Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 322, Công ty Lâm nghiệp 3 Đơn Dương, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 80 trang )

Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, tạo nên môi trường khí
hậu và thổ nhưỡng thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loại hình
thực vật, hình thành những quần thể hỗn giao. Rừng hỗn loại có những ưu điểm:
Tận dụng được không gian dinh dưỡng, tính ổn định quần thể cao, có khả năng cải
tạo đất rất tốt do tầng thảm mục và tác dụng của hệ rễ, động vật, vi sinh vật phong
phú. Rừng Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật đa dạng. Có thể nói nước ta là
trung tâm thu nhập các luồng thực vật và động vật từ phía Bắc xuống, phía Tây qua,
phía Nam lên và từ đây phân bố đến các nơi khác trong vùng. Ðồng thời, nước ta có
độ cao ngang từ mực nước biển đến trên 3.000 m nên có nhiều loại rừng với nhiều
loại thực vật và động vật quý hiếm và độc đáo mà các nước ôn đới khó có thể tìm
thấy được.
Tài nguyên rừng Việt Nam phong phú về gỗ nhiệt đới, nổi tiếng là gỗ tứ
thiết (Đinh, Lim, Sến, Táu) và các lâm sản, đặc sản khác như Tre nứa, Song mây,
Quế, Hồi, Cánh kiến cùng nhiều chim thú quý hiếm. Năm 1945, diện tích rừng ở
Việt Nam là 14 triệu ha, đến hiện nay chỉ còn lại khoảng 6,5 triệu ha. Như vậy trung
bình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp từ 160 - 200 ngàn ha (dẫn nguồn
). Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng
về diện tích là do khai hoang trong chiến tranh, do tập quán sống du canh của số dân
tộc ở vùng cao, do cháy rừng, do sự khai phá rừng bừa bãi lấy gỗ lấy đất canh tác ...
Diện tích rừng giảm nhanh, tài nguyên rừng chóng cạn kiệt, khả năng cung cấp lâm
sản và các khả năng khác của rừng giảm sút trầm trọng, ảnh hưởng đến công cuộc
xây dựng đất nước và bảo vệ dân sinh.
Việc phá rừng làm cho hệ sinh thái bị thay đổi nghiêm trọng khi các loài
động vật bị thu hẹp không gian sống của quần thể, đất đai bị lũ, xói mòn cuốn trôi
1


sự màu mỡ, tác động trực tiếp vào sản xuất nông nghiệp, làm yếu đi chiến lược an


ninh lương thực và đà phát triển kinh tế nước nhà. Đó là chưa kể đến bom đạn và
chất khai quang mang tên Agent Orange tức tác nhân da cam người Mỹ sử dụng tại
miền Nam trong suốt cuộc chiến tranh trước ngày lãnh thổ Việt Nam hoàn toàn
thống nhất đã làm biến mất biết bao khu rừng, gây nhiễm độc nguồn nước và đất
đai, tàn hại môi trường sống, mà tất cả những hậu quả nghiêm trọng có khi phải mất
nhiều thế kỷ mới có thể khắc phục được.
Tình hình hiện nay cho thấy việc bảo vệ và khôi phục nguồn tài nguyên
rừng để đảm bảo sự cân bằng sinh thái, đồng thời bảo tồn tính đa dạng sinh học,
ngăn chặn sự diệt vong của các loài, nhất là các loài quý hiếm là một việc làm hết
sức cấp bách. Một khi độ che phủ rừng bị mất, sẽ làm cho bề mặt đất bị xói mòn và
trở nên bạc màu một cách nhanh chóng, tài nguyên nước sẽ bị cạn kiệt, gây ra
những ảnh hưởng đến khí hậu, môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống, sinh
hoạt hàng ngày của con người ...
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khôi phục lại những diện tích rừng bị mất,
nuôi dưỡng và bảo vệ những khu rừng hiện tại, đồng thời có thể tránh được những
thiên tai do mất rừng gây ra, bảo vệ đất sản xuất nông nghiệp, tạo môi trường sống
trong lành cho con người ? Để làm được điều đó, chúng ta phải có phương thức
kinh doanh đúng đắn cho việc sử dụng và phát triển hợp lý nguồn tài nguyên rừng
trên quan điểm tái sản xuất mở rộng, chủ động áp dụng và đề xuất những biện pháp
kỹ thuật lâm sinh phù hợp dựa trên tình hình cụ thể của rừng. Muốn vậy, chúng ta
cần có những hiểu biết và đánh giá về các đặc trưng cấu trúc rừng hiện tại. Vì cấu
trúc rừng là một đặc trưng quan trọng của quần xã thực vật, trong bất kỳ một hệ
thống sinh thái nào cũng luôn luôn tồn tại những quy luật cổ hữu nhất định, tìm hiểu
quy luật cấu trúc của nó giúp ta đi sâu vào bản chất của vấn đề.
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thực tiễn đó, được sự đồng ý và phân
công của Bộ môn Quản lý tài nguyên rừng – Khoa Lâm nghiệp – Trường Đại học
Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Minh
Cảnh, trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, đề tài “Nghiên cứu
cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 322, Công ty Lâm nghiệp
2



Đơn Dương, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng” được thực hiện trong khoảng
thời gian từ tháng 02 đến tháng 07 năm 2009.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về cấu trúc rừng tự nhiên trạng thái IIIA3
tại tiểu khu 322 thuộc Công ty Lâm nghiệp Đơn Dương, huyện Đơn Dương, tỉnh
Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm góp
phần phục vụ cho công tác quản lý bảo vệ rừng, duy trì hệ sinh thái rừng tại khu vực
nghiên cứu theo hướng tích cực.
1.3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Do điều kiện về trình độ cũng như thời gian có hạn, đề tài chỉ thực hiện ở
một số diện tích rừng điển hình trạng thái IIIA3 tại tiểu khu 322 thuộc Công ty Lâm
nghiệp Đơn Dương, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Đề tài chỉ giới hạn trong
việc nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tổ thành loài, độ hỗn giao của rừng, phân
bố số cây theo cấp đường kính D1,3, phân bố số cây theo cấp chiều cao, phân bố trữ
lượng theo cấp đường kính D1,3, tương quan giữa chiều cao và đường kính D1,3,
đánh giá tình hình tái sinh dưới tán rừng và xác định độ tàn che của rừng.
Đề tài chỉ đi tập trung nghiên cứu một số nội dung chính mà không thể đề
cập một cách toàn diện về phương diện cấu trúc rừng. Mặt khác, do trình độ chuyên
môn còn nhiều hạn chế nên đề tài nhất định còn vài thiếu sót, rất mong nhận được
sự góp ý của quý Thầy Cô và bạn bè có quan tâm để đề tài được hoàn chỉnh hơn.

