Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 67 trang )

Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

LỜI MỞ ĐẦU.
Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, hệ
thống ngân hàng nước ta đã có những thay đổi đáng kể để đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế. Nét nổi bật đó là sự phân chia thành hai cấp của hệ thống ngân hàng, trong
đó Ngân hàng Thương mại ( NHTM ) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và
cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, còn Ngân hàng Nhà nước với vai trò
quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng. Sự phân chia này đã góp phần quan trọng thúc
đẩy kinh tế phát triển. Và khi nền kinh tế càng lớn mạnh thì yêu cầu đối với hệ
thống ngân hàng nói chung và hệ thống NHTM nói riêng lại ngày càng cao, đòi hỏi
các ngân hàg phải không ngừng đổi mới.
Tín dụng là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, là dịch vụ
sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất của các
NHTM. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng là một trong
những hình thức vay vốn hiệu quả. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng
đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ
( DNVVN )
nói riêng gặp không ít khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả...
đặc biệt là vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất lượng
tín dụng đối với DNVVN là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với NHTM, có
liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Từ nhận thức trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương
Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của mình nhằm
đóng góp những ý kiến trong phạm vi kiến thức của em về vấn đề nghiên cứu trên.

Chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về chất lượng tín
dụng đối với DNVVN, xem xét thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại


NHTMCPCTVN - Chi nhánh TP Hà Nội. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp và
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh TP Hà
Nội – NHTMCPCTVN.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương chính:

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

1


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi
nhánh Hà Nội.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

2


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về DNVVN mà nguyên nhân cơ
bản là do việc lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp khác nhau ở
từng nơi. Mặt khác, việc lượng hóa các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp
còn tùy thuôc vào rất nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mỗi nước,
độ lớn của các tiêu chí trong mỗi ngành nghề…
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động
từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở Việt Nam, cơ sở pháp lý để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của chính phủ về trợ giúp phát triển với doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định thì "Doanh nghiệp
nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật
được chia thành 3 cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao
động bình quân năm, cụ thể như sau:
DN siêu
nhỏ

Doanh nghiệp
nhỏ

Doanh nghiệp
vừa

Số lao
động

10 người
trở xuống.

Tổng
nguồn vốn
20 tỷ đồng
trở xuống.

Số lao
động
Từ trên
10 người
đến 200
người.

Tổng
nguồn vốn
Từ trên 20
tỷ đồng
đến 100 tỷ
đồng.

Công nghiệp và
xây dựng

10 người
trở xuống.

20 tỷ đồng
trở xuống.


Từ trên
10 người
đến 200
người.

Từ trên 20
tỷ đồng
đến 100 tỷ
đồng.

Thương mại và
dịch vụ

10 người
trở xuống.

20 tỷ đồng
trở xuống.

Từ trên
10 người
đến 50

Từ trên 10
tỷ đồng
đến 50 tỷ

Nông lâm
nghiệp và thủy

sản

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

Số lao
động
Từ trên
200
người
đến 300
người.
Từ trên
200
người
đến 300
người.
Từ trên
50 người
đến 100

3


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị
người.

đồng.


người.

Tùy theo tính chất , mục tiêu của từng chính sách, chương trình trợ giúp mà cơ
quan chủ trì có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho phù hợp.”
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường,
DNVVN còn có một số đặc điểm riêng biệt sau:

1.1.2.1. Các DNVVN chiếm số lượng lớn trên thị trường với tốc độ gia
tăng cao.
Với ưu điểm là vốn ít và số lao động nhỏ nên hiện nay tỷ lệ DNVVN luôn
chiếm số lớn trong hệ thống doanh nghiệp.
Các DNVVN hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương mại,
dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông lâm ngư nghiệp... và hoạt động dưới mọi hình
thức như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. và các cơ sở kinh tế
cá thể...nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các DNVVN chỉ cần
lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh, Vì thế mà hấp dẫn
nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này. Hiện nay
có không ít các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp của mình,
làm cho tốc độ gia tăng của các DNVVN rất cao.
1.1.2.2. DNVVN có tính năng động, linh hoạt cao trước những thay đổi
của thị trường.
So với doanh nghiệp lớn, DNVVN năng động, linh hoạt hơn trước những thay
đổi liên tục của thị trường. Với mỗi thay đổi của nền kinh tế, các DNVVN có khả
năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh hơn các doanh
nghiệp có quy mô vốn lớn. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, loại hình sản phẩm
đã giúp các DNVVN đứng vững được trong thị trường, đạt được hiệu quả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế.
Với quy mô vốn và lao động nhỏ, hệ thống tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý

ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Công
tác điều hành cũng mang tính trực tiếp cao. Các quyết định được thực hiện nhanh,
công tác giám sát được tiến hành chặt chẽ và không phải qua nhiều khâu trung gian,
tiết kiệm được một lượng lớn chi phí quản lý doanh nghiệp.
1.1.2.3. Trình độ công nghệ còn lạc hậu.
Do quy mô vốn nhỏ nên các DNNVV không có điều kiện đầu tư quá nhiều
vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Do
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

