở, bởi vì: “Những thành tựu đạt được, những tiềm năng được khai thác,
những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt
nhân lãnh đạo là tổ chức cơ sở đảng” (Xây dựng Đảng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh). Đảng uỷ đã lãnh đạo các tổ chức cơ sở Đảng thường xuyên hoạt động theo đúng chức năng,
5


nhiệm vụ, chú ý đổi mới phương thức bằng cách xây dựng quy chế và hoạt động theo quy chế (đến
nay toàn Đảng bộ có trên 50% tổ chức cơ sở Đảng đã xây dựng được quy chế); nhờ đó, tránh được
sự chồng chéo, lấn “sân”. Chăm lo xây dựng các đơn vị vững mạnh, chú trọng tìm giải pháp giải
quyết các đơn vị yếu kém, mở 03 lớp bồi dưỡng cấp uỷ, bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức, kiểm tra,
không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của các cấp uỷ Đảng.


Kết quả trong nhiệm kỳ là:
Năm 1996 có 65%

Đơn vị trong sạch vững mạnh

Năm 1997 có 77,65%

Đơn vị trong sạch vững mạnh

Năm 1998 có 76,19%

Đơn vị trong sạch vững mạnh

Năm 1999 có 80,95%

Đơn vị trong sạch vững mạnh

Năm 2000 có 81,18%

Đơn vị trong sạch vững mạnh

- Ngay từ đầu nhiệm kỳ Thường vụ Đảng uỷ đã tiến hành khảo sát chất lượng
đảng viên, cán bộ chủ chốt trong diện quản lý, để nhận định, tìm ra giải pháp lãnh đạo
sát đúng, tham mưu với tỉnh trong những trường hợp đề bạt, bổ nhiệm có liên quan
đến đảng viên của Đảng bộ. Bởi vì, càng đi vào kinh tế thị trường, Đảng càng phải
vươn lên tầm cao mới, giữ vững vai trò lãnh đạo trên mọi mặt. Phát triển Đảng phải
đi đôi với xây dựng và đổi mới chỉnh đổn Đảng.
1.2. Thực trạng công tác phát triển Đảng trong nhiệm kỳ 1996 - 2000.
1.2.a. Ưu điểm: Nhận thức được đầy đủ công tác phát triển Đảng là nhiệm vụ
chiến lược quan trọng, tăng thêm sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, chuẩn bị tốt

đội ngũ trong tương lai. Mỗi tổ chức Đảng có kế hoạch phân công cụ thể đảng viên;
làm tốt công tác bồi dưỡng và phát triển Đảng theo yêu cầu trẻ hoá, đảm bảo về số
lượng và chất lượng ngày càng cao; đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong số đoàn
viên ưu tú, đó cũng là cơ sở thực hiện chiến lược cán bộ, giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những năm qua, Đảng bộ Dân Chính Đảng đã có nhiều cố gắng, tích cực, thúc
đẩy công tác phát triển Đảng đi vào nề nếp, thường xuyên và thực chất, tạo được
chuyển biến rõ rệt, đạt được kết quả đáng phấn khởi, nhất là 5 năm nhiệm kỳ 1996 –
2000, thể hiện được sự năng động, sáng tạo, thực hiện đổi mới cả nhận thức và hành
6