3


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự tổ chức và sắp xếp các thành phần tình hình rừng theo

không gian và thời gian. Sự phân bố các lớp cây rừng theo chiều thẳng đứng và
chiều nằm ngang.
Cấu trúc tổ thành: Tổ thành là nhân tố diễn tả số loài tham gia và số cá thể
của từng loài trong thành phần tầng cây gỗ của rừng. Hiểu một cách khác, cấu trúc
tổ thành loài cho biết sự tổ hợp và mức độ tham gia của các loài cây khác nhau trên
cùng đơn vị diện tích.
Cấu trúc tầng thứ: Sự phân bố theo không gian của tầng cây gỗ theo chiều
thẳng đứng, phụ thuộc vào đặc tính sinh thái học, nhu cầu ánh sáng của các loài
tham gia tổ thành. Cấu trúc tầng thứ của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới thường
nhiều tầng thứ hơn các hệ sinh thái rừng ôn đới.
Cấu trúc rừng là nhân tố rất quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp đến tình
hình cạnh tranh giữa thực vật và cơ chế tác động lẫn nhau giữa chúng trong hệ sinh
thái rừng. Để tồn tại một loài cây cần một diện tích dinh dưỡng mà diện tích này
biến động theo tuổi cây, điều kiện khí hậu và đất đai. Lượng cây quá nhiều làm tăng
sự cạnh tranh giữa các loài thực vật trong một quần xã, sự cạnh tranh không gian
sống làm cho chúng chèn ép lẫn nhau dẫn tới khả năng chết rất cao và đôi khi mất
khả năng tái sinh bằng hạt và năng lực tái sinh bằng chồi (VN.Xukasov, 1953;
Knapp, 1954), (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường, 2007).
2.2. Tình hình nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên trên thế giới
Trong khoa học lâm nghiệp thế giới, khái niệm “cấu trúc rừng” đã được sử
dụng và xác định bằng nhiều phương pháp khác nhau phục vụ cho nhiều mục tiêu

4


nghiên cứu nhất định.
Theo Richards P.W (1939) thì “cấu trúc” là sự phân bố cây rừng theo chiều
thẳng đứng. Còn theo Assmann (1968) định nghĩa: “Một lâm phần hay rừng cây là
tổng thể các cây cùng sinh trưởng và phát triển trên một diện tích tạo thành một
điều kiện hoàn cảnh nhất định có cấu trúc bên ngoài cũng như bên trong, khác biệt

với diện tích rừng khác …” (dẫn nguồn Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005). Như vậy, một
rừng hay lâm phần trên diện tích đất sẽ hình thành khi có đủ một số lượng cá thể
nhất định, tạo nên một tầng tán cũng như một độ tàn che và những điều kiện hoàn
cảnh rừng nhất định nào đó.
Cũng theo quan điểm này, Richards (1952) trong cuốn “Rừng mưa nhiệt
đới” của mình đã cho rằng: “Một quần xã thực vật gồm những loài có hình dạng
khác nhau nhưng tạo ra một hoàn cảnh sinh thái nhất định và được sắp xếp một cách
tự nhiên hợp lý trong không gian”. Theo Richards cách sắp xếp được xem xét theo
hai hướng không gian. Đó là theo chiều thẳng đứng và theo chiều nằm ngang, cách
sắp xếp này có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt với các quần xã thực vật
khác và có thể mô tả bằng các biểu đồ. (Vương Tấn Nhị dịch)
Theo Meyer (1952); Turnbull (1963); Rollet (1969), dùng thuật ngữ “cấu
trúc” chỉ rõ sự phân bố cây gỗ theo cấp kính hoặc là phân bố tiết diện ngang thân
cây theo cấp kính. Theo T.A. Rabotnov (1978), định nghĩa “cấu trúc” quần xã thực
vật đó là đặc điểm phân bố các cơ quan, các thành phần tạo nên quần xã trong
không gian và thời gian. Chuỗi phân bố cây theo cấp đường kính chỉ ra cơ sở và là
quy luật cấu trúc trung tâm của những chỉ tiêu điều tra rừng không chỉ đối với rừng
trồng mà còn đối với tất cả các kiểu rừng. Nghiên cứu chúng ta là bắt buộc đối với
bất kỳ ai muốn hiểu biết về cấu trúc rừng trên thế giới. Những nhà khoa học điều tra
rừng, thậm chí những nhà lâm sinh học đã nghiên cứu quy luật này từ những thế kỷ
trước (dẫn nguồn Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Theo Wenk (1995) nghiên cứu đã xác định cấu trúc của một loại hình rừng
nhằm mục đích không những đánh giá nhiều hiện trạng rừng và động thái sinh
trưởng của rừng qua các quy luật phân bố theo chiều cao H (cấu trúc đứng), theo

5


D1.3, theo tổng tiết diện ngang G (cấu trúc ngang)… mà còn có thể xác định chính
xác kích thước bình quân lâm phần phục vụ cho công tác điều tra quy hoạch rừng

(dẫn nguồn Giang Văn Thắng, 2002).
Quy luật cấu trúc bằng đường kính được xác định bởi nhiều hàm khác nhau
hoặc các dạng trắc đồ phần trăm khác nhau hay trong biểu mẫu với giá trị cấu trúc
cụ thể của chuỗi phân bố lý thuyết.
Cũng theo Wenk, ở loại hình rừng thuần loại đều tuổi phân bố số cây theo
Hvn, D1.3… khi mới trồng có quy luật chính thái, sau đó lệch trái khi đã bước vào
tuổi khép tán, và chuyển sang lệch phải khi rừng lớn tuổi.
Trong sự phụ thuộc chỉ vào đường kính trung bình của lâm phần (N.V
Tretiakov, năm 1952; A.V. Tiurin, năm 1956) hay từ những yếu tố liên quan khác
nhau của cây rừng (A.I. Moskolev, năm 1974; B.Rollet, năm 1974), và những nhà
khoa học đã sử dụng những hàm toán học như sau:
Khi nghiên cứu quy luật cấu trúc N/D, hàm Meyer (1953) thường được ứng
dụng ở các nước trong vùng nhiệt đới.
Hàm Poisson, Nguyễn Văn Trương (1983) đã nghiên cứu đối với rừng gỗ
lá rộng thường xanh hỗn loài.
Hàm Charlie (kiểu A), V.S. Moisev (1971), Nguyễn Ngọc Lung (1987) đã
sử dụng đối với rừng Thông và rừng Vân sam non.
Hàm Pearson, V.S Moisev (1971), Đồng Sỹ Hiền và B. Rollet (1974) đã
nghiên cứu đối với rừng Thông, rừng Vân sam non và rừng thường xanh mưa ẩm
nhiệt đới.
Hàm Gamma, S.N. Xvalov (1984) đã sử dụng để nghiên cứu rừng Thông ở
Liên bang Nga thuộc Liên Xô cũ.
Hàm Weibull, O.A. Atrosenko (1980), Vũ Tiến Hinh (1985), Trần Văn
Con (1986) và Hoàng Sỹ Động (1986) đã sử dụng đối với rừng Thông, rừng khộp
và rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Việt Nam (dẫn nguồn Hoàng Sĩ
Động, 2002).