4


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

đó hiện nay đa số các DNVVN đang sử dụng công nghệ cách đây vài chục năm, thời
gian chiết khấu của máy móc đã hết. Chỉ trừ có một số ít DNVVN mới thành lập có
điều kiện mua thiết bị máy móc mới, đa số các DNVVN có năng lực kỹ thuật và
trình độ hạn chế làm giảm đáng kể năng suất lao động của DNVVN, dẫn đến khả
năng cạnh tranh bị giảm dần so với các doanh nghiệp mới thành lập và các doanh
nghiệp lớn. Có những DNVVN có điều kiện trang bị máy móc mới thì cũng theo
kiểu tự phát và không khoa học nên thiếu định hướng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, thiếu thông tin hướng dẫn, và không theo kịp với những biến đổi của công
nghệ mới trên thị trường.
Có rất nhiều nguyên nhân giải thích cho điều này, một trong những nguyên
nhân quan trọng là việc khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng của các DNVVN,
đặc biệt là nguồn vay trung và dài hạn.
1.1.2.4. Thương hiệu của DNVVN còn yếu kém.
Sự yếu kém về thương hiệu cũng góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh của

các DNVVN. Hầu hết các DNVVN chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh,
chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc
tế. Nhiều DNVVN chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa thường xuyên
tìm hiểu thị trường nước ngoài, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu.
Tuy nhiên theo nghiên cứu của các chuyên gia thì việc xây dựng một thương
hiệu rất tốn kém và mất thời gian, phải mất vài năm cho một thương hiệu quốc gia
và tầm 10 năm cho một thương hiệu quốc tế. Do đó, các DNVVN không nên “đơn
thương độc mã” xây dựng thương hiệu của mình, mà để giải quyết vấn đề đó thì một
trong các giải pháp đơn giản nhất đó là mua thương hiệu của các công ty và tập
đoàn lớn.
1.1.2.5. Năng lực quản lý thấp.
Năng lực của các nhà quản lý là một trong những nhân tố quan trọng nhất có
ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của DNVVN. Hội nhập quốc tế đã
buộc các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên
thương trường. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp, chú trọng
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu cũng như
chiến lược cạnh tranh.
Tuy nhiên hiện nay, số lượng DNVVN có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi,
trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ
doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh
doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế-xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh.
Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

5


Chuyên đề thực tập


GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các chính sách đãi ngộ hấp
dẫn để thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như những người lao động giỏi.
Dẫn đến một thực trạng là đã có khá nhiều DNVVN phá sản chỉ sau một thời gian
ngắn hoạt động.
1.1.2.6. Vị thế của DNVVN trên thị trường thấp.
Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao là các yếu
tốt trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNVVN. Nguồn tài chính của
DNVVN còn hạn chế, trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận được
các nguồn tài chính khác nhau. Các NHTM cũng như các tổ chức tài chính khác
thường e ngại, không muốn cho DNVVN vay vốn bởi vì họ chưa có quá trình kinh
doanh uy tín và chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Điều này ngăn cản sự mở rộng
doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khác như: khó khăn trong
việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn
trong việc cạnh tranh với các DN lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trên thị
trường. Khi nền kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNVVN khó
có khả năng chống đỡ và dễ dẫn đến bị phá sản.
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNVVN hiện nay chính là thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường của DNVVN thường nhỏ bé, không ổn định và
phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn, tồn tại như một bộ phận
của doanh nghiệp lớn.
Như vậy, với đặc điểm của mình thì trước mắt của các DNVVN cần tập trung
vào các thị trường nhỏ lẻ, địa phương và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng
hoá có giá bán thấp . Nếu có định hướng chiến lược dài hạn thì cần phải chú ý tới thị
trường của các địa phương khác và thị trường Quốc tế. Các DNVVN cần hiểu rõ vị
thế cạnh tranh của mình trên thị trường, nắm được các ưu điểm và các điểm yếu của
mình để có thể tồn tại và phát triển bền vững.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường.
Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường góp phần quan

trọng trong việc giải quyết những mục tiêu kinh tế – xã hội ở một số mặt:
1.1.3.1. Đóng góp một phần lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân.
DNVVN chiếm tỷ lệ cao về số lượng doanh nghiệp (chiếm 97% trong tổng số
doanh nghiệp trên cả nước ), thu hút nhiều lao động và đóng góp đáng kể vào tổng
thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của các nước thì DNVVN
đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước, bình quân chiếm
khoảng dưới 50% GDP ở mỗi nước.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

6


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

DNVVN hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề, đặc biệt là các
loại hàng hoá mang tính chất vùng, địa phương. Với nguồn lực sẵn có của địa
phương cùng với đội ngũ nhân công lành nghề của doanh nghiệp, rất nhiều sản
phẩm được ra đời đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. DNVVN tham gia cung cấp
một khối lượng hàng hoá đáng kể trong xã hội, đóng vai trò quan trọng trong lưu
thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế.
1.1.3.2. Góp phần giải quyết công ăn việc làm.
Sự có mặt của các DNVVN đã tham gia giải quyết một số lượng lớn lao động
trên cả nước, đặc biệt là lao động giản đơn, lao động thủ công, làm giảm sức ép việc
làm trong xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Mặc dù số lao động của mỗi DNVVN ít nhưng do số lượng DNVVN lớn nên
tổng số lao động làm việc tại các DNVVN chiếm tỷ lệ rất cao. Vì thê vai trò của các
DNVVN hết sức quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu

việc làm của người dân, góp phần tạo ra thu nhập và nâng cao mức sống cho người
dân.
1.1.3.3. Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ.
Do tính chất nhỏ bé, quy mô vốn ban đầu không nhiều nên DNVVN có thể
được thành lập ở tất cả địa phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm
chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực tài nguyên sẵn có.
DNVVN đã sử dụng hơn ½ lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp
(58%) trong cả nước, và tại một số vùng nó đã sử dụng tuyệt đại đa số lực lượng sản
xuất lao động phi nông nghiệp.
Khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân tham gia vào sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công
nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch vụ phát
triển.
1.1.3.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển có hiệu quả hơn.
Sự hình thành rất nhiều DNVVN trên mọi lĩnh vực, làm cho số lượng và
chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh
trên thị trường, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp thường xuyên phải đổi mới mặt
hàng, giảm chi phí, tăng chất lượng để thích ứng với môi trường mới và có thể cạnh
tranh với các doanh nghiệp khác. Những yếu tố đó có tác động lớn làm cho nền kinh
tế năng động và hiệu quả hơn.
Việc hình thành các cơ sở sản xuất ngay tại nông thôn, hình thành các đô thị
nhỏ đan xen giữa những làng quê, thực hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung có ý