động, đã kết nạp được 860 đảng viên mới, tăng gấp 3 lần so với nhiệm kỳ (1991 1995), gần bằng 20% số đảng viên kết nạp của cả tỉnh(860/5000 đảng viên mới).
Trong 860 đảng viên mới kết nạp, có 267 đảng viên nữ, chiếm 31%; công nhân 95đ/c
chiếm tỷ lệ 11%; sinh viên 3đ/c tỷ lệ 0,3%. Có 496đ/c đã tốt nghiệp đại học, chiếm tỷ
lệ 57,6%; trên đại học có 7đ/c, chiếm 0,8%. Số quần chúng được kết nạp và số tổ
chức có kết nạp đảng viên mới ngày càng tăng, cụ thể là:
Năm 1996 kết nạp 104đ/c, (có 34 ĐVTN; 45 TCCS đảng viên có kết nạp;
Năm 1997 kết nạp 151đ/c, (có 40 ĐVTN; 49 TCCS đảng viên có kết nạp;
Năm 1998 kết nạp 203đ/c, (có 53 ĐVTN; 56 TCCS đảng viên có kết nạp;
Năm 1999 kết nạp 210đ/c, (có 69 ĐVTN; 67 TCCS đảng viên có kết nạp;
Năm 2000 kết nạp 192đ/c, (có 72 ĐVTN; 62TCCS đảng viên có kết nạp;
Chất lượng đảng viên mới kết nạp trong những năm qua đều tốt. Phần lớn các
đảng viên mới đã và đang phát huy được vại trò tiên phong, gương mẫu; nhiều đồng
chí đã được đề bạt vào các chức danh chủ chốt, như trưởng, phó phòng; trưởng, phó
các chi cục trực thuộc sở, ban, ngành, một số đã được đề bạt chức vụ cao hơn.
Có được những kết quả trên, trước hết là do đường lối của Đảng đã thấm vào
cuộc sống, như các Nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Bộ chính trị về công tác
xây dựng Đảng, nhất là NQTW 2,3,6 (lần 2), chỉ thị 34 phát triển Đảng trong các
trường học. Những thành tựu về kinh tế – xã hội của đất nước và ở từng địa phương,

cùng kết quả bước đầu của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
NQTW6 (lần 2), đã góp phần nâng cao vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng, là nguồn lực
mạnh mẽ lôi cuốn quần chúng hướng về Đảng là then chốt trong quá trình đổi mới,
luôn chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
trong sạch vững mạnh, tập trung giải quyết các tổ chức cơ sở Đảng yếu kém, coi đây
là điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh công tác phát triển Đảng. Gắn công tác phát triển
Đảng với đào tạo, bồi dưỡng và quy hoạch cán bộ theo tinh thần NQTW3 (khoá
VIII), đảm bảo chất lượng, tăng nhanh về số lượng, đưa công tác phát triển Đảng trở
7


thành một trong những nội dung để xem xét công nhận danh hiệu tổ chức trong sạch
vững mạnh.
Đảng uỷ mở các lớp lý luận chính trị phổ thông nhằm bồi dưỡng nhận thức về
Đảng cho đảng viên mới, trong nhiệm kỳ qua đã mở được 3 lớp với 300 học viên;
Tập trung đi sâu kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Tiến hành khảo sát, mở
các hội nghị chuyên đề về công tác phát triển Đảng trong các loại hình khác nhau:
“Công tác phát triển Đảng trong các đơn vị liên doanh”; “Công tác phát triển Đảng
trong các đơn vị doanh nghiệp Nhà nước”; “Công tác phát triển Đảng trong các đơn
vị trường học”; “Công tác phát triển Đảng trong Hội Cựu chiến binh Dân Chính
Đảng”. Qua đó, đã phát huy được tính sáng tạo, tìm tòi, vừa để nâng cao khả năng
tiếp cận thực tiễn; vừa nâng cao nhận thức, sự vận dụng giữa lý luận và thực tiễn của
từng đảng viên. Đồng thời, có tác dụng sâu sắc thúc đẩy hoạt động xây dựng Đảng ở
các đơn vị cơ sở.
Tăng cường tạo nguồn phát triển Đảng, bồi dưỡng quần chúng ưu tú, thông qua
việc phát động phong trào thi đua yêu nước thường xuyên, liên tục ở cơ sở có kết
quả, nhất là nhân dịp các ngày lễ lớn trong năm, đã thu hút lực lượng quần chúng
tham gia ngày càng đông, xuất hiện nhiều điển hình, nhân tố mới, tạo nguồn cho công
tác phát triển Đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã mở được 12 lớp bồi dưỡng kết nạp
Đảng, với trên 1200 quần chúng tham gia. Chủ động khảo sát và tổ chức thành công

