Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Hai Bà Trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.86 KB, 75 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Lời mở đầu
Nghề kinh doanh ngân hàng cũng giống như bất kì một hoạt động kinh
doanh nào khác nó cũng luôn ẩn chứa những rủi ro. Hoạt động ngân hàng có đối
tượng kinh doanh là tiền tệ, nên rủi ro có tính đa dạng, mức độ cao và sự lan
truyền rộng khắp khi rủi ro xảy ra. Điều này có nguồn gốc từ đặc điểm đối tượng
kinh doanh, nguồn vốn kinh doanh, về sử dụng vốn và các đặc trưng trong lĩnh
vực kinh doanh ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng thương mại cần có các biện
pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro hữu hiệu để giảm tới mức thấp nhất rủi ro có
thể xảy ra. Hạn chế rủi ro cùng đồng thời là hạn chế cơ hội sinh lãi, vì vậy ngân
hàng cần thiết phải chấp nhận rủi ro nhưng phải kiểm soát được.
Ngân hàng có thể quản lí rủi ro một cách tích cực như hạn chế rủi ro bằng
cách giảm thiểu các hoạt động kinh doanh có nhiều rủi ro, hay cải thiện việc đa
dạng hoá rủi ro (đa dạng hoá rủi ro có nghĩa là đa dạng các hoạt động kinh
doanh, lỗ và lãi sẽ bù trừ nhau).
Ngân hàng có thể quản lí rủi ro một cách thụ động như tăng khả năng chịu
đựng rủi ro bằng cách trích lập dự phòng rủi ro, hay lập dự trữ vốn tự có và vốn
khả dụng (vốn tự có được coi như là cái đệm để bù đắp rủi ro khi ngân hàng thua
lỗ là điều kiện để ngân hàng tồn tại và tiếp tục phát triển).
Rủi ro tín dụng của các ngân hàng cần phải được tập trung, theo dõi và quản
lý sát sao, nhất là đối với đối tượng khách hàng mà ngân hàng tập trung hướng
đến, ở ngân hàng Thương Mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam nói chung và chi
nhánh Techcombank Hai Bà Trưng nói riêng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, trong quá trình thực
tập tại chi nhánh Techcombank Hai Bà Trưng, em đã quyết định chọn đề tài
“Quản lý rủi ro tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Kỹ
thương Việt Nam chi nhánh Hai Bà Trưng” cho chuyên đề thực tập của em tại
ngân hàng. Nội dung chính của chuyên đề thực tập được chia thành 3 chương:



Nguyễn Minh Thu

1

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Chương 1: Lý luận chung về ngân hàng thương mại và rủi ro cho vay đối với
các doanh nghiệp Vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý rủi ro cho vay đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại ngân hàng Kỹ thương Việt Nam – chi nhánh Hai Bà Trưng.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Kỹ thương Việt Nam – chi nhánh
Hai Bà Trưng.

Nguyễn Minh Thu

2

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị


Danh mục các từ viết tắt
NHTM:

Ngân hàng thương mại

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

DNVVN:

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

RRTD:

Rủi ro tín dụng

SME:

Doanh nghiệp nhỏ

MME:

Doanh nghiệp vừa

MSME:

Doanh nghiệp rất nhỏ và các hộ kinh doanh


Big Corporate:

Doanh nghiệp lớn

Techcombank:

Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam

Nguyễn Minh Thu

3

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Chương 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI
RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Định nghĩa ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế. Ngân hàng có nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng.
Ngày nay hệ thống ngân hàng thương mại là bộ phận không thể tách rời,

tồn tại tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của một hệ
thống ngân hàng của một quốc gia phản ánh trình độ phát triển kinh tế của
nước đó. Các thông tin liên quan đến hoạt động ngân hàng là mối quan tâm
hàng đầu của chính phủ, của các doanh nghiệp, của tầng lớp dân cư .
Không phải ngẫu nhiên mà ngân hàng lại ở vào vị trí trụ cột quyết định sự
tồn vong của nền kinh tế đất nước như vậy. Chính bề dày lịch sử thai nghén, ra
đời, tồn tại và phát triển chất đặc thù là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ đã
đương nhiên đặt ngân hàng vào vị trí huyết mạch đó.
Hoạt động của NHTM đa dạng, phức tạp và luôn thay đổi để bắt kịp sự đổi
thay đến chóng mặt của nền kinh tế. Mỗi một nền kinh tế có một đặc thù riêng,
và tập quán, luật pháp ở mỗi quốc gia một khác nên đã nảy sinh nhiều quan
niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Luật Tổ chức tín dụng Việt
Nam ghi rõ: “Ngân hàng là một loại hình Tổ chức tín dụng được phép thực
hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
Trong khái niệm này, hoạt động ngân hàng được giải thích tại Luật Ngân hàng
nhà nước “ là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
Nhưng dù có được xem xét định nghĩa như thế nào thì tựu trung lại có thể
nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện 3