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

7


Chuyên đề thực tập


GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình CNH-HĐH ở các nước đang phát triển như
nước ta.
1.1.3.5. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng
động.
Các DNVVN thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi trường xung
quanh, phản ứng với những tác động bất lợi của nền kinh tế, đòi hỏi những người
quản lý và sáng lập ra các DNVVN phải có tính linh hoạt cao trong quản lý và điều
hành, dám nghĩ, dám làm và chấp nhận sự mạo hiểm.
Tịch tụ, tập trung hoá sản xuất, sáp nhập, giải thể là các hoạt động thường
xuyên diễn ra ở khu vực DNVVN trong mọi giai đoạn. Đây là một sức ép lớn buộc
các nhà quản lý các DNVVN luôn phải đổi mới, tìm kiếm các phương thức mới, đặt
ra nhiệm vụ chuyển đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh.
Với một số lượng lớn và một tỷ lệ lớn các DNVVN, thì sự có mặt của đội ngũ
các nhà quản lý này có một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một cơ cấu kinh
tế năng động, linh hoạt và phù hợp với những biến động thị trường.
Qua các phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rõ vai trò và tầm quan trọng của
các DNVVN đối với kinh tế. Do đó, việc khuyến khích, hỗ trợ phát triển các
DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nước ta trong thời gian tới.
1.2.

Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
1.2.1. Tín dụng ngân hàng.
1.2.1.1. Khái niệm.
Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay
cả trong quan hệ tài chính tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể, mà thuật ngữ tín dụng có

một nội dung riêng. Chúng ta có thể được thuật ngữ tín dụng như sau: “Tín dụng là
một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá ) giữa bên cho vay (ngân hàng và các
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc
và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Từ định nghĩa tín dụng trên ta có khái niệm về tín dụng ngân hàng:
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các
chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay vừa là người cho vay”.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

8


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá
nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu.
Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi các đối tượng này có nhu cầu về vốn bổ sung trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện
chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
1.2.1.2. Đặc trưng.

Về cơ sở tín dụng: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Chỉ
khi ngân hàng tin tưởng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả
đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng thì lúc đó mới thiết lập quan hệ tín dụng. Đây là
yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế khi một số nhân viên tín
dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về
khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan điểm này đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng.
Về tài sản giao dịch: tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng tồn
tại ở hai hình thức là cho vay và cho thuê (bất động sản và động sản). Trước đây,
hoạt động tín dụng ngân hàng chỉ có hình thức cho vay bằng tiền. Từ những năm
1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính đã được ngân
hàng hoặc các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Về nguyên tắc hoàn trả và thời gian hoàn trả: Tín dụng là quan hệ vay mượn
dựa trên nguyên tắc có hoàn trả. Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời vốn vay
trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng đã thoả thuận thì người
đi vay phải hoàn trả cho ngân hàng.
Về giá trị hoàn trả: giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay
nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài gốc. Để thực hiện được
nguyên tắc này, ngân hàng phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát,
hay nói cách khác lãi xuất thực phải dương ( Lãi suất thực = Lãi xuất danh nghĩaTỷ lệ lạm phát ). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau,
nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm
phát. Ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và sẽ được điều chỉnh nhanh
chóng.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi
các quy luật khách quan như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

9



Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

và quy luật lưu thông tiền tệ. Hoạt động TDNH trong nền kinh tế thị trường luôn
chứa đựng khả năng rủi ro vì nếu người vay vốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả
thì mới trả được cho ngân hàng. Trong khi đó, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến
người vay như: giá cả thị trường biến động, thiên tai , khủng hoảng kinh tế, chính
trị.
1.2.1.3. Phân loại.
Theo luật các tổ chức tín dụng thì: “Các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy
tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
ngân hàng Nhà nước”. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo
từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có cơ sở
khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng. Người ta có thể dựa trên những tiêu chí khác nhau để phân
loại tín dụng:
1.2.1.3.1. Căn cứ vào mục đích cho vay:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn và bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế
tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm

các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải cho các chi phí thông
thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại: cho thuê hoạt động
và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó
chủ yếu là máy móc, thiết bị.
1.2.1.3.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng, được
sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

10


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

- Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến
60 tháng, để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi
vốn nhanh. Bên cạnh đó, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động
thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Cho vay dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên
và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên
đến 40 năm. Loại tín dụng này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như:
xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí
nghiệp mới.
1.2.1.3.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.

- Cho vay có tài sản bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như: thế
chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Tài sản đảm bảo các khoản
tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài
sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có được hoặc không đủ.
- Cho vay không có tài sản bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp , cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp trong các
trường hợp:
+ Khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình
hình tài chính mạnh, ít nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của
người vay.
+ Các khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ.
+ Các khoản vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc các
khoản cho vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán
hàng.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký
hợp đồng đảm bảo.
1.2.1.3.4. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp
đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm:
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ.
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể, mà
việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