hội nghị chuyên đề “bàn về công tác phát triển Đảng 2 năm 1996 - 1997”, phối hợp
với Thường vụ Tỉnh đoàn mở rộng hội nghị chuyên đề bàn về công tác phát triển
Đảng trong đoàn viên thanh niên.
Cuối mỗi năm, để chuẩn bị cho kế hoạch năm mới, Đảng uỷ hướng dẫn cấp uỷ
cơ sở dựa vào “nguồn” quần chúng của mình, đăng ký chỉ tiêu phấn đấu kết nạp
Đảng. Tuy nhiên, chỉ tiêu đó không phải bất biến, vào kỳ trực báo giữa năm, Đảng uỷ
sẽ nghe cơ sở báo cáo tình hình, theo đó cùng bàn giải pháp, đồng thời có thể điều
chỉnh lại chỉ tiêu. Thực tiễn trong những năm qua, các cấp uỷ rất ít khi phải điều
chỉnh chỉ tiêu kết nạp Đảng; điều đó chứng tỏ, cấp uỷ nắm chắc đội ngũ quần chúng
8


của mình và chăm lo công tác phát triển Đảng. Suốt nhiệm kỳ qua, năm nào Đảng bộ
cũng hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra, mặc dù có những năm rất bận rộn với công
tác Đại hội Đảng các cấp (1996, 1998, 2000).
Quan tâm đổi mới phương pháp chỉ đạo, phong cách lề lối làm việc và quy
trình xét duyệt kết nạp Đảng. Thường vụ Đảng uỷ phân công các đồng chí phụ trách
khối chịu trách nhiệm đôn đốc và cùng với cấp uỷ cơ sở thường xuyên rà soát lại đối
tượng, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của từng đối tượng, cùng tháo gỡ những vướng
mắc, về hồ sơ, quy trình tiến hành, hay tư tưởng nảy sinh từ quần chúng…Hàng tuần
trong giao ban cơ quan, Thường trực thường xuyên nhắc nhở các ban tham mưu, nhất
là Ban Tổ chức chủ động, tích cực tham mưu tốt cho cấp uỷ trong công tác phát triển
Đảng (báo tiến độ kết nạp, tình hình hồ sơ đối tượng, những vướng mắc trong quá
trình nghiên cứu…)
Hồ sơ cơ sở gửi lên được nghiên cứu một cách thận trọng, theo các thủ tục, quy
định của Đảng. Hồ sơ nào chưa rõ ràng, đều được Ban Tổ chức tiến hành cho bổ
sung, hoàn chỉnh đúng quy trình, quy định, trước khi trình Thường vụ. Những trường
hợp có liên quan đến vấn đề chính trị được BVCTNB Tỉnh uỷ, hoặc PA25 Công an
Tỉnh xác minh làm rõ, kết luận.
Trước mỗi cuộc họp xét kết nạp, phải chuẩn bị danh sách trích ngang của đối

tượng được xét duyệt, trong danh sách có đề cập đến những đặc điểm cần lưu ý của
bản thân cũng như gia đình. Các cuộc họp được duy trì đều đặn, thường xuyên theo
hướng đổi mới, nhanh chóng, phục vụ cơ sở kịp thời và đảm bảo quy trình chặt chẽ,
cứ 10 hồ sơ, xét kết nạp một lần, không để chậm trễ. Chưa có trường hợp nào kết nạp
rồi mà phải đưa ra Đảng vì lý do không đảm bảo tiêu chuẩn quy định.
Luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Ban Đảng và các đoàn thể trong công
tác phát triển Đảng như: Đoàn thanh niên DCĐ, Hội Cựu chiến binh…
1.2.b. Khuyết điểm, tồn tại

9


Mặc dù đã đạt được những thành tích nhất định, song công tác phát triển đảng
vẫn còn một số tồn tại đáng quan tâm, đó là:
+ Số lượng, chất lượng đảng viên mới có tăng hơn nhiệm kỳ trước, nhưng so
với tiềm năng quần chúng của Đảng bộ vẫn chưa tương xứng.
+ Một số ít đảng viên, kể cả đảng viên chủ chốt thoái hoá, biến chất tham
nhũng, buôn lậu, quan liêu, lãng phí, thậm chí vi phạm pháp luật đến mức phải ngồi
tù, đã tác động không tốt đến quần chúng, làm ảnh hưởng đến thanh danh của Đảng.
+ Trong phát triển Đảng chưa đều khắp ở các tổ chức cơ sơ Đảng, tỷ lệ đơn vị
có kết nạp Đảng năm cao nhất cũng chỉ đạt 69,5%, có những đơn vị cả nhiệm kỳ
không kết nạp được quần chúng ưu tú nào vào Đảng, có đơn vị làm công tác phát
triển Đảng không đều, cả năm không kết nạp, dồn cuối năm kết nạp tới 4 - 5 đảng
viên, gây tâm lý không tốt trong quần chúng.
+ Một số cấp uỷ chưa nắm vững thủ tục, quy trình, công tác phát triển Đảng,
nên khi đưa hồ sơ lên Đảng uỷ cấp trên đề nghị xét kết nạp lại phải trả về do thiếu thủ
tục, hoặc chưa đảm bảo điều kiện, làm kéo dài thêm thời gian phấn đấu của đối
tượng, gây tâm lý lo lắng không cần thiết cho quần chúng.
2. Khó khăn và nguyên nhân
2.1. Khó khăn