6



Theo Prodan (1952) nghiên cứu quy luật phân bố rừng, chủ yếu dựa vào
đường kính D1.3 có liên hệ với giai đoạn phát dục của rừng và biện pháp kinh doanh.
Theo ông sự phân bố số cây theo đường kính có giá trị đặc trưng nhất cho rừng.
Những quy luật phân bố mà ông xác định được ở rừng tự nhiên được chấp nhận và
kiểm chứng ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là quy luật phân bố của rừng tự nhiên có
một đỉnh lệch trái, số cây tập trung rất nhiều ở cỡ kính nhỏ bởi nhiều loài nhiều thế
hệ cùng tồn tại. Song cỡ kính lớn chỉ có ở một số loài nhất định, do bởi đặc tính
sinh học (cây gỗ lớn) hay do bởi nhờ vị trí thuận lợi trong rừng chúng mới có khả
năng tồn tại và phát triển. Về phân bố chiều cao, rừng tự nhiên thường có quy luật
nhiều đỉnh, rừng càng nhiều thế hệ hay do chặt chọn không có quy tắc, phân bố
chiều cao của rừng thường nhiều đỉnh và giới hạn đường cong phân bố nhiều đỉnh
là phân bố giảm đặc trưng cho rừng chặt chọn không đều tuổi (dẫn nguồn Mai Trí
Mân, 2007).
2.3. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng ở Việt Nam
Rừng tự nhiên ở nước ta thuộc kiểu rừng nhiệt đới, rất phong phú và đa
dạng về thành phần loài, phức tạp về cấu trúc. Ngay từ những năm 40 của thế kỷ 20
trở lại đây, việc nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã được nhiều nhà khoa học
Lâm nghiệp quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ như vậy là vì cấu trúc rừng là cơ sở cho
việc định hướng phát triển rừng nhằm đề ra những biện pháp lâm sinh hợp lý.
- Cuốn “Lâm Nghiệp Đông Dương” của Paul Maurand (1943)
- Những nghiên cứu của Rollet (1969) về rừng thưa ở Nam Đông Dương
- Công trình nghiên cứu của M.Loeschau (1962, 1964, 1966) nghiên cứu về
cấu trúc và trạng thái rừng ở Miền Bắc Việt Nam.
Trên cơ sở cấu trúc, các đặc điểm lâm sinh và trữ lượng rừng… tác giả đã
đề xuất được các chỉ tiêu định lượng để phân loại rừng ở phía Bắc Việt Nam của
Trần Ngũ Phương (1965) về “Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” và
của Thái Văn Trừng (1978) về “Thảm thực vật rừng Việt Nam trên quan điểm hệ
sinh thái” cho đến nay những nghiên cứu này vẫn được áp dụng rộng rãi trong thực
tiễn điều tra quy hoạch và điều chế rừng (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường, 2007).


7


Công trình nghiên cứu của Trần Ngũ Phương (1965) trên cơ sở nghiên cứu
và phân tích các nhân tố sinh thái phát sinh cũng như những vùng địa lý khác nhau,
các tác giả đi đến kết luận và phân loại các kiểu rừng ở Miền Bắc Việt Nam cũng
như ở Việt Nam (dẫn nguồn Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Đối với Đồng Sĩ Hiền (1974) trong công trình nghiên cứu “Lập thể tích và
biểu độ thon cây đứng cho rừng Việt Nam” tác giả đã đi sâu vào xác định quy luật
phân bố cây rừng theo chiều cao (H) và đường kính (D1.3) làm cơ sở cho việc xây
dựng biểu thể tích (V) một, hai hoặc ba nhân tố. Kết quả nghiên cứu cấu trúc rừng
tự nhiên của ông cũng rất phù hợp với những kết quả của Prodan (1952), đó là cấu
trúc đứng của rừng tự nhiên Việt Nam đặc trưng bởi phân bố nhiều đỉnh về chiều
cao và phân bố giảm một đỉnh lệch trái về phía đường kính.
Về mặt phương pháp nghiên cứu, tác giả Đồng Sĩ Hiền đã đưa ra kết luận:
Khi nghiên cứu cấu trúc rừng, dùng đường cong mô tả phân bố là phương pháp tổng
quát nhất, có đường cong phân bố thì có thể xác định cả vị trí của cây bình quân và
phạm vi biến động. Phương pháp biểu diễn quy luật phân bố cây theo D1.3, H đơn
giản và rõ ràng nhất.
Theo Thái Văn Trừng (1978) khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới nước ta, tác giả đã đưa ra mô hình cấu trúc tầng, như tầng vượt
tán, tầng ưu thế sinh thái, tầng dưới tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết. Tác giả vận
dụng và có sự bổ sung phương pháp biểu đồ mặt cắt của David và Richards, trong
đó tầng cây bụi và thảm tươi được phóng với tỉ lệ lớn hơn. Ngoài ra tác giả còn dựa
vào 4 tiêu chuẩn để phân chia kiểu thảm thực vật rừng Việt Nam, đó là: Dạng sống
ưu thế của những thực vật tầng cây lập quần, độ tàn che của tầng ưu thế sinh thái,
hình thái sinh thái của nó và trạng thái của tán lá, dựa vào đó tác giả chia thảm thực
vật rừng Việt Nam thành 14 kiểu.
Trong những năm gần đây, một số công trình nghiên cứu đi sâu vào cấu
trúc rừng, thông qua việc xác định quy luật phân bố số cây theo cấp chiều cao (H vn)

và cấp đường kính (D1.3), song các kết quả nghiên cứu về cấu trúc rừng lại phục vụ
cho các mục tiêu nghiên cứu tương đối khác nhau.

8


Nguyễn Ngọc Lung và cộng sự (1986) đã nghiên cứu đặc điểm cấu trúc
rừng Thông ba lá ở Lâm Đồng làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp kinh
doanh. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: Ở rừng thuần loại đều tuổi, các phân bố
có dạng một đỉnh lệch trái và những rừng non và tiệm cận phân bố chuẩn ở những
giai đoạn phát triển về sau, ở rừng tự nhiên khác tuổi, do tái sinh liên tục theo lỗ
trống của rừng qua phương pháp chặt chọn, nên cấu trúc đứng của nó có dạng phân
bố giảm theo nhiều đỉnh, còn cấu trúc đường kính có dạng phân bố giảm một đỉnh
lệch trái (dẫn nguồn Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Công trình nghiên cứu về cấu trúc rừng ở nước ta đáng lưu ý nhất là “ Quy
luật cấu trúc của rừng gỗ hỗn loài” của Nguyễn Văn Trương (1982). Theo tác giả,
khi nghiên cứu đặc điểm lâm học của rừng phải tập trung xác định thành phần loài
cây, tìm hiểu về cấu trúc của từng loại rừng, cấu trúc đường kính thông qua phân bố
số cây và tổng diện ngang trên mặt đất, cấu trúc nhóm loài cây, tình hình tái sinh
diễn thế của rừng… Từ đó mới có được những kết quả logic cho những biện pháp
xử lý rừng có khoa học và hiệu quả, vừa cung cấp được lâm sản vừa được nuôi
dưỡng và tái sinh rừng…
Trong phương pháp nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương, tác giả đã sử
dụng ô tiêu chuẩn có diện tích từ 0,25 ha đến 1 ha trong đó các cây có D1.3  1 cm
trở lên được đo đếm về D1.3, Hvn, Dtán,… Cự ly cấp kính là 4 cm, chiều cao là 2 m,
cấp tiết diện ngang là 0,025 m2. Trong xử lý tính toán số liệu nghiên cứu theo xu
hướng hiện nay, tác giả dùng phương pháp toán học để tiếp cận vấn đề và định
lượng hóa quy luật phân bố bằng các mô hình toán học cụ thể, sau đó ông xây dựng
mô hình có cấu trúc chuẩn.
Năm 1983-1986, Nguyễn Ngọc Lung và Trương Hồ Tố đã nghiên cứu đặc

điểm cấu trúc rừng Thông ba lá ở Lâm Đồng, tác giả đã sơ kết trên những cơ sở tài
liệu lớn, đã đo đạc trên những ô tiêu chuẩn có kích thước khác nhau từ 1000 m2 –
10.000 m2 đều thấy sự phân bố cây theo cỡ kính, chiều cao, theo tuổi và trong
không gian, đồng thời xây dựng được các quy luật phân bố theo kiểu Ii, Ij, VI của
hàm Pearson cho số cây theo cỡ kính (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường, 2007).