Nguyễn Minh Thu

4

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập


GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán
cho khách hàng.
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi đóng vài trò là trung
gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi
cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay
trực tiếp. Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền
gửi thanh toán tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, phát hành giấy tờ có giá.
Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng,
cho vay bất động sản và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính
quyền địa phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cùng là nhóm
trung gian tài chính lớn nhất và là nhóm tổ chức tài chính mà các chủ thể kinh
tế giao dịch thường xuyên nhất. không chỉ vậy, ngân hàng còn có những chức
năng riêng nó mà không một tổ chức tín dụng nào được phép có.
 Chức năng tạo tiền
Dù các ngân hàng không thể tạo tiền kim loại nhưng bản thân các ngân
hàng thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả
năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại hay các khoản nhận nợ. Đây
chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
Ngân hàng thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông
qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được
để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống ngân hàng
thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp

ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng
tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân
hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.

Nguyễn Minh Thu

5

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và
lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay
ra làm tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng
tiền cung ứng. Các nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng
tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự
trữ vượt mức, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi
không phải tiền gửi thanh toán …
 Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế: các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu với
cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, nói cách khác, ngân hàng thương
mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay,
vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch

giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các
bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn
đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh
toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện
lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức
lực thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ. Đặc biệt là
đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng nhất
của ngân hàng thương mại.
 Chức năng trung gian thanh toán

Nguyễn Minh Thu

6

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng , ngân hàng thương mại, thực hiện các thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để

thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách
hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán
có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân
hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện
lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng,…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp
tiền giấy khi khách hàng cần. Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho
mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không
phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh
toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực
hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất
nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô
hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Nhiều hình thức thanh
toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ
giữa các ngân hàng trong cùng một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên
toàn thế giới. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng
đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu
thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,.. Ngân hàng thương mại
thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn cho vạy của ngân
hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách hàng.
1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn.
Đây là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác
nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ có giá . Mặt
khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được , ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất , cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương
và cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín


Nguyễn Minh Thu

7

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh
doanh, mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư,
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại phải căn cứ
vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ đó
đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .
Hoạt động huy động vốn hay còn gọi là nghiệp vụ tạo vốn trong ngân
hàng, làm tăng giá trị nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, cơ
bản gồm các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi:


Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán)
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh ngiệp, các tổ chức xã hội
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Tiền gửi của các ngân hàng khác
Đi vay và nghiệp vụ đi vay




Vay NHNN
Vay các tổ chức tín dụng khác
Phát hành giấy tờ có giá (kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu)
Các nguồn khác

-

Nguồn ủy thác
Nguồn trong thanh toán

1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Đây được coi là hoạt động quan trọng của NHTM, trực tiếp mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng, nếu việc sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng
cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường . Do vậy ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn
của mình sao cho hợp lý nhất
 Hoạt động cho vay
Cho vay được coi là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM vì phần lớn
lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu là thu từ hoạt động này. Theo thống kê, nhìn
chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.

Nguyễn Minh Thu

8

Tài chính doanh nghiệp 48C



Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện
kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của
ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích,
hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
- Cho vay thương mại: Ngay ở thời kỳ đầu, ngân hàng đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán, sau đó là bước chuyển tiếp từ
chiết khấu thương phiếu san cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có
vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn hầu hết ngân hàng không tích cực cho vay
đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro
vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh
trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một
khách hàng tiềm năng.
- Tài trợ dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân
hàng ngày nay trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc
việt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói
chung là cao song lợi nhận lớn.
 Hoạt động đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi
Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp
đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay,
ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng
thương mại có thể tiến hành là:
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.

- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
 Hoạt động quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách
hàng. Do đó kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân,
nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó

Nguyễn Minh Thu

9

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành
đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng
ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.2. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp Vừa và nhỏ của ngân
hàng thương mại
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ
bé bề mặt vốn, lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chia
thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế

giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10
người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn
doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí
riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước mình. Ở Việt Nam, theo
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, qui định số
lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở xuống được coi là doanh
nghiệp siêu nhỏ, từ 20 đến 200 người lao động được coi là Doanh nghiệp nhỏ
và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là Doanh nghiệp vừa.
1.2.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bên cạnh những đặc điểm của Doanh nghiệp nói chung như hoạt động
sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ cũng có những đặc điểm riêng.
 Lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
(1) Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng
động, nhạy bén với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng
không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là đó có thể bắt
đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh nên có thể sử
dụng vốn tự cú, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy
tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng

Nguyễn Minh Thu

10

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập


GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ của nó,
doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của
thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát
huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn
thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động
trong phát triển kinh tế.
(2) Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có
mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư
nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng sẵn sàng mạo hiểm.
Nếu thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các
doanh nghiệp lớn, có khả năng làm lại từ đầu được. Bên cạnh
đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh
vực mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh
tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền
hàng loạt, họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh
doanh mạo hiểm.
(3) Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ,
hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư
vào các tài sản cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới
trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Bên cạnh đó doanh
nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với
chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn, sử dụng hợp lý các
nguồn lực của mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt
được hiệu quả kinh tế- xã hội cao, cũng như có thể sản xuất
được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị
trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp có nhiều hạn chế.
(4) Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao
động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không lớn. Số
lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân

Nguyễn Minh Thu

11

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan
hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó.
Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn cũng sẽ không khó khăn
trong việc dàn xếp.
 Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tuy nhiên, bên cạnh một số ưu điểm trên, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Việt Nam hiện nay còn khá nhiều hạn chế. Có
thể thấy hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai
nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và
các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp vừa và
nhỏ .
(1) Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của doanh nghiệp
vừa và nhỏ nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là quy mô

nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình
trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường,
hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị.
(2) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc
vào doanh nghiệp mà nó cung cấp sản phẩm.
(3) Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và
chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không
có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực
sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao
được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
(4) Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư
công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ
đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
và tính cạnh tranh trên thị trường cũng như gặp khó khăn
trong thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường.
(5) Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị
trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động
trong các quan hệ thị trường.

Nguyễn Minh Thu

12

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị


(6) Do tính chất vừa và nhỏ của nó, doanh nghiệp
vừa và nhỏ gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng quan hệ
hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh
nghiệp đó đang hoạt động.
1.2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam đã và
đang có những bước tiến khá vững trong nền kinh tế. Tuy còn
nhiều hạn chế xong không thể phủ nhận được vai trò to lớn
của nó đối với nền kinh tế thị trường đang trên đà đổi mới của
Việt Nam.
 Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất
lượng, số lượng và chủng loại
 Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp


Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương



Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn



Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng

trưởng kinh tế

1.2.2. Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng

trong việc cấp tín dụng. Trong đó, các giai đoạn cụ thể được xây dựng theo
một trình tự nhất định kể từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cấp tín dụng đến khi
chấm dứt quan hệ tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn
mang tính chất liên hoàn theo một trật tự nhất định đồng thời có quan hệ chặt
chẽ gắn bó với nhau.
Quy trình này có thể cụ thể hóa theo sơ đồ sau:

Nguyễn Minh Thu

13

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Tiếp xúc khách hàng,
hướng dẫn lập và tiếp
nhận hồ sơ vay vốn
Thẩm định khách
hàng và phương án
dự án kinh doanh

Thẩm định TSĐB

Hồ sơ trình ban tín dụng,
hội đồng tín dụng


Hoàn thiện hồ sơ tín
dụng và thực hiện cấp
tín dụng
Kiểm tra và xử lý nợ vay

Tất toán hợp đồng tín
dụng và lưu trữ hồ sơ

1.2.3.
Phương thức cho vay
Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều phương thức khác nhau.
a. Cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Là phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn thường xuyên hay
nhu cầu vốn do đặc điểm sản xuất kinh doanh theo thời vụ của doanh nghiệp.
Phần lớn các khoản cho vay này có thể thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Cho vay
ngắn hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm một số phương thức cho
vay như sau:

Nguyễn Minh Thu

14

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Cho vay từng lần : Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân

hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để cấp hạn mức thấu chi. Cho vay từng lần thường áp dụng cho các khoản
vay dài hạn hoặc cho vay các dự án. Ưu điểm của phương thức cho vay từng
lần là ngân hàng chủ động sử dụng vốn, thu lãi cao do các món vay được tách
biệt thành các hồ sơ khác nhau.
-Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là
mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng
và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Căn cứ để cấp hạn mức
tín dụng là kế hoạch tài chính của doanh nghiệp, trong đó dự báo chi tiết về tài
sản và vốn của doanh nghiệp. Đây là phương thức cho vay thuận tiện cho
khách hàng vay mượn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Phương
thức cho vay này có ưu điểm là thủ tục đơn giản, khách hàng chủ động được
nguồn vốn vay, tuy nhiên về phía ngân hàng dễ bị đọng vốn, đồng thời do các
lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm
soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay dựa trên luân chuyển
của hàng hóa. Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay
vốn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Cho vay luân chuyển rất
thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều
lần vay. Tuy nhiên nếu khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa thì
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay
không được quy định rõ ràng.
- Cho vay thấu chi: Thấu chi là phương thức cho vay trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của
mình đến một giới hạn nhất định và trong khoản thời gian xác định.
b. Cho vay trung và dài hạn

Nguyễn Minh Thu


15

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

Là phương thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tài trợ cho tài sản cố
định và tài sản lưu động thường xuyên hay nhu cầu tài trợ cho các dự án riêng
biệt. Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang
thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ…Về nguyên tắc, doanh
nghiệp có thể sử dụng vốn dài hạn, bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn để
tài trợ cho những loại tài sản này. Nhưng do vốn chủ sở hữu có giới hạn nên
thường doanh nghiệp phải sử dụng đến nguồn vốn vay dài hạn. Doanh nghiệp
có thể vay dài hạn thông qua ngan hàng hoặc phát hành trái phiếu huy động
vốn trên thị trường.
Nhu cầu theo
DA

=

Nhu cầu đầu tư vào
TSCĐ

+

Nhu cầu đầu tư vào
TSLĐ


Số tiền có thể cho vay = Nhu cầu đầu tư - Các nguồn khác tham gia tài trợ
Cho vay trung và dài hạn có thể bao gồm nhiều phương thức khác nhau như
cho vay trả góp, cho vay theo các dự án…..
- Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thỏa thuận. Cho
vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa mua trả
góp.
- Cho vay theo các dự án: Khái niệm dự án có thể hiểu là tổng thể các
chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm đạt
được những mục tiêu nào đó trong một thời gian nhất định. Cho vay theo dự
án đòi hỏi quá trình thẩm định dự án một cách cẩn trọng và chính xác.
Trên đây là một số phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
phân theo kì hạn cho vay. Mặc dù phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và
nhỏ có thể khác nhau, tuy nhiên các phương thức đó đều phải tuân theo một
quy trình cho vay chung nhất, đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất trong quá
trình cho vay của ngân hàng thương mại.
1.3. Rủi ro và quản lý rủi ro tín dụng đối với cho vay doanh nghiệp
vừa và nhỏ
1.3.1. Rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nguyễn Minh Thu

16

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập


GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

1.3.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng (lending risk) là loại rủi ro phát sinh do khách hàng
không có khả năng hoàn trả hoặc không muốn hoàn trả khoản tiền đã vay của
ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp Ngân hàng không thu
hồi được đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi của các khoản vay, hoặc việc hoàn trả
của khách hàng không đúng kỳ hạn như đã định.
1.3.1.2. Tác động của rủi ro:
Đối với ngân hàng, khi gặp rủi ro, có nghĩa là không thu hồi được vốn
đã cấp và lãi của khoản vay, nhưng ngân hàng vẫn phải trả gốc và lãi cho các
khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm ngân hàng mất cân đối trong
việc thu chi, ảnh hưởng đến lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời khi
gặp phải rủi ro cho vay, ngân hàng cũng thường rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán, ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín của ngân hàng và lòng tin của
khách hàng, là hoàn cảnh mà không một ngân hàng nào muốn rơi vào.
Rủi ro tín dụng ở mỗi ngân hàng xảy ra ở những mức độ khác nhau.
Mức độ nhẹ nhất là khi ngân hàng không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất
là khi ngân hàng không thu được cả vốn và lãi, nợ thất thu ở tỷ lệ cao dẫn đến
ngân hàng mất vốn và thua lỗ. Kéo dài tình trạng này sẽ đẩy nhanh ngân hàng
đến bờ vực phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng đến cả nền kinh tế nói chung và
hệ thống ngân hàng nói riêng.
Đối với nền kinh tế, hoạt động nhịp nhàng của hệ thống ngân hàng là
vô cùng quan trọng, liên quan đến các cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp cần vay vốn
vì ngân hàng là một kênh dẫn vốn quan trọng, doanh nghiệp không thể phát
triển, đời sống công nhân khó khăn, nền kinh tế cũng phải chịu hậu quả nặng
nề, giá cả tăng, sức mua giảm, tình trạng thất nghiệp gia tăng mạnh, mất ổn
định kinh tế và xã hội. Một ngân hàng phá sản hay gặp khó khăn trong thanh
khoản cũng có thể làm cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế rơi vào khủng

hoảng nếu không có các biện pháp can thiệp kịp thời. Đối với các ngân hàng
lớn, ở các quốc gia lớn, khủng hoảng có thể lan ra toàn cầu như khung hoảng
tài chính Châu Á 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới 2008.
1.3.1.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro
 Nguyên nhân bên ngoài:

Nguyễn Minh Thu

17

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Do thị trường biến động không thể dự đoán
Nền kinh tế của Việt Nam còn non trẻ và chưa thể đứng vững trước các biến
động tiềm ẩn của thị trường khu vực và thế giới, vấn đề xuất nhập khẩu còn
gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp Việt Nam tất nhiên không thể thoát ra
ngoài vòng xoáy của giá thành nguyên vật liệu tăng cao, sản phẩm khó tiêu thụ
khi nền kinh tế thị trường biến động xấu.
- Rủi ro từ quá trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế, tương ứng với tự do hóa tài chính, cạnh tranh gay gắt, khiến
các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng có thể rơi vào cảnh thua lỗ và
bị đào thải bất cứ lúc nào.
Bên cạnh đó, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong và ngoài nước trong môi
trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các nhân hàng trong nước với hệ
thống quản lý lỏng lẻo, yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên, vì

những khách hàng tốt sẽ bị thu hút bởi các ngân hàng lớn mạnh có uy tín nước
ngoài.
Môi trường pháp lý chưa thuận lợi.
Đầu tiên phải kể đến sự kém hiệu quả của các cơ quan pháp luật địa phương.
Các văn bản luật, dưới luật điều chỉnh hướng dẫn hoạt động tín dụng ngân
hàng được ban hành thường xuyên, nhưng việc triển khai vào hoạt động ngân
hàng thì diễn ra hết sức chậm chạp và hay gặp phải nhiều bất cập, vướng mắc
như một số văn bản về hướng dẫn thu hồi nợ. Ví dụ như quy định : “Trong
những trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng thương mại có
quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay”. Nhưng thực tế, ngân hàng thương mại là
một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, nên việc
cưỡng chế hay buộc khách hàng giao nộp tài sản đảm bảo cho ngân hàng xử
lý, nhiều khi vì vậy mà ngân hàng không thể giải quyết được nợ tồn đọng.
Tiếp đến là sự thiếu sót, chưa chặt chẽ trong khâu thanh tra, kiểm tra, giám sát
của Ngân hàng Nhà Nước. Cho đến nay, phương pháp và nội dung thanh tra,
giám sát đối với các ngân hàng thương mại còn lạc hậu, thanh tra tại chỗ vẫn
là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiến tệ và giám
sát rủi ro còn yếu kém, năng lực của cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được nhu
cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra ngân
hàng còn chưa theo kịp, vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống
thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra ngân hàng còn thụ

Nguyễn Minh Thu

18

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập


GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

động xử lý vụ việc đã phát sinh chứ ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa
rủi ro hay vi phạm. Thực tế cho thấy hàng loạt những sai phạm chứa đựng
nhiều rủi ro ở một số ngân hàng thương mại đe dọa đến cả hệ thống đáng lẽ đã
có thể được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý
sớm hơn.
Hệ thống thông tin quản lý chung còn nhiều bất cập.
Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của ngân hàng
Nhà nước là địa chỉ đầu tiên các chuyên viên khách hàng tìm đến tham khảo
khi xuất hiện khoản vay, vì nó cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt
động tín dụng, cũng như uy tín khách hàng trong quan hệ tín dụng với các
ngân hàng trước đó. Tuy nhiên thông tin trung tâm này cung cấp còn đơn điệu,
thiếu cập nhật, không phản ánh hay đánh giá gì về tiềm lực cũng như uy tín
trong kinh doanh của khách hàng, chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm
doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả. Nếu các ngân hàng vì chạy theo
lợi nhuận, mở rộng hoạt động cho vay trong điều kiện môi trường thông tin
không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu.
 Nguyên nhân chủ quan:


Từ phía người đi vay:

- Đối với các doanh nghiệp, kinh nghiệm và năng lực hoạt động kinh
doanh còn đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm
bắt được thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì vậy, khi dự án
vay vốn gặp khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng gặp vấn đề, rủi ro tín
dụng là điều không thể tránh khỏi.
- Thông thường khi vay vốn, các doanh nghiệp phải xuất trình các

phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Ngân hàng xét duyệt sau đó quyết định
có cho doanh nghiệp vay vốn hay không và nếu cho vay thì tối đa là bao
nhiêu, thế nhưng lợi dụng điểm yếu của ngân hàng thương mại, nhiều khách
hàng đã tìm cách lừa đảo để được vay vốn. Họ lập phương án sản xuất kinh
doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả mạo, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng
với cùng bộ hồ sơ. Sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho
nguồn trả nợ trở nên bấp bênh. Vì vậy, khi khách hàng đã sử dụng vốn sai mục
đích, việc thanh toán gốc và lãi đúng hạn rất khó xảy ra,rủi ro tín dụng xuất
hiện.

Nguyễn Minh Thu

19

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Tình hình tài chính của doanh nghiệp vẫn còn yếu kém và thiếu minh
bạch, sổ sách kế toán để ngân hàng xét duyệt cho vay nhiều khi chỉ mang tính
hình thức hơn là thực chất. Khi các cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích
tài chính doanh nghiệp dựa trên số liệu khách hàng cung cấp thì đa phần là
thiếu tính xác thực và thực tế.


Từ phía ngân hàng cho vay


- Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi
ro tín dụng của ngân hàng tăng lên.Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với
việc lựa chọn khách hàng kém kỹ càng,khả năng giám sát của cán bộ tín dụng
đối với việc sử dụng khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân
thủ chặt chẽ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng.
- Trình độ cán bộ hạn chế, nhất là cán bộ tín dụng người trực tiếp nhận hồ
sơ khách hàng, phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn.Vì
vậy nếu trình độ cán bộ tín dụng không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp
nhận cho vay những khoản vay không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
Song song với nó, cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao
nhưng thiếu đạo đức cũng là rủi ro rất lớn của ngân hàng. Một số cán bộ tín
dụng cùng với khách hàng vay lập hồ sơ giả, hoặc nâng giá trị tài sản thế chấp
lên cao hơn thực tế để nâng hạn mức cho vay hoặc giá trị tối đa của khoản vay.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các ngân
hàng thương mại khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, qua loa
hơn. Hơn nữa, nhiều ngân hàng thương mại do quá chú trọng đến lợi nhuận
nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những khoản vay không lành mạnh,
thiếu an toàn.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến
cho ngân hàng thương mại gặp phải rủi ro tín dụng.Việc đánh giá giá trị tài sản
thế chấp, cầm cố cũng là vấn đề rất lớn, hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trong
quy chế tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
-Việc giám sát sau khi cho vay cũng là trách nhiệm tuy quan trọng nhưng
thường bị xem nhẹ bởi các chuyên viên khách hàng, các cán bộ tín dụng.
Thường ngân hàng chỉ tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi
cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay.
Công việc theo dõi hoạt động kinh doanh của khách hàng này nhằm đảm bảo

Nguyễn Minh Thu


20

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

sự tuân thủ các điều khoản đã ghi trên hợp đồng tín dụng, đồng thời tìm ra
những cơ hội mới để phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về ngân hàng thương mại
gây ra rủi ro tín dụng như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong ngân
hàng thương mại, cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ, năng lực công
nghệ...
1.3.2. Quy trình giám sát, quản lý rủi ro
Giám sát rủi ro tín dụng là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục và
được thực hiện với từng khoản vay của khách hàng để đảm bảo thông tin và độ
rủi ro của khách hàng luôn được ngân hàng nắm vững, đồng thời có biện pháp
xử lý kịp thời khi có nguy cơ xảy ra rủi ro.
Quy trình giám sát tín dụng được xem xét ở 3 giai đoạn: trước, trong và sau
tín dụng.
Trước tín dụng:
Thu thập hồ sơ, thông tin khách hàng, xác minh tính chân thực của
thông tin.
Một khách hàng tốt sẽ có một bộ hồ sơ pháp lý trong sạch đầy đủ, một tình
hình tài chính lành mạnh được trình bày trong một báo cáo tài chính theo quy
chuẩn và các thông tin doanh nghiệp cung cấp đều được xác nhận là đúng sự
thật. Việc thu thập, xác nhận thông tin có thể được chuyên viên khách hàng
tìm được ở nhiều nguồn: bản thân doanh nghiệp, khách hàng của doanh