+ Những đơn vị có đơn thư tố cáo khiếu nại, những đơn vị nhiệm vụ chính trị
có khó khăn, hoặc những đơn vị thay đổi loại hình hoạt động kinh doanh cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến công tác phát triển Đảng.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến khó khăn
- Nguyên nhân khách quan:
+ Thực tế những năm qua và các năm tiếp theo Đảng và Nhà nước chủ trương
cải cách nền hành chính Quốc gia, đã hạn chế nhận thêm cán bộ, thậm chí có nơi phải
chuyển sang dạng hợp đồng ngắn hạn do không có biên chế.
10


+ Quy định 75 - QĐ/TW ngày 25/4/2000 ra đời, với những hướng dẫn kèm
theo Trung ương đã làm một bộ phận quần chúng ở Miền trung và Miền nam chùn
bước phấn đấu, sợ mình không đủ tiêu chuẩn để vào Đảng, vào cấp uỷ… kể cả một
số đảng viên là con em tập kết ra Bắc nay trở vào có gia đình ở trong vùng trước kia
địch chiếm đóng, có thân nhân tham gia chế độ cũ ở những mức độ khác nhau.
+ Trong cơ chế mới, kinh tế thị trường, có những mặt trái của nó tác động xấu
đến sự nghiệp xây dựng đất nước, đã hàng ngày hàng giờ tác động vào quần chúng;
những ai có bản lĩnh chính trị không vững vàng sẽ bị tật xấu tha hoá, làm cho biến
chất, chạy theo thực dụng, chạy theo đồng tiền phi nhân nghĩa, làm giàu với bất cứ
giá nào, không còn nghĩ đến lý tưởng cao cả mà Bác Hồ và Đảng đã dày công vun
đắp xây dựng nên, không còn biết được ai đã hy sinh để xây dựng nên nước Việt Nam
độc lập tự do, cho họ có điều kiện sống làm chủ đất nước như hôm nay, họ thờ ơ với
các hoạt động chính trị, thiếu ý thức rèn luyện, phấn đấu; một số còn mơ hồ về chính
trị. Cơ chế thị trường làm tha hoá bản chất, làm nảy sinh tệ nạn tiêu cực trong xã hội;
đảng viên, quần chúng thích làm việc trong lĩnh vực kinh tế, ít người thích làm công
tác Đảng, công tác đoàn thể, vì vậy ảnh hưởng không ít đến nguồn đào tạo và kế cận
phát triển đảng viên.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Một số cấp uỷ chưa thật sự chăm lo bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng, nhận thức

về Đảng, về Chủ nghĩa xã hội cho quần chúng, còn rất ít cuộc gặp gỡ, trao đổi tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng đối với Đảng, mới chỉ dừng lại những hoạt động sinh
hoạt truyền thống, học tập Nghị quyết mang tính tập trung do Đảng uỷ cấp trên tổ
chức, nên chưa sâu, chưa thật sự thấm trong từng đảng viên, quần chúng. Mà học tập
trung cũng theo kiểu teo dần, cấp trên nhiều ngày, nghiên cứu nhiều , sâu hơn; còn
đến quần chúng thì có nghị quyết học được một buổi, có nghị quyết tự nghiên cứu
theo kiểu “Cưỡi ngựa xem hoa”.