9


Khi nghiên cứu cấu trúc rừng, việc mô hình hóa quy luật phân bố số cây
theo đường kính và theo chiều cao được chú ý nhiều hơn. Đây được xem là các quy
luật cơ bản nhất trong các quy luật kết cấu lâm phần. Biết được quy luật phân bố, có
thể xác định được số cây tương ứng từng cỡ kính hay từng cỡ chiều cao, làm cơ sở
xác định trữ lượng lâm phần.
Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) đã sử dụng hàm phân bố giảm, phân bố
khoảng cách để biểu diễn rừng thứ sinh và vận dụng vào quá trình Poisson vào
nghiên cứu cấu trúc quần thể (dẫn nguồn Mai Trí Mân, 2007).
Đồng Sĩ Hiền (1974) dùng hàm Meyer và họ đường cong Pearson để nắn
phân bố thực nghiệm số cây theo đường kính làm cơ sở cho việc lập biểu thể tích và
biểu độ thon cây đứng cho rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Trần Văn Con (1990), đã sử dụng mô hình Weibull để mô phỏng cấu trúc
số cây theo cấp đường kính (N/D1.3) của rừng Khộp và đã cho rằng khi rừng còn
non thì phân bố có dạng giảm, và khi rừng càng lớn thì càng có xu hướng chuyển
sang phân bố một đỉnh và lệch dần từ trái sang phải. Do đó sự biến thiên về lập địa
có lợi hay không có lợi cho quá trình tái sinh.
Về nghiên cứu tương quan giữa H và D1.3 có thể kể đến các tác giả như,
Đồng Sĩ Hiền, Nguyễn Hải Tuất, Vũ Tiến Hinh, Giang Văn Thắng, Bảo Huy…
Nhìn chung, các tác giả đều nhận thấy rằng tương quan giữa H và D1.3 của đối tượng
rừng tự nhiên thường tập trung ở một số dạng phương trình sau:
(1) H = a + blogD1.3


(3) logH = a +bD1.3

(2) logH = a + blogD1.3

(4) H = a + bD + cD 12.3

Tóm lại, có rất nhiều dạng phương trình biểu thị tương quan H/D1.3, việc
lựa chọn phương trình nào cho thích hợp phụ thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu,
thời gian nghiên cứu và phụ thuộc vào từng tác giả. Hàm được chọn là hàm đơn
giản, hệ số tương quan cao nhất và sai số nhỏ nhất.
2.4. Những nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lâm học, hiệu quả của tái sinh
rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Vai trò của cây con là thay thế cây già cỗi, vì vậy hiểu theo nghĩa
10


hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng chủ yếu là tầng
cây gỗ. Trên thế giới tái sinh rừng đã được nghiên cứu từ hàng trăm năm trước đây,
nhưng từ năm 1930, mới bắt đầu nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới. Do đặc điểm
của rừng tự nhiên nhiệt đới là thành phần loài rất phức tạp, nên trong quá trình
nghiên cứu, các tác giả chỉ tập trung vào các loài cây gỗ có ý nghĩa nhất định.
Richards tổng kết quá trình nghiên cứu tái sinh cho thấy, cây tái sinh có
phân bố cụm, một số có dạng Poisson.
Van Steens (1956), đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng
mưa nhiệt đới, đó là tái sinh phân tán liên tục của loài cây chịu bóng và tái sinh vệt
của loài cây ưa sáng (dẫn nguồn Phạm Vũ Phượng Trâm, 2008).
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.Obrevin (1938) nhận
thấy, cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm, ông gọi là hiện

tượng “không bao giờ sinh con đẻ cái” của cây mẹ trong thành phần tầng cây gỗ của
rừng mưa. Tổ thành loài cây mẹ ở tầng trên và cây con ở tầng dưới thường khác
nhau rất nhiều, biến đổi không giống nhau giữa các vùng. Vì vậy tổ thành loài cây
trong rừng mưa không ổn định trong không gian và thời gian. Tác giả đưa ra bức
khảm sinh thái, nhưng phần lý giải các hiện tượng trong đó còn hạn chế, ít thuyết
phục và chưa có tính thực tiễn, nhất là khi muốn đưa ra biện pháp kỹ thuật lâm sinh
nhằm điều khiển tái sinh theo mục đích kinh doanh (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường,
2007).
Dawkins (1958) đã nói, “dù cho kinh doanh được đưa vào như thế nào,
điều phải suy xét đầu tiên về lâm sinh phải là tái sinh…”. Như vậy có thể nói, vấn
đề tái sinh đã được bàn đến rất nhiều, nhất là khi xử lý lâm sinh liên quan đến tái
sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ đó, các nhà lâm học đã xây dựng
thành công nhiều phương thức chặt tái sinh (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường, 2007).
Về phương pháp điều tra tái sinh, nhiều tác giả sử dụng cách lấy mẫu ô
vuông theo hệ thống Lowder Milk (1927) với diện tích ô dao động từ 1 - 4 m2. Nếu
diện tích bé thì số ô phải tăng, ngược lại nếu diện tích ô lớn thì số lượng ô ít đi sao
cho đảm bảo tính đại diện, tính trung thực của tình hình tái sinh (dẫn nguồn Phạm
Vũ Phượng Trâm, 2008).
11


Đối với rừng nhiệt đới, các nhân tố như độ ẩm ánh sáng đất, kết cấu quần
thụ cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh rừng. Baur (1962)
cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây con. Nhưng đối
với sự nảy mầm và sinh trưởng của cây con thì ảnh hưởng đó lại không rõ.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng, người ta nhận thấy tầng cỏ và tầng cây bụi
qua quá trình sinh trưởng thu nhận ánh sáng, các chất dinh dưỡng sẽ làm ảnh hưởng
đến cây tái sinh. Những lâm phần thưa, rừng đã bị khai thác nhiều, tạo ra nhiều
khoảng trống lớn, tạo điều kiện cho thảm tươi và cây bụi phát triển mạnh. Trong
điều kiện đó chúng sẽ là nhân tố cản trở sự phát triển và khả năng sinh tồn của cây

