Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TỐ HÌNH BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.38 KB, 15 trang )

A. MỞ ĐẦU
Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế nghiêm
khắc trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên đây là biện pháp ngăn chặn tác
động trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người bị bắt. Vì vậy
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người cần đòi hỏi tuân thủ chặt chẽ quy định
của pháp luật, nhằm tránh gây ra những hậu quả xấu trong việc đảm bảo quyền con
người trong tố tụng hình sự, đồng thời tránh ảnh hưởng đến hiệu lực pháp luật, làm
giảm uy tín của nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong bài tập lần này
em xin lựa chọn đề bài: “Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về bắt bị can, bị
cáo để tạm giam và việc hoàn thiện quy định này” để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM
GIAM.
1. Khái niệm bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt
người nhưng còn chưa thật sự đầy đủ, chưa bao hàm được hết mục đích, phạm vi
đối tượng cũng như thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Theo giáo trình
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Bắt bị can, bị
cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm
tộicũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự”.1
1 Tr.206, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

1


Việc áp dụng biện pháp bắt người này được thực hiện bởi những người có thẩm
quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đồng thời việc đưa ra một
khái niệm đầy đủ về biện pháp ngăn chặn bắt người này tạo điều kiện thuận lợi cho


các Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp luật, bắt đúng người, đúng tội,
tránh oan sai, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền tự do
của công dân. Đồng thời góp phần giải quyết kịp thời, nhanh chóng vụ án hình sự,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
2. Ý nghĩa của việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Xuất phát từ mục đích chung của biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự là
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm; ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; cũng như ngăn chặn bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội, có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của biện pháp ngăn chặn
bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong Tố tụng hình sự, cụ thể:
Thứ nhất, bắt bị can, bị cáo để tạm giam góp phần quan trọng vào công tác đấu
tranh chống tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì
thế, đây được coi là nhiệm vụ quan trong hàng đầu của Nhà nước ta, đòi hỏi phải
được tiến hành kiên quyết, triệt để, đấu tranh không khoan nhượng không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc
như bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong tố tụng hình sự không những nâng cao
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, mà còn là cơ sở pháp lý
quan trọng để Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thay mặt Nhà
nước áp dụng nhằm đạt được mục đích cuối cùng của tố tụng hình sự.
Thứ hai, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho việc ngăn ngừa tội
phạm. Ngăn ngừa tội phạm là ngăn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra
hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện được tiếp tục. Khi thực hiện tội
phạm, người phạm tội luôn mong muốn thực hiện tội phạm tới cùng, bất chấp hậu
2


quả xảy ra. Vì thế, không có căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm hay đang thực hiện một tội phạm xâm hại đáng kể đến các quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người nói

chung và biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói riêng là vô cùng
cần thiết, góp phần ngăn ngừa tội phạm tiếp tục xảy ra, đồng thời góp phần làm
giảm bớt hậu quả do tội phạm gây ra.
Thứ ba, bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Để góp phần tìm ra sự thật của vụ án cũng
như xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt là
rất cần thiết. Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng nhằm đảm bảo các điều kiện
pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy
định của pháp luật; bảo đảm cho sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố
tụng khi cần thiết.
II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 VỂ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM.
1. Đối tượng áp dụng:
Điều 80 Bộ luật Tố tụng hình sự ( BLTTHS ) 2003 quy định về trường hợp bắt
bị can, bị cáo để tạm giam. Ngay tên gọi của biện pháp ngăn chặn này đã chỉ rõ đối
tượng áp dụng là bị can, bị cáo – những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc đã bị
Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những người chưa bị khởi tố về hình sự
hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không phải là đối tượng áp
dụng của biện pháp này.
2. Điều kiện áp dụng:
Các trường hợp bị tạm giam theo quy định tại Khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng
hình sự đó là:

3


Thứ nhất, đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất
nghiêm trọng. Xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội của hành vi phạm tội, xâm phạm
nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, có thể thấy rằng

việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng là cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm tìm ra sự thật của vụ án một
cách nhanh chóng, kịp thời.
Thứ hai, đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người
đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội. Để có thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong trường hợp này cần có hai điều
kiện:

 Điều kiện thứ nhất: Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiệm trọng
nhưng có hình phạt tù trên 2 năm. Điều này có nghĩa không áp dụng biện
pháp bắt tạm giam đối với các bị can, bị cáo mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt từ hai năm tù trở xuống, như các tội: Tội giết con mới đẻ (Điều
94 Bộ luật Hình sự); Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng (Điều 96 Bộ luật Hình sự); Tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự);