11



Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

- Cho vay không có thời hạn: đối với loại cho vay không có thời hạn thì ngân hàng
có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào nhưng phải báo
trước một thời gian hợp lí, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
1.2.1.3.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời
người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới với việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần, các DNVVN tại Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ với
số lượng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên khối doanh nghiệp này vẫn còn gặp phải
rất nhiều khó khăn như các vấn đề về nhân sự, hợp tác, liên kết, quản lý…trong đó,
vấn đề lớn nhất là nguồn vốn kinh doanh và quản lý tài chính. Các doanh nghiệp
này chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về tầm quan trọng của quản lý tài chính,
nên tiềm lực kinh doanh chưa được phát huy một cách tối đa. Như vậy, suy cho
cùng thì tài chính là yếu tố sống còn đối với các doanh nghiệp nói chung và
DNVVN nói riêng.
TDNH là một hình thức vay vốn hiệu quả và rất quan trọng đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Và với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ
của ngành ngân hàng hiện nay, vấn đề tài chính đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là
các DNVVN đang dần trở nên dễ dàng hơn. Để thấy được vai trò của TDNH đối với
các DNVVN, ta đi vào một số điểm chính sau:
1.2.2.1. Hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNVVN.
Một doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao thể hiện doanh nghiệp đó có kết quả

kinh doanh hiệu quả. Thông qua việc chuyển hướng đầu tư từ các doanh nghiệp có
tỷ suất lợi nhuận thấp sang các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, TDNH tác
động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư. Qua đó, TDNH làm thay đổi cơ cấu ngành
kinh tế. Và khi cơ cấu ngành thay đổi, các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN
phải thay đổi loại hình sản phẩm để phù hợp với yếu tố cung – cầu trên thị trường.
Khi một ngành kinh tế càng phát triển thì số lượng DNVVN ở ngành đó càng đông
và hoạt động càng sôi nổi.
1.2.2.2. Góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của DNVVN.
Trong nền kinh tế thị trường, việc chiếm lĩnh ưu thế cạnh tranh của các
DNVVN trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

12


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

khăn. Để thích ứng được với môi trường kinh tế hiện đại, xu hướng hiện nay của các
DNVVN là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản
xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại nhằm nâng cao sức cạnh tranh. Để làm được điều đó
trong khi nguồn vốn tự có hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì các DNVVN buộc
phải tiếp cận các nguồn vốn vay bên ngoài. Do những điểm hạn chế của DNVVN
mà việc tiếp cận các nguồn vốn vay của loại hình doanh nghiệp này là không dễ
dàng.
Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống NHTM trong thời gian gần đây là chìa
khóa cho những khó khăn về vốn của các DNVVN. TDNH được coi là một kênh
huy động vốn hiệu quả đối với DNVVN, đặc biệt là lượng vốn lớn phục vụ cho việc
mua sắm trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất. Khi vốn

được giải ngân, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp tăng lên thì các DNVVN cũng
có cơ hội để mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh, liên kết, chiếm lĩnh thị trường
và nâng cao vị thế cạnh tranh.
1.2.2.3. Góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNVVN.
Trong nền kinh tế thị trường, không một doanh nghiệp nào chỉ dùng vốn tự
có mà có thể duy trì và phát triển. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng sử dụng nguồn
vốn vay như là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với các DNVVN, do hạn chế về vốn cũng như khả năng tiếp cận các kênh huy
động vốn, mà TDNH trở thành một kênh quan trọng để các DNVVN sử dụng đòn
bẩy tài chính trong kinh doanh.
Thông qua nguồn vốn này, DNVVN xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo kết
hợp hiệu quả giữa vốn vay và vốn tự có nhằm sản xuất tại giá vốn bình quân rẻ nhất,
nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có
như vậy thì doanh nghiệp mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
1.2.2.4. Góp phần cho các DNVVN hoạt động liên tục và hiệu quả.
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển thì phải luôn luôn nhạy bén. Đặc biệt đối với các DNVVN, là
lực lượng đông đảo nhưng vị thế cạnh tranh thấp thì việc cải tiến kỹ thuật thay đổi
mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị…là vấn đề có quyết định
sống còn đến doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện cho các DNVVN đầu tư xây dựng cơ
bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần
tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.
Ngoài ra, TDNH với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”, “vay có
hoàn trả”, đã thúc đẩy các doanh nghiệp, trong đó có các DNVVN nâng cao hiệu
quả kinh tế của việc sử dụng vốn.
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

13



Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

1.2.2.5.

Hình thành cơ cấu các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” tối ưu
cho DNVVN.
Khi sử dụng vốn TDNH, các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng,
đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp
đồng. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có
phương án sản xuất kinh doanh khả thi và thực hiện phương án đó một cách có hiệu
quả nhất. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng
vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải
lớn hơn lãi suất ngân hàng. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát
trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục
đích và có hiệu quả.
Khi cho vay một doanh nghiệp, ngân hàng luôn phải xem xét hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Thông qua việc chỉ cho vay đối với những
doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt, hàng hóa chất lượng cao… TDNH đã tham gia
vào việc xác lập cơ cấu kinh tế theo hướng mới. Những doanh nghiệp hoạt động
không hiệu quả, và những mặt hàng kinh doanh không hiệu quả sẽ nhường chỗ cho
các doanh nghiệp kinh doanh có lãi và các mặt hàng kinh doanh có hiệu quả. Khi cơ
cấu các sản phẩm “đầu ra” thay đổi, thì cơ cấu các yếu tố “đầu vào” trong sản xuất
cũng sẽ thay đổi theo.
1.2.3. Chất lượng tín dụng đối với DNVVN.
1.2.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng (người vay
tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của

ngân hàng. Chất lượng tín dụng là kết quả của mối quan hệ biện chứng giữa khách
hàng – xã hội – ngân hàng. Do đó, để đánh giá chất lượng tín dụng, ta cần xem xét ở
cả ba khía cạnh: xã hội – khách hàng – ngân hàng.
• Xét dưới góc độ xã hội:
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng tín dụng được đánh giá qua
mức phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm,
khai thác các khả năng trong nền kinh tế, thúc đẩy qua trình tích tụ và tập trung sản
xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế,
hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
• Xét dưới góc độ khách hàng:
Chất lượng tín dụng với khách hàng biểu hiện dưới các khía cạnh:
+ Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng và phải đảm
bảo co nhu cầu của khách hàng.
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