11


+ Có những trường hợp trước đây khi tuyển dụng vào cơ quan, không thẩm tra
rõ lý lịch, đến khi xác minh để phát triển Đảng thì bị vướng vào các quy định của
Đảng.
+ Một số cấp uỷ chưa thực hiện đầy đủ những Nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
thiếu cụ thể hoá nghị quyết và thiếu biện pháp cụ thể từng giai đoạn, do đó hiệu quả
chưa cao. Có nơi còn chạy theo chỉ tiêu đăng ký, thể hiện trong hồ sơ có khi thiếu điều
kiện, hoặc chất lượng chưa đảm bảo; có nơi cấp uỷ quá cầu toàn, cảm tính khắt khe
trong độ tuổi (đối với quần chúng là Cựu chiến binh), khi xét đến thời gian công tác,
còn thiếu tin tưởng vào năng lực của quần chúng (nhất là đối với Đoàn viên thanh
niên).
+ Mối liên hệ thông tin hai chiều giữa tổ chức cơ sở Đảng và Đảng uỷ cấp trên
cơ sở; giữa cấp uỷ cơ sở với các tổ chức quần chúng vẫn chưa được chặt chẽ, thông
suốt, thiếu nắm bắt kịp thời, thiếu kế hoạch phân công giúp đỡ, uốn nắn đối tượng
làm cho quá trình phấn đấu kéo dài, có quần chúng phấn đấu 7 – 8 năm liền, phải đi
học đối tượng tới 2 -3 lần, vẫn chưa được kết nạp, cá biệt có quần chúng phấn đấu tới
15 năm, trách nhiệm phần lớn do tổ chức cơ sở Đảng đó. Tình trạng trên thường xảy
ra ở những đơn vị cấp uỷ chưa quan tâm công tác phát triển Đảng.
+ Mặt khác, có đảng viên làm nhiệm vụ bồi dưỡng quần chúng vào Đảng,
nhưng lại buông lơi nhiệm vụ, chưa thực sự có trách nhiệm cao trong công việc được

giao. Bên cạnh đa số đảng viên phát huy tốt sau khi được kết nạp, vẫn còn một số
đảng viên thiếu ý thức phấn đấu liên tục, có tư tưởng thoả mãn đã tác động không
thuận lợi đến công tác phát triển Đảng. Một số tiêu cực trong đảng viên , kể cả đảng
viên chủ chốt làm ảnh hưởng xấu tới tâm lý, nhận thức của quần chúng về mục tiêu lý
tưởng của Đảng.
+ Một trong bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ tham nhũng đã và đang làm
Đảng trở thành quốc nạn, những việc tự phê bình và phê bình còn mang nặng tính
hình thức, bao che, chưa thực sự thẳng thắn; vì thế, qua các đợt phê bình, kiểm tra
không một đồng chí nào tự nhận là tham nhũng hay hối lộ (kể cả đảng viên có đơn
12


thư tố cáo, khiếu tố, khiếu nại…). Kết quả này đã phản tác dụng trong việc gương
mẫu, lôi cuốn quần chúng vào Đảng.
+ Một số tổ chức Đảng, nội bộ mất đoàn kết nội bộ kéo dài do nhiều nguyên
nhân: Lợi ích cá nhân, kèn cựa địa vị, hiềm khích cá nhân, gây lũng loạn trong nội bộ
Đảng nhằm mục đích không thực hiện được nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước giao,
tạo tiếng xấu trong đơn vị, địa bàn hoạt động… đã ảnh hưởng lớn đến quần chúng
trong cơ quan đó nói riêng và quần chúng toàn Đảng bộ nói chung, làm căng thẳng
không khí của đơn vị, không có lợi đến tiến trình xây dựng Đảng.
II. Xử lý tình huống vướng mắc trong công tác phát triển Đảng
1. Mục tiêu cần đạt được
Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng đã xác định phát triển kinh tế là trọng tâm,
xây dựng Đảng là then chốt. Trong xây dựng Đảng phải luôn luôn coi trọng công tác
phát triển Đảng. Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) đã đề ra nhiệm vụ cho toàn
Đảng “công tác phát triển Đảng phải nhằm tăng thêm sinh lực mới cho Đảng, trẻ hoá
đội ngũ, bảo đảm kế thừa và phát triển của Đảng”. Văn kiện Đại hội IX đã chỉ rõ:
“Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong
công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có Đảng viên. “Trên cơ sở