 Điều kiện thứ hai: Có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định bị
can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội thường căn cứ vào yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét
xử và sự cần thiết của việc ngăn chặn tội phạm, thái độ của bị can, bị cáo
4


khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện
pháp tạm giam.
3. Căn cứ áp dụng:

Khi quy định về biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam điều 80 Bộ
luật Tố tụng hình sự không đề cập đến điều kiện bắt bị can, bị cáo để tạm giam
cũng như căn cứ để áp dụng biện pháp ngắn chặn này. Vì thế việc áp dụng biện
pháp bắt người này thường được thực hiện dựa trên các căn cứ quy định tại Điều 79
Bộ luật Tố tụng hình sự (Các biện pháp và căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn).
Các căn cứ đó gồm:
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khắn cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử;
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;
- Khi có căn cứ rõ ràng chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc thi
hành án.
Tuy nhiên không phải bất kỳ bị can, bị cáo nào cũng có thể bị bắt để tạm giam.
Đối với những bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có thái độ
ăn năn hối cải, tích cực cộng tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm rõ tội
phạm, có nơi cư trú rõ ràng, khả năng trốn tránh pháp luật hoặc tiếp tục phạm tội
không lớn thì có thể để họ tại ngoại hoặc áp dụng biên pháp ngăn chặn khác ít
nghiêm khác hơn như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh…
4. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Khoản 1 Điều 80 BLTTHS đã quy định một cách chặt chẽ về những người có
thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bao gồm:
- Viện trưởng, Phó Viên trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát
quân sự các cấp;
5


- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử;
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp
này lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi

hành.
Điều luật đã quy định cụ thể thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong
từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Trong gia đoạn điều tra, việc bắt bị can để
tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp quyết định,
Trường hợp Cơ quan điều tra ra lệnh bắt bị can để tạm giam thì phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Đây là thủ tục pháp lý bắt buộc
nhằm kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của lệnh bắt để đảm bảo hiệu lực của
lệnh bắt người cũng như sự cần thiết phải bắt tạm giam bị can. Ngoài ra quy định
này còn hạn chế tình trạng lạm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có
tác động một cách trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy
nhiên điều luật chưa quy định cụ thể về thời hạn xét phê chuẩn của Viện kiểm sát
đối với lệnh bắt bị can để tạm giam của Cơ quan điều tra, nên trên thực tế các Cơ
quan tiến hành tố tụng thường dựa vào thời hạn xét phê chuẩn đối với lệnh tạm
giam (theo quy định tại điều 88 BLTTHS) để áp dụng trong trường hợp này.
Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can để tạm giam do Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp quyết định. Trong
giai đoạn xét xử việc bắt bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó
Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao, Hội đồng xét xử quyết định.

6


5. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
Khi tiến hành biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Khoản 2 Điều
80 BLTTHS đã quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này: phải có lệnh
bắt của người có thẩm quyền, lệnh đó phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức
vụ của người ra lệnh, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt, lệnh bắt phải có chữ ký
của người ra lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải
thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.

Nội dung biên bản về việc bắt người phải ghi rõ ngày, tháng, năm, giờ, địa điểm,
nơi lập biên bản, những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt,
những đồ vật, tài liệu tạm giữ, những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải đọc
lại cho người bị bắt, người chứng kiến nghe và cùng ký tên. Nếu có ý kiến khác
hoặc không đồng ý với nôi dung biên bản thì phải ghi ý kiến đó hoặc lý do vào biên
bản và ký tên. Việc quy đinh trình tự, thủ tục bắt bị can, bị cáo chặt chẽ như vậy sẽ
góp phần bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tự do cá nhân của công
dân, đồng thời đề cao trách nhiệm của cá nhân người ra lệnh bắt và người thực hiện
lệnh bắt.
Về việc chứng kiến hoạt động bắt người, điều luật cũng có quy định rõ: “Khi
tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã,
phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành
bắt người tại nơi người đó làm việc phải có cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại
diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người”. Việc quy định
thành phần chứng kiến hoạt động vừa góp phần đảm bảo tính công khai, minh bạch
của hoạt động bắt người, vừa gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam không mang tính chất cấp bách như bắt
người trong trường hợp khẩn cấp, quả tang hay truy nã. Vì vây, để đảm bảo chính
7