14


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

+ Việc cấp vốn phải kịp thời, thủ tục đơn giản nhưng vẫn đảm bảo.
+ Lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, phù hợp với chu kỳ kinh doanh.
• Xét dưới góc độ ngân hàng:
Xét trên góc độ ngân hàng thì hoạt động tín dụng của NHTM chủ yếu quan tâm đến
mức độ an toàn tín dụng và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng
mang lại. Chất lượng tín dụng thể hiện qua các khía cạnh:
+ Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng hải phù hợp với thực lực của ngân hàng.
+ Đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, làm lành mạnh hoá các quan hệ

kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển. Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỉ tiêu
lợi nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa
nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (thể hiện
qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng
phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài
và thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Do đó
việc tăng cường quản lý chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động tại các
NHTM luôn là một yêu cầu bức xúc, là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân
hàng cũng như cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế quốc dân.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.2.3.2.1. Nợ quá hạn.
Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến thời hạn thanh toán
khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối
với khoản vay.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
*100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp
vụ tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín
dụng cao và ngược lại.
Thực tế, chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của
một ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý
do đã thực hiện tốt các khâu trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có
được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá
hạn theo đúng qui định…
SV thực hiện: Mai Thị Thu.


15


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

Đối với hoạt động ngân hàng, nợ quá hạn nào dẫn đến rủi ro ứ đọng vốn, làm
ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn, giảm khả năng thanh toán,
thậm chí làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Trên góc độ vĩ mô, nợ quá hạn làm giảm tính tích cực của hoạt động tín dụng
của NHTM đối với nền kinh tế. Nợ quá hạn quá cao sẽ dẫn đến sự sụp đổ dây
chuyền của hệ thống ngân hàng thương mại.
1.2.3.2.2. Thu nhập từ hoạt động cho vay.
Thu nhập từ hoạt động cho vay
Tỉ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay =
Chi phí cho hoạt động cho vay
Đối với ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Công thương nói
riêng thì cho vay là nghiệp vụ chủ yếu và thu nhập từ nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng
rất cao, thông thường chiếm từ 70% đến 80% trong tổng thu nhập. “Thu nhập từ
hoạt động cho vay là số tiền dôi ra mà ngân hàng thu được do hoạt động cho vay
đem lại”.
Nếu tỷ lệ trên > 1: Hoạt động kinh doanh tín dụng có lãi
Nếu tỷ lệ trên =1: Hoạt động kinh doanh tín dụng hoà vốn
Nếu tỷ lệ trên <1: Hoạt động kinh doanh tín dụng bị lỗ.
1.2.3.2.3. Vòng quay vốn tín dụng.
Doanh số trả nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay bao nhiêu

lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân
hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vòng
quay vốn tín dụng càng cao cho thấy chất lượng tín dụng cao. Bởi vì nó phản ánh
hoạt động tín dụng lành mạnh của ngân hang, khách hang của ngân hang là những
người có uy tín và độ tín nhiệm cao, trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi, đồng thời còn
phản ánh khả năng thu hồi nợ xấu nhanh. Để có được kết quả này thì quy trình tín
dụng, đặc biệt là khâu thẩm định tín dụng của ngân hàng đã được thực hiện rất cẩn
thận và nghiêm túc.
Vòng quay vốn tín dụng tăng còn làm tăng doanh thu từ hoạt động tín dụng cho ngân
hàng, bởi vì ngân hàng không phải bỏ phí ra để huy động thêm nguồn vốn khác mà vẫn
có thể dùng nguồn vốn đang có để cho vay thêm một hay một số lần nữa trong cùng một
khoảng thời gian xác định.
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

16


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

1.2.3.2.4. Mức sinh lời của tín dụng.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Mức sinh lời của tín dụng =
Tổng dư nợ
Lợi nhuận, mà đặc biệt là lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là yếu tố được
quan tâm hàng đầu của một NHTM. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng cao
thể hiện kết quả kinh doanh của ngân hàng đó là tốt, thể hiện rằng chi phí bỏ ra để
thu được một đồng lợi nhuận của ngân hàng đó thấp. Ví dụ như, để huy động một
lượng vốn thì ngân hàng phải bỏ ra lãi suất huy động, chi phí huy động khác…

nhưng nếu sử dụng nguồn vốn huy động đó vào một khoản tín dụng tốt, khả năng
thu hồi nhanh thì lợi nhuận thu về sẽ cao hơn so với khoản tín dụng mà khả năng
thu hồi đúng hạn là khó khăn.
Mức sinh lời của tín dụng cho phép xác định chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng tốt và ngược lại.
1.2.3.2.5. Tỷ lệ thu nợ từ thanh lý tài sản cố định.
Thu nợ từ xử lý TSCĐ
Tỷ lệ thu nợ từ thanh lý TSCĐ =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ thu nợ từ thanh lý tài sản cố định cho ta biết ngân hàng thu được bao
nhiêu phần trăm các khoản nợ quá hạn và nợ xấu thông qua việc thanh lý tài sản cố
định. Tỉ số này tỷ lệ thuận với số tiền thu được từ xử lý tài sản cố định.
Nếu số tiền thu được từ xử lý tài sản cố định là lớn thì tỷ lệ này cao. Tuy nhiên
thu nợ từ xử lý TSCĐ cao chưa chắc đã tốt, nó có thể cho biết nợ quá hạn của ngân
hàng cao, tức là phản ánh chất lượng tín dụng thấp.
Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nợ từ thanh lý TSCĐ thấp, có thể thể hiện nợ quá hạn
của ngân hàng thấp, tức là chất lượng tín dụng tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ này thấp có thể
cũng nói lên khả năng thu hồi nợ quá hạn của ngân hàng kém, và điều này không có
lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Do đó, để có một cái nhìn chính xác về chất lượng tín dụng của một ngân hàng
thì cần phải đánh giá tổng hợp các chỉ tiêu để có kết luận đúng nhất.
1.2.3.2.6. Tổng dư nợ.
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cung cấp cho nền
kinh tế tại một thời điểm.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