đó Thường vụ Đảng uỷ Dân Chính Đảng đã thống nhất chỉ đạo Toàn Đảng bộ đẩy
mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tèn luyện, giới thiệu quần chúng ưu tú phát
triển Đảng, tích cực kết nạp vào Đảng lực lượng quần chúng trẻ, có phẩm chất, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có tri thức, có trình độ, bảo đảm sự kế thừa và phát
triển không ngừng của Đảng. Phát triển đi đôi với củng cố tổ chức Đảng; đồng
thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách, nhằm
tăng thêm sức mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn công nghiệp
hóa – hiện đại hoá vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Phấn đấu trong nhiệm kỳ 2001 – 2005 phát triển từ 750 – 800 đảng
viên mới. Các tổ chức cơ sở Đảng có quần chúng đều kết nạp được đảng viên.
13


2. Giải pháp nhằm giải quyết khó khăn trong phát triển Đảng
Để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu nêu trên; đồng thời tập trung giải quyết khó
khăn đang đặt ra, theo chúng tôi cần có những giải pháp như sau:
2.1. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
NQTW6 (lần 2); nâng cao trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng; khắc phục những yếu kém, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về đạo
đức lối sống, xây dựng Đảng ngày cang trong sạch vững mạnh. Mỗi đảng viên phải
thật sự tiên phong gương mẫu, gắn bó mật thiết với quần chúng nơi công tác cũng như
nơi cư trú.
2.2. Đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, trú
trọng tuyên truyền, bồi dưỡng đường lối, chủ trương của Đảng, đạo đức cách mạng
cho quần chúng về lý tưởng của Đảng, để quần chúng xác định đúng đắn động cơ vào
Đảng. Thường xuyên phát động, tổ chức các phong trào thi đua phong phú về hình
thức, sâu sắc về nội dung, phù hợp nguyện vọng của quần chúng. Qua đó, phát hiện,
bồi dưỡng, giới thiệu những nhân tố tích cực, nhân tố mới giúp cấp uỷ phát triển
Đảng.
2.3. Trong công tác tạo nguồn, công tác phát triển Đảng phải gắn với quy

hoạch, đào tạo cán bộ, chú trọng lực lượng trẻ, trưởng thành từ phong trào quần
chúng; coi trọng Đoàn thanh niên là nguồn dự trữ chủ yếu, quan trọng nhất đối với
công tác phát triển Đảng. Đây là việc làm bức thiết có ý nghĩa sâu sắc trong chiến
lược lâu dài của Đảng vì Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin
cậy của Đảng. Đồng thời đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ phù
hợp với khả năng, nghiệp vụ được đào tạo, chú ý ngay lịch sử chính trị từ khi tuyển
người vào làm việc, khi cử quần chúng đi học đối tượng Đảng.
2.4. Tổ chức Đảng mà trước hết là đồng chí Bí thư, phó Bí thư phải thật sự là
trung tâm đoàn kết, có đủ trình độ năng lực, có kiến thức hiểu biết sâu sắc về tổ chức
Đảng và có đầu óc sáng tạo để biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực
14


trong cuộc sống, phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị. Quan tâm chỉ đạo chặt
chẽ từng khâu trong công tác phát triển Đảng. Các cấp uỷ cần có nghị quyết chuyên
đề bàn về công tác phát triển Đảng, ngay từ đầu năm bàn chương trình, kế hoạch
phân công đảng viên trực tiếp giúp đỡ từng đối tượng cụ thể, đảng viên được phân
công phải là những đồng chí có tâm huyết, trình độ, tinh thần trách nhiệm cao, có uy
tín đối với quần chúng. Định kỳ cấp uỷ chi bộ nghe đảng viên báo cáo tình hình phấn
đấu của quần chúng là đối tượng Đảng, có những biện pháp tháo gỡ vưỡng mắc nảy
sinh và có hướng trong thời gian tới; gặp gỡ đối tượng Đảng để lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của họ, động viên, uốn nắn trong quá trình phấn đấu. Phối hợp tốt giữa
Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng, nhất là thủ trưởng đơn vị để tạo điều
kiện về thời gian, kinh phí cho việc xác minh lý lịch phục vụ công tác phát triển
Đảng.
2.5. Thường vụ Đảng uỷ, Ban Chấp hành Đảng bộ phải có quyết tâm cao đưa ra
những biện pháp tích cực công tác phát triển Đảng theo đúng nguyên tắc, thủ tục của
Đảng đã quy định. Đảng uỷ cần mở hội nghị chuyên đề, rút kinh nghiệm và đề ra những
bài học bổ ích trong công tác phát triển Đảng. Tăng cường công tác chỉ đạo ở cơ sở, nhất
là những đợn vị yếu kém, mất đoàn kết kéo dài, những đơn vị còn chi bộ trắng, những