tái sinh. Nếu lâm phần kín, đất khô, nghèo dinh dưỡng cây bụi thảm tươi phát triển
chậm sẽ tạo điều kiện cho cây tái sinh vươn lên (Xannikow, 1967, Vipper, 1973),
(dẫn nguồn Nguyễn Văn Thêm 1992).
Tóm lại, những nghiên cứu về tái sinh rừng trên thế giới cho chúng ta hiểu
biết về phương pháp nghiên cứu và quy luật tái sinh tự nhiên của một số vùng, đặc
biệt là sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ
thuật lâm sinh phù hợp nhằm quản lý rừng bền vững.
2.5. Những nghiên cứu về tái sinh rừng ở Việt Nam
Tái sinh là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng,
mà biểu hiện là mà biểu hiện là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài
cây gỗ. Hiểu theo nghĩa hẹp, tái sinh là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của
rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi có nghĩa là lợi dụng
tái sinh liên kết với tác động hợp lý của con người tạo ra một thế hệ mới có thành
phần loài cây đáp ứng mục đích kinh doanh và phù hợp với điều kiện tự nhiên, tạo
ra hệ sinh thái rừng ổn định bền vững hơn hệ sinh thái rừng ban đầu đã bị tác động.
Rừng tự nhiên nước ta tái sinh không theo quy tắc, nên quy luật tái sinh
cũng bị xáo trộn. Do đó, việc nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới rất phức tạp và gặp
nhiều khó khăn.
Từ năm 1962 đến năm 1969, Viện Điều Tra – Quy hoạch rừng đã điều tra
tái sinh ở một số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái, Quảng Ninh với sự trợ giúp
của chuyên gia Trung Quốc, ô tiêu chuẩn được lập với diện tích 2000 m2 cho từng
12


trạng thái. Đo đếm tái sinh trên ô dạng bản có diện tích từ 100 m2 đến 125 m2, kết
hợp điều tra theo tuyến. Từ đó tiến hành phân chia trạng thái rừng và đánh giá tái
sinh (dẫn nguồn Nguyễn Cao Cường, 2007).
Đến năm 1969 Vũ Đình Huề đã chia tái sinh thành 5 cấp rất tốt, tốt, trung
bình, xấu và rất xấu. Trong nghiên cứu này, việc đánh giá tái sinh rừng mới chỉ dựa
vào số lượng chứ chưa quan tâm đến chất lượng tái sinh.

Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) khi nghiên cứu về thực vật rừng Việt
Nam đã có kết luận, ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và ảnh hưởng đến quá
trình tái sinh tự nhiên trong rừng.
Định Quang Diệp (1993) nghiên cứu về tái sinh rừng tự nhiên ở rừng Khộp
vùng Easup – Đak Lak kết luận: độ tàn che, thảm mục, độ dày tầng thảm mục, điều
kiện lập địa… là những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng cây con tái sinh dưới tán
rừng. Qua nghiên cứu tác giả cho thấy tái sinh trong khu vực có dạng phân bố cụm
(dẫn nguồn Nguyễn Thị Ái Nhi, 2005).
Tái sinh tự nhiên nhiệt đới là một vấn đề rất đa dạng và phong phú. Quá
trình này bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, như vị trí địa lý, biện pháp tác động đến
tầng cây cao, nguồn gốc hình thành rừng,… Chính vì thế cho dù hai quá trình tái
sinh có những quy luật nhất định, vốn có tồn tại khách quan, nhưng do các tác động
trên làm cho chúng trở nên rất phức tạp. Tái sinh là vấn đề quan trọng, quyết định
đến quá trình kinh doanh rừng bền vững, vì thế nghiên cứu quá trình tái sinh là một
việc không thể thiếu được trong các nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên.

13


Chương 3
ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Công ty Lâm nghiệp Đơn Dương nằm về phía Đông Bắc tỉnh Lâm Đồng,
quản lý diện tích rừng và đất rừng trên địa bàn 6 xã - thị trấn phía Nam sông Đa
Nhim - huyện Đơn Dương (Dran - Lạc Xuân – Ka Đô – Pró – Ka Đơn – Tu Tra)
* Giới cận:
+ Bắc giáp: Quốc lộ 27, tỉnh lộ 412 – 413 và sông Đa Nhim.

+ Nam giáp: Tỉnh Ninh Thuận và huyện Đức Trọng.
+ Đông giáp: Tỉnh Ninh Thuận và Ban quản lý rừng Ya Hoa (Lâm Đồng).
+ Tây giáp: Huyện Đức Trọng.
* Tọa độ địa lý:
+ Từ 11038’15” đến 11050’40” vĩ độ Bắc.
+ Từ 108022’30” đến 108037’30” kinh độ Đông.
3.1.1.2. Địa hình
Công ty Lâm nghiệp Đơn Dương nằm trong vùng địa hình rừng núi trung
bình, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn. Phía Bắc và Đông Bắc có những ngọn núi
cao hơn 1000 m: Đỉnh 1650 m (tiểu khu 316 B), đỉnh 1395 m (tiểu khu 333 A).
+ Độ dốc bình quân: 25 – 270.
+ Độ cao trung bình: 900 – 1300 m.
Hướng nghiêng chung của địa hình: Đông Bắc – Tây Nam thoải dần về
hướng Đông Nam – Tây Bắc.
3.1.1.3. Khí hậu - Thủy văn

14


a) Khí hậu
Toàn bộ khu vực Công Ty Lâm nghiệp Lâm Trường Đơn Dương nói chung
và tiểu khu 322 nói riêng đều nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia
thành 2 mùa rõ rệt:
- Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, là mùa rất thuận lợi để khai
thác, vận chuyển gỗ ra khỏi rừng. Tuy nhiên mùa này dễ xảy ra cháy rừng do cành
nhánh khi khai thác để lại. Do đó cần phải tập trung khai thác và vận chuyển hết gỗ
ra khỏi rừng, đồng thời tiến hành vệ sinh rừng sau khai thác.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, là mùa sinh trưởng phát triển của cây
rừng. Cần tác động các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi rừng sau khai
thác.

- Lượng mưa bình quân: 1.625 mm/năm; cao nhất tháng 8 – 9 (3010 mm);
Thấp nhất tháng 11 – 12 (900 mm).
- Nhiệt độ bình quân: 220C.
b) Thủy văn
+ Sông suối: Nằm trong phần không có sông chủ, có một hệ thống suối
chảy về các sông sau:
- Hệ thống suối chảy về hướng Tây Bắc đổ vào sông Đa Nhim.
- Hệ thống suối chảy về hướng Đông Nam đổ vào sông Ma Nôi (Ninh
Thuận).
- Nhìn chung, tại tiểu khu 322 các lô được phân bố trên đỉnh dông. Vì vây
không có các khe và suối lớn đi qua nên thuân lợi cho việc khai thác, vận xuất, vận
chuyển.
3.1.1.4. Đất đai
Phần lớn đất Công Ty Lâm nghiệp quản lý là nhóm đất nâu đỏ, nâu vàng
và đỏ vàng giàu dinh dưỡng (nơi có rừng). Đối với diện tích nương rẫy, không còn
rừng đa số đã bị rữa trôi, xói mòn nghèo dinh dưỡng.