17



Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

Con số này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn,
mối quan hệ với khách hàng càng có uy tín.
Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp, ngân hàng không có khả
năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém.
Tuy vậy tổng dư nợ cao chưa chắc đã phản ánh chất lượng tín dụng cao, vì nó còn
phụ thuộc vào cân đối nguồn vốn huy động được của ngân hàng đó.
Tóm lại, có rất nhiều chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá chất lượng tín dụng của một
ngân hàng. Mỗi chỉ tiêu đưa ra một khía cạnh để nhận xét và đánh giá về chất lượng
tín dụng của ngân hàng đó, và các chỉ tiêu có mối quan hệ khá logic với nhau Do đó,
khi đánh giá chất lượng tín dụng, ngân hàng phải dựa vào tổng thể các chỉ tiêu trên
để có một kết luận chính xác nhất.
1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Ngoài các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng, ta còn xem xét các nhân tố
ảnh hưởng đến nó để có biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng tín dụng. Có 3
nhóm nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là: khách hàng, ngân hàng
và các nhân tố khách quan khác.
1.2.3.3.1. Về phía ngân hàng.
 Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó
có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Bất cứ NHTM
nào muốn có chất lượng tín dụng tốt đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng và phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của người gửi
tiền, của ngân hàng và người vay tiền. Đối với NHTM, chính sách tín dụng đúng
đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, trên cơ sở phân tán rủi
ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước, đồng thời đảm bảo
được tính công bằng.

Với chính sách tín dụng do ngân hàng nhà nước ban hành, các NHTM dựa vào
đó để đề ra các chính sách cho phù hợp với ngân hàng của mình. Đây là kim chỉ
nam cho hoạt động tín dụng, là văn bản thể hiện chiến lược và đường lối của NHTM
trong việc thực thi các giao dịch trong từng thời kỳ. Trong đó có quy trình về một
nghiệp vụ cho vay chuẩn để quy định trình tự các bước tiến hành trong quá trình xét
duyệt cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo các khoản vay để tạo ra các khoản vay chất
lượng tốt.
Hiện nay, chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng chưa chặt chẽ làm ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng. Việc quy định theo dõi kiểm tra sau khi cho vay
không cụ thể rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

18


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

theo dõi kiểm tra sử dụng tiền vay của khách hàng dẫn đến một số kẻ lừa đảo lợi
dụng sơ hở thể chế để chiếm đoạt vốn.
 Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Thông tin chính xác
về khách hàng là cơ sở để ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân vốn vay, theo
dõi và quản lý chất lượng khoản vay.
Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện thì khả năng xảy ra
rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng giảm. Trong tương lai, khi có sự lớn mạnh
giữa các ngân hàng và doanh nghiệp thì việc thu thập thông tin sẽ đầy đủ và chính
xác hơn.
 Công tác tổ chức của ngân hàng.

Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác động
đến mọi hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất
và cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong các hoạt động của NHTM, do đó càng
cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ phận, các phòng ban. Công tác
tổ chức hợp lý giúp cho ngân hàng rút ngắn thời gian thẩm định nhưng vẫn đảm bảo
tính chính xác trong quá trình thẩm định, vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng vừa
phục vụ khách hàng tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng.
Vì vậy, tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có
khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã quy định
cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng.
Bên cạnh đó, cần có sự thiết lập mối quan hệ với các chi nhánh, các ngân hàng
thương mại khác, các tổ chức tài chính, pháp luật….Việc thiết lập các mối quan hệ
này sẽ tạo điều kiện cho NHTM quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát
hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng khi cần thiết.
 Chất lượng nhân sự.
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý hoạt động của
các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng. Sự phát triển của hệ thống
ngân hàng đòi hỏi chất lượng cán bộ tín dụng ngày càng cao cả về tư cách đạo đức
lẫn kiến thức chuyên môn.
Về kiến thức chuyên môn, cán bộ tín dụng cần am hiểu quy chế - quy trình –
quy phạm về lĩnh vực tín dụng, có khả năng phân tích, thẩm định dự án để đánh giá
tính khả thi của dự án, có khả năng phân tích báo cáo tài chính một cách chính xác,
phân tích khả năng quản lý doanh nghiệp và phải biết được năng lực thực sự của
khách hàng trước khi thiết lập quan hệ tín dụng.
Một cán bộ tín dụng đạt tiêu chuẩn là người có tư cách đạo đức tốt, có lương
tâm và đạo đức nghề nghiệp. Có như thế thì cán bộ tín dụng mới tránh khỏi những
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

19



Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

cám dỗ của đồng tiền. Trên thực tế đã có không ít những món vay không đảm bảo
an toàn cho ngân hàng nhưng vẫn được cán bộ tín dụng cho phép, gây ra những tổn
thất lớn cho ngân hàng và cho xã hội.
 Quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp
nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân,
thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong việc
bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng.
Quy trình tín dụng bao gồm các bước: lập hồ sơ vay vốn, phân tích tín dụng,
ra quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát tín dụng, thanh lý hợp đồng tín dụng.
Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt
quan trọng đối với một ngân hàng thương mại.
Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng
cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng:


Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong
hoạt động tín dụng.



Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.

 Kiểm soát nội bộ.

Kiểm soát nội bộ là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi
ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng
thường xuyên, chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng được thực hiện một
cách đúng hướng, đúng nguyên tắc, đúng qui chế tín cũng như qui trình tín dụng.
Đây là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín
dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng
cao chất lượng tín dụng.