cấp uỷ khắt khe với công tác phát triển Đảng. Trong các đợt tập huấn về nghiệp vụ công
tác tổ chức, cần ưu tiên nội dung tập huấn: Quy trình bồi dưỡng, giới thiệu quần chúng
ưu tú cho Đảng.
2.6. Ban Tổ chức Đảng uỷ phải thường xuyên nắm chắc tình hình ở cơ sở đảm
bảo thông suốt thông tin liên lạc nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
để tham mưu tích cực, chính xác cho Thường vụ, phải hiểu và thành thạo nghiệp vụ
công tác phát triển Đảng hướng dẫn cấp uỷ cơ sở.
3. Những kiến nghị
Qua quá trình học tập và hoạt động thực tiễn trên lĩnh vực xây dựng Đảng nói
chung, công tác phát triển Đảng nói riêng ở Đảng bộ Dân Chính Đảng Thừa Thiên
Huế, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
15


3.1. Đảng bộ Dân Chính Đảng là một mô hình khảo nghiệm từ lâu, qua thực
tiễn cách mạng có nhiều vấn đề nảy sinh, nhiều ý kiến trái ngược nhau, vì thế các cấp
có thẩm quyền cần sớm có kết luận rõ mô hình, chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ
Dân Chính Đảng. Hiện nay còn nhầm lẫn giữa vai trò của Ban Cán sự Đảng, Ban cán
sự Uỷ ban nhân dân với cấp uỷ cơ sở. Vẫn có quan niệm cho rằng, Ban cán sự Đảng,
Đảng đoàn là cấp trên của cấp uỷ cơ sở, cũng có quan niệm cho rằng, Ban cán sự Uỷ
nhân dân tỉnh là cấp trên của cấp uỷ cơ sở; vì lẽ đó, có những mối quan hệ vướng
mắc, thậm chí có nơi dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, làm tổn hại đến uy tín và sức
mạnh của Đảng. Thực ra Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn không phải là cấp uỷ càng
không phải là cấp trên của Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở.
3.2. Sớm thống nhất mô hình lãnh đạo các đoàn thể quần chúng của tổ chức
đảng cấp trên cơ sở. Hiện nay Đảng bộ Dân Chính Đảng đang lãnh đạo trực tiếp và
toàn diện Đoàn thanh niên Dân Chính Đảng, Hội Cựu Chiến Binh Dân Chính Đảng,
nhưng lại không lãnh đạo tổ chức quần chúng rộng rãi nhất là Công đoàn, điều đó dễ
gây ra sự chồng chéo, bỏ sót, rất khó khăn cho Đảng uỷ đi sâu công tác phát triển
Đảng.

3.3. Nên có văn bản hướng dẫn thực hiện quy định 75 - QĐ/TW, đối với các
tỉnh bị Mỹ ngụy chiếm đóng, nhất là khâu thẩm tra lý lịch,
3.4. Đất nước ta có 54 dân tộc khác nhau, với nhiều tôn giáo, ở đó có quần
chúng tham gia công tác trong cơ quan Nhà nước. Thực hiện chủ trương của Bác Hồ
và Đảng là phải đoàn kết quần chúng tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công
Chủ nghĩa xã hội. Do đó Đảng cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể về việc phát
triển quần chúng là người có đạo vào Đảng, phổ biến những văn bản đó đến tận cấp
uỷ cơ sở Đảng và đảng viên. Hiện nay, đã có những văn bản về vấn đề trên nhưng chỉ
dừng lại Thường vụ Tỉnh uỷ; Như vậy, lực lượng trực tiếp làm công tác vận động
quần chúng và phát triển Đảng không hề biết nên tuyên truyền thế nào cho có sức
thuyết phục với quần chúng là người có đạo muốn gia nhập Đảng cộng sản Việt
Nam?
16