15


+ Đất đai – tài nguyên:
Tổng diện tích: 18.886,02 ha.
- Đất chuyên dùng: 0,90 ha.
- Đất nông nghiệp: 9,14 ha.
- Đất lâm nghiệp: 18.875,74 ha.
- Đất có rừng: 16.057,12 ha.
- Đất không có rừng:1.619,74 ha.
- Đất lâm nghiệp đang bị xâm canh nông nghiệp: 1.635,12 ha.
- Đất khác: 14,00 ha.
Trong đó:

+ Đất rừng phòng hộ: 2.935,00 ha.
- Rừng tự nhiên: 1.594,61 ha.
- Rừng trồng: 429,75 ha.
- Đất trống:109,00 ha.
- Đất lâm nghiệp xâm canh nông nghiệp: 801,64 ha.
+Đất rừng sản xuất: 15.940,98 ha.
- Rừng tự nhiên: 12.101,18 ha.
- Rừng trồng: 1.931,58 ha.
- Đất trống: 1.060,74 ha.
- Đất lâm nghiệp xâm canh nông nghiệp: 833,48 ha.
- Đất khác: 14,00 ha.
+ Tài nguyên rừng:
Tổng trữ lượng: 1.1.545.136 m3.
- Rừng tự nhiên: Có nhiều loại rừng và trạng thái rừng với trữ lượng
1.471.944 m3.
- Rừng trồng: Loài cây trồng chủ yếu là Thông ba lá với tổng diện tích
2.361,33 ha, trữ lượng 73.192 m3 (trong đó 1.500 ha giai đoạn 2 đủ điều kiện đưa
vào kinh doanh (khai thác trắng, tỉa thưa, nuôi dưỡng . . .).
- Đất không rừng: Chủ yếu là nương rẫy cũ và đất chưa có rừng (IA, IB,
IC) có khả năng trồng rừng.
16


- Đất nông nghiệp: Đang chuyên canh cây hồng ăn quả 7,65 ha tại thôn Phú
Thuận – Dran.
- Đất chuyên dùng: Gồm đất xưởng cưa, trụ sở cơ quan và các nhà làm việc
phân trường tại các xã thị trấn 0,89 ha.
- Đất lâm nghiệp đang bị xâm canh nông nghiệp phần lớn diện tích đã tác
động từ lâu như cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày (nương rẫy cố định).
3.1.2. Đặc điểm dân sinh, kinh tế - xã hội

3.1.2.1. Dân số, dân tộc và lao động
Sống dọc theo bìa rừng Công Ty Lâm nghiệp quản lý có 32 thôn/6 xã, thị
trấn. Trong đó có 27 thôn hoàn toàn là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
+ Tổng số hộ: 4.277 hộ (kinh: 922 hộ chiếm 22 %, dân tộc: 3.355 hộ chiếm
78 %).
+ Tổng số khẩu: 25.362 khẩu (kinh: 4.281 khẩu chiếm 17 %, dân tộc:
21.081 khẩu chiếm 83 %).
+ Tổng số lao động: 11.920 lao động (Nam: 5.722 lao động chiếm 48 %,
nữ: 6.198 lao động chiếm 52 %).
3.1.2.2. Tình hình xã hội, dân trí, an ninh quốc phòng
Phần lớn, đồng bào dân tộc sống tại các thôn dọc bìa rừng là đồng bào dân
tộc bản địa. Trong đó phần lớn thuộc các sắc tộc: K’ho, Chu Ru, Chill, Rag-lay…)
Văn hóa xã hội: Nhìn chung, hiện tại trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
đã có nhiều tiến bộ. Do điều kiện sống cạnh quốc lộ, gần người kinh tiếp xúc trực
tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình…) nên sự thay
đổi về nhận thức và hành động nhanh. Tuy vậy, đến nay vẫn còn tồn tại một số hủ
tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin gây lãng phí và tốn kém đã góp phần làm cho
đời sống một số hộ, một số vùng ngày càng khó khăn.
Thông qua công tác tuyên truyền vận động và hoạt động cụ thể (tham gia
công tác lâm nghiệp), Công ty Lâm nghiệp đã đóng góp một phần làm cho đời sống
văn hóa – xã hội và kinh tế trong vùng đồng bào dân tộc nơi đóng quân ngày càng
khởi sắc.

17


3.1.2.3. Đặc điểm kinh tế
Người K’ho có tập quán làm lúa nước và những năm gần đây đã biết làm
rau thương phẩm nên đời sống tương đối ổn định.
Người Cill và Rag-lay với tập quán canh tác lúa rẫy, đất đai bạc màu, diện

tích canh tác ít nên đời sống gặp nhiều khó khăn. Trong những năm qua, đây là lực
lượng chính tham gia công tác lâm nghiệp trên địa bàn, hiện đã có một số lớn lao
động tham gia cho các hộ kinh canh tác nông nghiệp: bốc vác, trồng rau thương
phẩm … nên vào mùa cao điểm của thời vụ, nguồn lao động tại chỗ huy động khó
khăn. Chăn nuôi trong vùng khá phát triển với trâu, bò chăn thả là chủ yếu.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của chính phủ, địa phương
cũng đã khai hoang giao đất sản xuất cho một số hộ đồng bào và lập nên 1 số thôn
mới, tình hình đời sống của đồng bào nơi đây còn gặp nhiều khó khăn.
3.1.2.4. Kết cấu hạ tầng
Nhìn chung cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) trên địa bàn tương
đối hoàn chỉnh, đường ô tô đã đến được 100 % xã, điện quốc gia đã kéo 100 %
thôn, các xã đều có trường cấp I và trung tâm xã P’ró có trường cấp II – III phục vụ
giảng dạy cho con em đồng bào. Đường 413 - đường liên thôn – xã, trạm y tế,
trường cấp I – II – III đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân trong vùng.
Tuy vậy, đường nội bộ, đường lâm nghiệp trong lâm phần Công ty Lâm
nghiệp sau nhiều năm không được đầu tư sửa chữa đã hư hỏng hoàn toàn, việc đi lại
trong lâm phần chủ yếu là đi bộ.
3.1.3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
Công ty Lâm nghiệp Đơn Dương hoạt động theo cơ chế vừa sản xuất kinh
doanh, vừa hoạt động công ích. Trong thời gian qua, nhiệm vụ chính của đơn vị là
QLBV và phát triển rừng, PCCC rừng, bán cây đứng thông qua qui chế đấu thầu,
đánh giá của UBND tỉnh. Ngoài ra, đơn vị được phép kinh doanh lâm sản phụ, khai
thác tận dụng lâm sản tỉa thưa, nuôi dưỡng rừng trồng … Thực hiện đề án sắp xếp,
đổi mới Công ty Lâm nghiệp quốc doanh giai đoạn 2005 – 2010, từ năm 2006 đến
nay, nguồn gỗ được phép khai thác từ rừng tự nhiên hằng năm được UBND tỉnh
giao ổn định cho đơn vị phục vụ chế biến. Đây là điều kiện thuận lợi giúp đơn vị
18


mở rộng tổ chức khai thác chế biến gỗ từ nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm hạ giá