nghiệp, nhà cung cấp nguồn hàng cho doanh nghiệp hay thậm chí cả đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
- Chấm điểm tín dụng và xếp loại khách hàng
Hồ sơ, tài liệu, thông tin khách hàng cung cấp và đã được xác minh tính chân
thực là cơ sở để chuyên viên khách hàng tiến hành chấm điểm tín dụng đối với
doanh nghiệp. Mỗi ngân hàng tùy vào quy định, chiến lược hay nghiên cứu
của mình mà có một bảng chấm điểm riêng đối với doanh nghiệp, dựa vào số
điểm đã chấm mà doanh nghiệp sẽ được xếp loại, thông thường sẽ được quy
định là các chữ cái A,B,C như sau
Hệ thống ký hiệu xếp hạng doanh nghiệp
Đánh giá xếp hạng doanh nghiệp
Xếp hạng

Nguyễn Minh Thu

21

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

AAA

Khả năng trả nợ đặc biệt tốt.

AA


Khả năng trả nợ rất tốt.

A
BBB

BB

B
CCC
CC
C
D

Khả năng trả nợ tốt.
Có khả năng trả đầy đủ các khoản nợ. Tuy nhiên
sự thay đổi bất lợi của các yếu tố bên ngoài có
thể tác động giảm khả năng trả nợ.
Có ít nguy cơ mất khả năng trả nợ. Đang phải đối
mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể tác động giảm
khả năng trả nợ.
Có nhiều nguy cơ mất khả năng trả nợ.
Đang bị suy giảm khả năng trả nợ. Trong trường
hợp có các yếu tố bất lợi xảy ra thì nhiều khả năng sẽ
không trả được nợ.
Đang bị suy giảm nhiều khả năng trả nợ
Đang thực hiện các thủ tục phá sản hoặc các động
thái tương tự nhưng việc trả nợ vẫn được duy trì.
Mất khả năng trả nợ, các tổn thất đã thực sự xảy ra.

Tùy vào kết quả xếp loại mà doanh nghiệp sẽ được ngân hàng điều chỉnh

hạn mức vay phù hợp, tránh trường hợp rủi ro khi cho doanh nghiệp xếp loại kém
lại được vay số tiền lớn mà không có khả năng trả nợ.
- Tính khả thi của phương án kinh doanh
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, phương án kinh doanh tốt hay chưa tốt
quyết định khả năng sinh lời của doanh nghiệp đồng thời cũng quyết định khả
năng trả nợ của doanh nghiệp đó. Phương án kinh doanh phải được khách
hàng trình bày với các giấy tờ chứng minh và cam kết sẽ chỉ dùng khoản tín
dụng ngân hàng cấp cho phục vụ phương án kinh doanh này.
- Tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là động lực trả nợ của khách hàng, tuy nhiên vì tài sản đảm
bảo cũng có rủi ro mất giá nên doanh nghiệp chỉ được vay với giá trị thường
nhỏ hơn 100% giá trị tài sản đảm bảo, ngoài ra phải mua bảo hiểm và cung cấp

Nguyễn Minh Thu

22

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

các giấy tờ sở hữu để chứng minh. Về phía ngân hàng phải tiến hành định giá
nhập kho tài sản đảm bảo đúng quy trình vì phát mại tài sản đảm bảo là sự
chống đỡ cuối cùng của ngân hàng khi phải đối diện với nguy cơ doanh nghiệp
không có khả năng trả nợ.
Trong tín dụng
- Giám sát tín dụng là khâu quan trọng nhất trong quá trình doanh nghiệp

vay vốn. Để đảm bảo doanh nghiệp dùng vốn vay đúng mục đích, chuyên
viên khách hàng phải tiến hành kiểm tra định kì hoặc đột xuất tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp, tình trạng hàng tồn kho, phải thu phải trả,
hóa đơn nhập – xuất…Những theo dõi của chuyên viên khách hàng cần
phải được ghi chép lại thành báo cáo để theo dõi và phát hiện xử lý những
sai lệch do doanh nghiệp vô ý hoặc cố tình làm trái các điều khoản ghi trên
hợp đồng tín dụng.


Theo dõi tình hình các khoản nợ khác của doanh nghiệp, vì doanh

nghiệp thường vay vốn từ nhiều nguồn, hoặc có nhiều hơn 1 khoản vay
ở 1 ngân hàng. Khi một khoản vay của khách hàng không được thanh
toán khi đến hạn hoặc đến lịch trả nợ thì ngay lập tức không chỉ khoản
nợ đó mà tất cả các khoản vay khác của khách hàng cần phải được tiến
hành theo dõi chặt chẽ và bị đẩy xuống nợ xấu. trong quá trình theo dõi,
nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản cho vay đang có dấu hiệu
kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn
đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.
Phân loại nợ
- Nhóm 1:Nợ đủ tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn...
- Nhóm 2:Nợ cần chú ý
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn
nợ đã cơ cấu lại.
- Nhóm 3:Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Các khoản nợ quá hạn từ 90-180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày

theo thời hạn đã cơ cấu lại.