1.2.3.3.2. Về phía khách hàng.
 Năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh doanh.
Xem xét triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp cần xuất phát từ yếu tố con
người. Một doanh nghiệp có những nhà quản lý kém năng động, kém nhạy bén
trong kinh doanh, đội ngũ nhân viên với trình độ thấp và tính kỷ luật không cao... thì

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

20


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

doanh nghiệp đó rất dễ bị thua lỗ, dẫn đến khả năng trả nợ kém, ảnh hưởng xấu đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Do vậy, chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh
nghiệm quản lý kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh
doanh có hiệu quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn
trả đúng hạn nợ ngân hàng cả gốc lẫn lãi
 Tiềm lực tài chính và triển vọng kinh doanh của khách hàng

Tiềm lực tài chính của một doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn tự
có, hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi hàng năm....Một doanh nghiệp
có tiềm lực tài chính mạnh thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng cao. Do đó các
doanh nghiệp này sẽ ưu thế hơn trong việc huy động vốn nói chung và vay vốn ngân
hàng nói riêng.
Triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng. Nếu một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần bị thu hẹp, nhà
cung cấp không ổn định, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn thì tất nhiên khả
năng hoàn trả vốn tín dụng cho ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Do đó, khi ra
quyết định cấp tín dụng thì ngân hàng cần xác định rõ triển vọng kinh doanh của
doanh nghiệp đó là tốt hay không.
 Đạo đức và uy tín của khách hàng.
Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho vay
sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ
của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người vay có thể
gây nên.
Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng.
Thực tế, tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi trước và
sau khi món vay được thực hiện. Nếu khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng thông qua
việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng
mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh...và hành vi này
không được cán bộ tín dụng phát hiện, thì ngân hàng đã có một khoản tín dụng xấu.
Uy tín của khách hàng là tiêu chí để đáng giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết
thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng từ phía khách hàng. Uy tín của
khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả
hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản
phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và
ngân hàng. Uy tín của khách hàng được xác lập bằng kết quả thực tế sau mỗi lần
thiết lập quan hệ tín dụng trong một thời gian dài. Do đó, ngân hàng cần thu thập và


SV thực hiện: Mai Thị Thu.

21


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

phân tích thông tin khách hàng một cách chính xác để xác định đúng đắn mức độ uy
tín của khách hàng đó.

1.2.3.3.3. Các nhân tố khác.
 Môi trường kinh tế
Sự ổn định của nền kinh tế: Sự ổn định của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng tín dụng. Kinh tế ổn định là môi trường đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành dễ dàng, không bị ảnh hưởng
bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính, do đó khả năng cho vay và trả nợ vay không bị
biến động nhiều.
Tính chu kỳ của nền kinh tế: Chu kỳ phát triển kinh tế cũng tác động không
nhỏ tới chất lượng tín dụng. Trong thời kỳ suy thoái, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp,
nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn, các khoản tín dụng đã
tiến hành cũng khó được hoàn trả.
Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, nhu cầu về vốn vay trở
nên quá lớn. Chính phủ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững đề ra một số
biện pháp nhằm hạn chế đầu tư. Định hướng này của chính phủ sẽ tác động đến hệ
thông ngân hàng thông qua chính sách tiền tệ, thắt chặt chính sách tín dụng, các
khoản tài trợ cho nền kinh tế sẽ được xem xét một cách kỹ lưỡng hơn trước khi
quyết định đầu tư, từ đó khả năng xảy ra rủi ro cho ngân hàng sẽ ít hơn. Hơn nữa để
đáp ứng nhu cầu tín dụng cho một nền kinh tế đang phát triển, đòi hỏi bản thân ngân

hàng cũng phải đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Sự đổi mới này diễn ra ở tất
cả các khâu bao gồm công tác tổ chức, trang thiết bị, trình độ nhân sự...nhờ đó mà
chất lượng tín dụng cũng được nâng lên.
 Môi trường chính trị - xã hội
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý
hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ
thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng bộ thì sẽ càng đem lại hiệu quả hoạt động cao
cho ngân hàng, đảm bảo đựơc chất lượng tín dụng của các doanh nghiệp đối với
ngân hàng.
Môi trường chính trị xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan trọng trong
việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, là cơ sở rất tốt cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng. Vì chỉ khi có
nhu cầu đầu tư dài hạn trong nền kinh tế thì mới xuất hiện nhu cầu vay vốn trung dài
hạn ngân hàng.
Ngược lại, sự mất ổn định về chính trị - xã hội sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt
động của các ngân hàng và của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang vay vốn
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

22


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

ngân hàng trong thời kỳ này thì rõ ràng việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp nhiều
khó khăn, chất lượng tín dụng của ngân hàng bị giảm sút.
 Môi trường pháp lý
Trong quá trình chuyển đổi kinh tế đất nước, việc điều chỉnh các chính sách là
điều không thể tránh khỏi. Những điều chỉnh này đã và đang có tác động hai mặt