thành, nâng cao giá trị hàng hóa và đem lại hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Về nhiệm vụ công ích
- Quản lý bảo vệ rừng:
Duy trì công tác giao khoán QLBV rừng hằng năm. Đối tượng nhận khoán
chủ yếu là đồng bào dân tộc tại chỗ và một số ít hộ người kinh sống gần rừng. Tổng
diện tích giao khoán QLBV rừng bình quân hằng năm là: 10.417,81 ha cho 406 hộ.
Trong đó:
+ Giao khoán QLBV rừng ngân sách tỉnh: 7.344,91 ha – cho 289 hộ.
+ Giao khoán QLBV rừng dự án 661: 1.696,94 ha – cho 67 hộ.
+ Giao khoán QLBV rừng quyết định 304: 1.376,28 ha – cho 50 hộ.
- Công tác xây dựng vốn rừng:
Theo chỉ tiêu kế hoạch giao hằng năm, bằng các nguồn vốn, đến nay tổng
diện tích rừng trồng tại đơn vị là 2.361,33 ha. Nhìn chung, chất lượng rừng trồng
không cao do chưa đầu tư đúng mức các giải pháp lâm sinh đối với rừng trồng giai
đoạn II.
- Khai thác cây gỗ đứng:
Trong 3 năm qua (2005 – 2007), tổng khối lượng khai thác bán gỗ cây
đứng tại đơn vị là: 3.476,472 m3 với doanh thu: 5.182.345.543 đồng.
Về nhiệm vụ kinh doanh
- Lâm sản tỉa thưa, nuôi dưỡng rừng trồng: 2.592,819 m3.
- Song mây: 131.712 kg.
- Chế biến gỗ rừng tự nhiên: 564,284 m3 gỗ thành phẩm trong 3 năm, đơn
vị thực hiện đạt được:
+ Tổng doanh thu: 9.834.561.804 đồng.
+ Nộp ngân sách: 2.506.902.710 đồng.
+ Lãi trước thuế: 614.364.285 đồng (bình quân: 204.788.05 đồng/năm) thu
nhập bình quân của CBCNV năm sau cao hơn năm trước, cụ thể là:
+ Năm 2005: 1.301.770 đ/người/tháng.
+ Năm 2006: 1.757.410 đ/người/tháng.
19



+ Năm 2007: 2.308.565 đ/người/tháng.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, các nội dụng nghiên cứu
được thực hiện trong đề tài bao gồm:
+ Xác định tổ thành loài thực vật trạng thái IIIA3
+ Xác định độ hỗn giao của rừng
+ Xác lập quy luật phân bố số cây theo cấp đường kính (N/D1,3)
+ Xác lập quy luật phân bố số cây theo cấp chiều cao (N/H)
+ Xác định quy luật phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1,3)
+ Xác lập quy luật tương quan giữa chiều cao và đường kính (H/D1,3)
+ Đánh giá tình hình tái sinh dưới tán rừng:
- Tổ thành loài cây tái sinh
- Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao
+ Xác định độ tàn che của rừng (trắc đồ David và Richards)
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Cơ sở phương pháp luận
Trên cơ sở nội dung nghiên cứu cụ thể được xác định như trên, phương
pháp được sử dụng trong đề tài là khảo sát khu vực nghiên cứu, điều tra, quan sát
thu thập số liệu trên thực địa, thu thập các tài liệu liên quan đến khu vực nghiên
cứu, thu thập các số liệu tại các ô mẫu và phân tích những hiện tượng thấy được
trong rừng tự nhiên trạng thái IIIA3 tại khu vực nghiên cứu (tiểu khu 322, xã Lạc
Xuân, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng). Tổng hợp và rút ra những nhận định
chung về một số đặc điểm và cấu trúc của rừng tự nhiên trạng thái IIIA3, qua đó đề
xuất những biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho phù hợp với tình hình rừng.
3.3.2 Phương pháp thu thập
Khảo sát khu vực nghiên cứu, thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài, kế
thừa những tài liệu có sẵn.
Trong đề tài này, tác giả đã căn cứ vào quy trình điều tra quy hoạch rừng

ban hành năm 1998 trong điều tra lâm học để đánh giá cấu trúc rừng, tình hình tái
sinh tự nhiên, tổ thành loài thực vật rừng căn cứ vào tình hình cụ thể của khu vực
20


điều tra. Đồng thời áp dụng các quy trình điều tra trong công tác ngoại nghiệp (Giáo
trình Điều tra rừng của TS. Giang Văn Thắng) để điều tra trên các ô mẫu điển hình
(ô tiêu chuẩn tạm thời) có dạng hình chữ nhật với diện tích 2000 m2 (40 m x 50 m),
đại diện cho tình hình sinh trưởng ở trạng thái rừng IIIA3. Số lượng ô mẫu cho trạng
thái này là 3 ô.
3.3.3. Nội dung điều tra và các biện pháp kỹ thuật
3.3.3.1. Nội dung thu thập số liệu
- Số liệu điều tra, thu thập được ghi vào phiếu mẫu biểu theo quy định
trong quy trình Điều tra lâm học do Viện Điều tra Quy hoạch rừng ban hành như
sau:
- Mô tả tình hình chung của lâm phần.
- Đo đếm các chỉ tiêu, D1.3, Hvn, DT, phẩm chất cây.
- Vẽ trắc đồ dọc, ngang thể hiện cấu trúc tầng tán rừng và phân bố các cá
thể trong lâm phần, từ đó xác định độ tàn che của rừng.
- Điều tra tình hình tái sinh dưới tán rừng.
- Đề xuất các biện pháp lâm sinh nuôi dưỡng, phục hồi rừng.
3.3.3.2. Biện pháp kỹ thuật
Xác định những khu vực đặc trưng cho trạng thái IIIA3 trên bản đồ. Khảo
sát thực địa nghiên cứu. Điều tra lập ô tiêu chuẩn, đảm bảo phản ánh được các đặc
điểm lâm sinh của khu vực điều tra, tiến hành lập ô tiêu chuẩn.
Sử dụng địa bàn cầm tay để mở ô tiêu chuẩn, đường quanh ô phát rộng đủ
để cắm tiêu và dể dàng nhận ra vị trí 4 góc của ô. Tại 4 góc đóng 4 cọc, đỉnh cọc
mốc được vót 4 mặt và có ghi ký hiệu ô. Các yếu tố đo đếm và ghi chép thay đổi tùy
theo từng loại thực vật.
Điều tra cây gỗ lớn

- Tên cây: Xác định đến loài cây không biết ghi theo ký hiệu sp1, sp2, ….
Xác định tầng thứ (theo ký hiệu phân tầng của Thái Văn Trừng, 1978).
- Đo D1,3 bằng thước mét dây và ghi số hiệu cây ở vị trí 1,3 m (vị trí ngang
ngực). Đo toàn bộ cây đứng có đường kính D1,3  8 cm.

21


- Đo chiều cao vút ngọn (Hvn, m) và chiều cao dưới cành (Hdc, m) bằng gậy đo
cao, sau đó mục trắc và điều chỉnh sai số. Hvn của cây rừng được xác định từ gốc cây
đến đỉnh sinh trưởng của cây. Hdc được xác định từ gốc cây đến cụm cành đầu tiên tham gia
vào tán của cây rừng.
- Xác định phẩm chất cây: Phẩm chất cây phân theo 3 loại: a, b,c và ghi
chú tình hình dây leo ảnh hưởng trực tiếp cây đứng.
º Loại a: Cây thân thẳng, phát triển tốt, tán cân đối không có hiện tượng
sam bọng, sâu bệnh, cụt ngọn,hại thân.
º Loại b: Thân cong, phát triển trung bình, tán mất cân đối, không có hiện
tượng sam bọng, sam bọng, sâu bệnh.
º Loại c: Thân cong queo, phát triển kém, cụt ngọn, có từ hai thân trở lên,
có hiện tượng sam bọng, sâu bệnh.
Đo đếm cây tái sinh
Ở mỗi ô tiêu chuẩn 2000 m2 lập 4 ô tái sinh 25 m2 (5 m x 5 m) tại 4 góc ô và
đo đếm cây tái sinh theo cấp chiều cao: H  1,0 m; 1,0 < H < 2,0 m; 2,0 < H < 3,0
m; H  3 m và sinh lực (chất lượng) của cây: khỏe/yếu.
Nội dung thu thập trong ô tái sinh: Xác định tên cây, chiều cao, chất lượng
cây tái sinh …
Xác định mật độ cây tái sinh, thành phần loài cây tái sinh.
Cây tái sinh được phân theo hai cấp chất lượng: khỏe/yếu.
+ Cây khỏe: là cây luôn xanh tốt, sinh trưởng và phát triển tốt, không bị sâu
hại, không có biểu hiện bị ức chế hoặc bị đổ gãy.