3.5. Nghiên cứu ban hành chế độ đãi ngộ, cho các đồng chí cấp uỷ cơ sở kiêm
nhiệm, ít nhất cũng được như cán bộ Nhà nước có phụ cấp trách nhiệm.
3.6. Sớm có văn bản hướng dẫn việc nâng cao chất lượng danh hiệu của tổ
chức cơ sở Đảng theo từng loại hình; danh hiệu đảng viên ưu tú xuất sắc; phân tích
chất lượng đảng viên hàng năm. Hiện nay, tình hình thế giới, đất nước đã đổi thay rất
nhiều trên mọi lĩnh vực chính trị - xã hội, nhưng trong Đảng vẫn dùng những văn bản
hướng dẫn cách đây 8 - 9 năm (2 nhiệm kỳ Đại hội Đảng), như: Hướng dẫn 355TC/TW ngày 10/7/1993 “v/v nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên”, Hướng dẫn
416-HD/TW ngày 20/8/1994 “v/v xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững
mạnh”; Hướng dẫn 893-HD/TC ngày 04/5/1995 “V/v xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
trong sạch vững mạnh” để tiến hành phân tích chất lượng đảng viên và phân loại tổ
chức cơ sở đảng, điều đó không phù hợp với tinh thần cách mạng tiến công của Đảng
ta.

PHẦN III - KẾT LUẬN


Phát huy truyền thống quý báu của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, trong thời kỳ cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng Xã hội
chủ nghĩa. Nêu cao ý thức tự lực, tự cường, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn,
nỗ lực phấn đấu vươn lên gặt hái thành quả ngày càng tiến bộ, nhất là trên lĩnh vực
xây dựng Đảng.
Nội bộ đoàn kết nhất trí, tin tưởng và chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, chung sức, chung lòng, quyết tâm thực hiện bằng được mọi nhiệm vụ được
giao, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của cả tỉnh.
Những khó khăn thách thức, thời cơ và nguy cơ tiếp tục đan xen tác động tới
nhiều hướng phát triển, năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên có
17


những mặt chưa ngang tầm nhiệm vụ, công tác phát triển Đảng chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có của Đảng bộ.
Đứng trước yêu cầu đó, việc xây dựng tổ chức cơ sơ Đảng trong sạch vững
mạnh là vấn đề sống còn của Đảng bộ Dân Chính nói riêng và Đảng cộng sản Việt
Nam nói chung, trong đó công tác phát triển Đảng đóng vai trò rất quan trọng, chúng
ta phải quyết tâm vượt qua khó khăn, rút ra và giải quyết có hiệu quả những vướng
mắc, để tạo thế và lực mới hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ
mới. Một trong những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức
là phải làm tốt công tác Đảng viên các mặt: Bồi dưỡng, nâng cao, sàng lọc và phát
triển đảng viên mới, công tác phát triển Đảng phải được làm thường xuyên, là việc
làm cần thiết vì sự nghiệp phát triển của Đảng, của thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá, đó cũng là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, của các đảng viên, của các đoàn
thể quần chúng trong Đảng bộ Dân Chính Đảng Thừa Thiên Huế.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng,
Nghị quyết Đại hội đại biểu của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XII và Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Dân Chính Đảng Thừa Thiên Huế lần thứ III, với truyền thống
cách mạng của Đảng, với tấm lòng yêu nước, yêu quê hương bằng trí tuệ và sức sáng

tạo, đảng viên, cán bộ công nhân viên toàn Đảng bộ Dân Chính Đảng Thừa Thiên
Huế quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra, giải quyết tốt những
vướng mắc trong công tác phát triển Đảng, góp phần cùng tỉnh nhà xây dựng “thiên
nhiên đẹp, xã hội đẹp và con người đẹp” cùng cả nước đẩy nhanh sự nghiệp xây
dựng đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”./.
-*-

18


19



×