đến hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và chất lượng tín dụng ngân
hàng nói riêng.
Việc điều chỉnh các văn bản, chính sách, đặc biệt là các chính sách liên quan
đến hoạt động của NHTM góp phần mở rộng và hoàn thiện hành lanh pháp lý, giúp
cho hoạt động của các ngân hàng được hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho sự phát triển
nhanh chóng của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh các luật, nghị định không đồng bộ nhau có ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Ví dụ như, việc điều chỉnh nghị
định 18/CP về quản lý đất đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn kinh doanh bất
động sản bị kẹt không trả nợ ngân hàng đúng hạn, việc sắp xếp lại doanh nghiệp như
giải thể, sát nhập không đồng bộ với việc giải quyết các khoản nợ ngân hàng, khiến
các khoản nợ này từ nợ tốt trở thành nợ xấu, làm ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng. Các chính sách thường hay thay đổi là một bất lợi lớn vì các doanh nghiệp
không dự đoán được cơ hội kinh doanh nên không thực hiện được các dự án, hoặc
việc thực hiện các dự án không diễn ra theo đúng kế hoạch ảnh hưởng đến quá trình
thu hồi nợ của ngân hàng.
Môi trường pháp lý về cầm cố, thế chấp tài sản chưa đầy đủ cũng tác động xấu
đến chất lượng tín dụng. Nhà nước chưa có luật xử lý, chưa có cơ quan nào chứng
thực tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch quyền sở hữu, cho nên tất cả tài sản
của doanh nghiệp nhà nước và nhiều doanh nghiệp quốc doanh không có chứng
nhận sở hữu dẫn đến khi doanh nghiệp thua lỗ, các tài sản đó không đủ cơ sở pháp
lý để phát mại.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, nhu cầu vốn cho
phát triển và sản xuất kinh doanh là rất lớn, đòi hỏi các ngân hàng phải có những nỗ
lực đổi mới để đáp ứng được nhu cầu đó. Song các ngân hàng không thể chỉ tìm
cách đáp ứng nhu cầu vốn mà xem nhẹ chất lượng của các khoản cho vay. Ngân
hàng muốn phát triển lâu dài và ổn định thì phải hết sức quan tâm đến công tác tín
dụng, cần hiểu rõ chất lượng tín dụng từ mọi góc độ, biết được các nhân tố ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng, từ đó có những biện pháp, chính sách để nâng cao
chất lượng tín dụng ngân hàng.


SV thực hiện: Mai Thị Thu.

23


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG
THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH HÀ NỘI.
2.1. Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Nội.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Nội có trụ sở tại 34 Hai Bà Trưng, Quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội, nơi tập trung các trung tâm kinh tế, thương mại phát triển, dân
cư đông, trình độ dân trí cao, an ninh xã hội được bảo đảm. Là địa bàn có nhiều cơ
quan Nhà nước như: Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, Bưu điện Hà Nội, nhiều
NHTM… đặc biệt tập trung nhiều Công ty lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
tiềm lực tài chính mạnh, nên hoạt động kinh doanh thương mại phát triển. Kinh
doanh trên địa bàn có nhiều lợi thế nhưng cũng nhiều đối thủ cạnh tranh, Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Hà Nội luôn khẳng định được vị thế của mình, luôn đổi
mới để phát triển, có nhiều đóng góp quan trọng vào lộ trình đổi mới và phát triển
kinh tế của Thủ đô cũng như của ngành ngân hàng.
2.1.1. Qúa trình hình thành và phát triển.
Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập theo quyết định số 402-CT
ngày 14/4/1990 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) và
được thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ký quyết định số 285-QĐ\NH ngày
21/9/1996 thành lập theo mô hình Công ty Nhà nước.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Nội là một đơn vị hạch toán phụ

thuộc, trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, có chức năng nhiệm vụ : Kinh
doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng theo luật các tổ chức tín dụng, điều lệ
Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN), các quy định của pháp luật và
hướng dẫn của NHCTVN. Đây là một trong những đơn vị luôn dẫn đầu toàn hệ
thống NHCTVN về công tác huy động và cho vay đầu tư vốn. Lợi nhuận hạch toán
nội bộ luôn vượt quá chỉ tiêu được giao.
Quá trình phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Nội được chia
thành 3 giai đoạn:

- Từ năm 1988 đến 01/04/ 1993 là Ngân hàng Công thương Hà Nội. Giai đoạn
này cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, kinh tế
đối nội là chủ yếu, kinh doanh đối ngoại chưa phát triển. Đội ngũ cán bộ được đào
tạo trong cơ chế cũ, đông về số lượng song thiếu về chất lượng nhất là kiến thức và
kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường.

- Từ 01/04/1994 đến 31/12/1998 Ngân hàng Công thương Hà Nội sát nhập vào
Ngân hàng Trung ương với cái tên hội sở Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thời
kỳ này cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tăng cường, sản phẩm dịch vụ ngân hàng
SV thực hiện: Mai Thị Thu.

24


Chuyên đề thực tập

GV hướng dẫn: TS. Phan Hữu Nghị

phong phú. Ngoài cho vay ngắn hạn, trung dài hạn còn có nhiều loại cho vay mới ra
đời như cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ, trả thay,
bảo lãnh….Kinh doanh đối ngoại cũng phát triển mạnh, đội ngũ cán bộ được đào

tạo lại đã thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.

- Từ năm 1999 đến tháng 08/2009, Hội sở được tách ra theo quyết định số
134/QĐ-HĐQT-NHCTVN mang tên Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt
Nam. Hạch toán phụ thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Lúc này hoạt động
kinh doanh phát triển mạnh trên các mặt : Huy động vốn, mở rộng hoạt động kinh
doanh, công nghệ tin học được phát triển rộng rãi, sản phẩm dịch vụ mới ra đời. Sở
giao dịch I là một trong hai Sở giao dịch lớn nhất của hệ thống Ngân hàng Công
thương Việt Nam (hàng năm Sở đã tạo khoảng 4% lợi nhuận cho Ngân hàng Công
thương Việt Nam ). Có trụ sở đặt tại số 10 Lê Lai - quận Hoàn Kiếm Hà Nội, khu
trung tâm kinh tế chính trị - xã hội của thủ đô, do vậy Sở giao dịch I có uy thế và
điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò và các hoạt động kinh doanh của mình.
- Từ 08/2009 đến nay, Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
được đổi tên thành Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội. Ngân
hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội hoạt động có con dấu, được mở tài
khoản tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam.

SV thực hiện: Mai Thị Thu.

25


×