+ Cây yếu: được phản ánh bằng sức sinh trưởng kém và không ổn định, cây
bị sâu hại nặng, cây đang chết từng phần hoặc bị gãy đổ.
Số liệu điều tra ghi biểu riêng cho từng ô dạng bản.
- Vẽ trắc đồ: Trắc đồ được vẽ theo phương pháp David & Richards, vẽ trên
giấy kẻ ly và tính toán độ tàn che. Biểu diễn trên giấy kẻ ô ly với dải rừng có diện
tích 400 m2 (40 m x 10 m), vẽ với tỷ lệ 1/200. Sử dụng các yếu tố đã xác định để vẽ:
chiều cao (Hvn, Hdc), đường kính tán, toạ độ của từng cây, sau đó tính diện tích tán
che trên giấy kẻ ly, tính tỉ lệ %.
22


3.3.4. Phương pháp phân tích và tính toán số liệu
Số liệu đo đếm trước khi đưa vào phân tích được kiểm tra lại nhằm loại bỏ
các số liệu khác biệt so với tổng thể chung trong quá trình đo đếm. Sau đó nhập số
liệu vào máy vi tính để xử lý, phân tích tính toán bằng phần mềm Excel hoặc
Statgraphics Plus 15.1(tùy từng nội dung nghiên cứu) dưới sự hướng dẫn của thầy
Nguyễn Minh Cảnh.
Các nhân tố điều tra, đo đếm trong ô tiêu chuẩn được tổng hợp, xử lý và tính
toán bao gồm:
+ Tính tổ thành loài (IV %).
+ Tính độ hỗn giao.
+ Tính các đặc trưng mẫu: D1,3 bình quân, Hvn bình quân, N/ha bình quân, trữ
lượng bình quân …
+ Xác lập phân bố N theo cấp D1,3, phân bố N theo H, phân bố M theo cấp
D1,3, tương quan giữa Hvn và D1,3 … cho trạng thái rừng IIIA3.
+ Đánh giá tình hình tái sinh dưới tán rừng.
+ Vẽ trắc đồ cho trạng thái rừng đang nghiên cứu, tính toán độ tàn che.
(i) Xác định tổ thành tầng cây cao
Đề tài sử dụng phương pháp tính tỷ lệ tổ thành theo phương pháp của Daniel
Marmillod (Vũ Đình Huề, 1984):

IVi % 

Ni %  Gi %
2

Trong đó:
IV % là tỉ lệ tổ thành của loài i.
Ni là % theo số cây của loài i trong quần xã thực vật rừng.
Gi là % theo tổng tiết diện ngang của loài i trong quần xã thực vật rừng.
Theo Daniel Marmillod, những loài cây có IV  5 % mới thực sự có ý nghĩa
về mặt sinh thái trong lâm phần. Theo Thái Văn Trừng (1978), trong một lâm phần
nhóm loài cây nào đó lớn hơn 50 % tổng số cá thể của tầng cây cao thì nhóm loài đó
được coi là nhóm loài ưu thế. Cần tính tổng IV % của những loài có trị số này lớn
hơn 5 %, xếp từ cao xuống thấp và dừng lại khi tổng IV % đạt 50 %.

23


(ii) Xác định mật độ rừng
N/ha 

n
 10.000
S

Trong đó:
n: Số lượng cá thể của loài hoặc tổng số cá thể trong ô tiêu chuẩn
S: Diện tích ô tiêu chuẩn (m2)
(iii) Xác định độ tàn che
Kết hợp quan trắc và phẫu đồ ngang để xác định tỉ lệ che phủ (%) hình chiếu tán

cây rừng so với bề mặt đất rừng thông qua các phẫu đồ rừng theo phương pháp của
David và Richards.
(iv) Xác định phân bố số cây theo cấp đường kính (N/D1.3), phân bố số cây theo
cấp chiều cao (N/H), phân bố trữ lượng theo cấp đường kính (M/D1,3), tương quan
giữa chiều cao và đường kính (H/D1,3)
Việc xác định các phân bố thực nghiệm được thực hiện trên phần mềm Excel.
Việc xác lập các hàm phân bố lý thuyết (mô hình hóa) được thực hiện trên phần mềm
Statgraphics plus 15.1.

(v) Tính toán tiết diện ngang (G, m2/cây) và thể tích thân cây (V, m3/cây)
+ Tính tiết diện ngang của các cây trong ô tiêu chuẩn theo công thức:
G


 D12, 3
4

+ Tính thể tích thân cây đứng được xác định theo công thức:
V 


 D12,3  H  f 1, 3
4

(với f1,3 = 0,45)

(vi) Tính toán độ hỗn giao
Độ hỗn giao được tính bằng công thức: K = X/N
Với


K là độ hỗn giao
X là tổng số loài
N là tổng số cây

Khi X = N => K = 1

: rừng thuần loài

Khi X < N => 0 < K < 1

: rừng hỗn loài có độ hỗn giao

24


0 < K < 0,5

: rừng hỗn loài có độ hỗn giao thấp

0,5 < K < 1

: rừng hỗn loài có độ hỗn giao cao

(vii) Đánh giá tái sinh rừng
+ Tổ thành cây tái sinh:
m

 ni
Xác định số cây trung bình theo loài dựa vào công thức: n 
Trong đó:


i 1

m

n là số cây trung bình theo loài.

m là tổng số cá thể điều tra.
ni là số lượng cá thể loài i.
+ Mật độ cây tái sinh:
Là chỉ tiêu biểu thị số lượng cây tái sinh trên một đơn vị diện tích, được xác
định theo công thức sau:
N/ha 

10.000  n
S odb

Với S là tổng diện tích các ô dạng bản điều tra tái sinh (m2) và n là số lượng
cây tái sinh điều tra được. Cụ thể, tổng diện tích các ô dạng bản điều tra tái sinh là: 300
m2 (4 ô dạng bản/1 ô tiêu chuẩn x 25 m2/1 ô dạng bản * 3 ô tiêu chuẩn = 300 m2).
+ Phân cây tái sinh theo 2 cấp chất lượng: khỏe và yếu.
+ Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao
Qua điều tra thực tế, chiều cao cây tái sinh tại khu vực nghiên cứu được
phân thành 4 cấp: H  1,0 m; H: 1,0 – 2,0 m; H: 2,0 – 3,0 m và H  3,0 m ở
những cây có D1,3 < 8 cm.
Vẽ biểu đồ biểu diễn tổ thành loài cây tái sinh, phân bố số lượng cây tái sinh
theo cấp chiều cao và cấp chất lượng.
(viii) Phương pháp tính toán các đặc trưng mẫu và mô hình hóa
Để phục vụ cho việc phân bố số cây theo các chỉ tiêu D1,3, Hvn, … đề tài tập
hợp số liệu theo hình thức chia tổ sau:


25


×