Nguyễn Minh Thu

23

Tài chính doanh nghiệp 48C


Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

- Nhóm 4:Nợ nghi ngờ
+ Các khoản nợ quá hạn từ 180-360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90-180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm 5:Nợ có khả năng mất vốn
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
- Trích lập dự phòng:
Bất kì khoản vay nào cũng cần được trích lập dự phòng chung, nợ loại 2 đến 5
thì cần trích lập thêm dự phòng cụ thể. Đây là biện pháp bắt buộc và cần thiết
đối với mọi ngân hàng để chống sốc khi rủi ro xảy ra. Theo quy định của Luật
ngân hàng Nhà nước thì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể như sau:
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3

Nhóm 4
Nhóm 5

0%
5%
20%
50%
100%

Trong suốt quá trình trong tín dụng, các chuyên viên giám sát tín dụng của
khách hàng phải thường xuyên theo dõi để phát hiện rủi ro và có các biện pháp
chống đỡ, phòng ngừa kịp thời.
Sau tín dụng:
Nếu khách hàng thực hiện đầy đủ cam kết ghi trên hợp đồng và trả nợ đúng
hạn, hồ sơ khách hàng vẫn cần được lưu trữ và thông tin khách hàng sẽ được
sử dụng nhiều lần như đối với khách hàng tiềm năng. Việc xếp loại doanh
nghiệp vẫn cần được thực hiện để đảm bảo được nguồn thông tin kịp thời và
chính xác. Trong trường hợp rủi ro xay ra, ngân hàng cần phải kết hợp với
khách hàng tìm biện pháp giải quyết cho vấn đề, chứ không phải là bán ngay
tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vì đó chỉ là biện pháp cuối cùng, trước khi sử
dụng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Các khoản nợ quá hạn cần được ghi
chép, theo dõi trên hệ thống kiểm soát rủi ro và thu hồi nợ của ngân hàng, đây
cũng là căn cứ để xếp loại uy tín khách hàng, áp dụng từng chính sách tín dụng
riêng biệt đối với từng khách hàng riêng biệt đảm bảo đưa rủi ro đến mức thấp

Nguyễn Minh Thu

24

Tài chính doanh nghiệp 48C



Chuyên đề thực tập

GVHD: TS. Phan Hữu Nghị

nhất hoặc lấy lợi nhuận bù đắp vào khoản rủi ro mà ngân hàng sẵn sàng đương
đầu.
Việc xử lý nợ xấu cần thực hiện theo đúng quy trình, thông báo nhắc nhở
khách hàng, tiến hành xem xét gia hạn nợ nếu khách hàng có yêu cầu, cùng
khách hàng nghiên cứu giải quyết vấn đề, bán tài sản đảm bảo để bù đắp tổn
thất và sử dụng các quỹ dự phòng rủi ro.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.4.1. Dấu hiệu nhận biết rủi ro
Nhận biết rủi ro là bước đầu tiên trong việc quản lý rủi ro, nhận biết
được rủi ro, ngân hàng sẽ có các giải pháp đề phòng ngừa hay hạn chế nó.
 Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng:
Đối với mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng:
- Khi ngân hàng yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính
thì khách hàng chậm trễ, lấy nhiều lý do để trì hoãn nhưng không có lý do nào
thuyết phục.
- Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đủ các quy định, nghĩa vụ
tài chính, pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Có những yêu cầu về gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ vay nhiều lần
mà lý do đưa ra là thiếu căn cứ và không thỏa đáng.
- Thanh toán các khoản lãi vay và nợ gốc không đầy đủ và đúng hạn.
- Có dấu hiệu sử dụng các tài khoản ngắn hạn để tài trợ cho các hoạt
động đầu tư dài hạn.
- Chấp nhận sử dụng nguồn vốn với giá cao và mọi điều kiện.

- Khách hàng trông chờ vào nguồn thu bất thường để trả nợ mà không
phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động họ đã đề xuất
trong phương án vay vốn.
- Có thái độ trì hoãn hoặc gây cản trở đối với chuyên viên khách hàng
trong quá trình kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay,
tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Mức vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu về các khoản vay vượt quá
nhu cầu dự kiến.

Nguyễn Minh Thu

25

Tài chính doanh nghiệp 48C


×