đáng quyền lợi của người bị bắt, của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, tránh
gây căng thẳng do việc bắt người gây ra tại khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định:
“không được bắt người vào ban đêm…”. Ban đêm được tính từ 22h tối hôm trước
tới 6h sáng hôm sau, điều đó có nghĩa là chỉ có thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam từ
6h sáng tới 22h đêm. Ngoài thời gian đó mà bị bắt là vi phạm thủ tục Tố tụng hình
sự. Điều luật đã quy định rõ hơn, cụ thể hơn theo hướng thu hẹp những người có
quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Việc quy định như vậy là nhằm bảo vệ tốt

hơn quyền và lợi ích của bị can, bị cáo, đồng thời đề cao quyền và trách nhiệm của
người có quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
6. Bắt bị can, bị cáo trong trường hợp đặc biệt:
Bên cạnh những trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam thông thường thì có
một số những trường hợp bắt người đặc biệt như: Bắt Đại biểu quốc hội, bắt người
nước ngoài phạm tội. Việc bắt các đối tượng đặc biệt này không chỉ tuân thủ các
quy định trong BLTTHS mà còn phải tuân thủ những quy định tương ứng trong các
văn bản khác.
a, Bắt Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội:
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người nói chung, bắt để tạm giam nói
riêng với đối tượng phạm tội là Đại biểu Quốc hội được quy định khá chặt chẽ.
Điều 81 Hiến pháp năm 2013 quy định: “không được bắt, giam giữ, khởi tố Đại
biểu Quốc hội nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội
không họp không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội…”. Ngoài ra Điều
58 Luật Tổ chức Quốc hội 2014 còn quy định: “Không được khám xét nơi ở và nơi
làm việc của Đại biểu Quốc hội, việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và
nơi làm việc của Đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao”. Theo các quy định trên của Hiến pháp và Luật Tổ chức
Quốc hội, việc bắt giữ, khởi tố đối với người phạm tội là Đại biểu Quốc hội phải
được sự đồng ý của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Còn đối với việc
8


tiến hành lệnh bắt người đối với Đại biểu Hội đồng nhân dân phạm tội trong thời kỳ
Hội đồng nhân dân họp thì phải có sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp.
b, Bắt người chưa thành niên phạm tội:
Khi tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối
với người chưa thành niên phạm tội, bên cạnh việc tuân thủ các quy định chung về
căn cứ áp dụng biện pháp bắt người quy định tại Điều 80, Điều 88 BLTTHS thì còn
phải tuân thủ các quy định riêng đối với người chưa thành niên quy định tại Điều

303 BLTTHS: “1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt nếu có đủ căn
cứ quy định tại điều 80, điều 88 của BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. 2. Người từ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt nếu có đủ căn cứ quy định tại điều 80, điều 88 của
BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”.
Việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội không chỉ căn cứ vào quy định tại điều 80, điều 88 BLTTHS mà còn
căn cứ vào lứa tuổi thực hiện hành vi phạm tội, mức độ lỗi cũng như tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ngoài ra, khoản 3 của điều 303 cũng quy
định khi có lệnh bắt người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại
diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bị bắt.
c, Bắt người nước ngoài phạm tội:
Theo Điều 5 BLHS 1999 thì người nước ngoại phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam
thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi miễn trừ về
lãnh sự thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường
ngoại giao. Đồng thời việc bắt giữ hoặc có hành động xâm phạm đến quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của họ sẽ không được áp dụng. Sau khi lập xong biên bản vi

9


phạm thì tạo điều kiện cho họ trở về nhiệm sở và thông báo ngay cho Bộ ngoại
giao.
Đối với người nước ngoại phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam nhưng không thuộc
đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc ưu đãi miễn trừ về lãnh sự
thì áp dụng BLHS để xử lý đối với mọi hành vi phạm tội của họ. Việc áp dụng thủ
tục bắt đối tượng này được tiến hành như thủ tục bắt được quy định trong BLTTHS.
Sau khi bắt đối tượng này, các cơ quan tiến hành tố tụng cần có văn bản thông báo
cho Sở ngoại vụ để theo dõi, xác định quốc tịch của đối tượng đó và thông báo cho

cơ quan đại diện ngoại giao nước họ biết để phối hợp xử lý.
III. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUY ĐỊNH BẮT BỊ
CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM.
Việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn việc áp
dụng các quy định của BLTTHS trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can,
bị cáo để tạm giam hiện nay là một trong những giải pháp quan trọng nhằm đảm
bảo việc bắt đúng đối tượng, hạn chế tình trạng bắt tràn lan, bắt oan sai, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ nhất, sửa đổi Điều 80 BLTTHS năm 2003:
BLTTHS 2003 chưa đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để
tạm giam mà chỉ mới nêu được thẩm quyền áp dụng, đối tượng và trình tự thủ tục
áp dụng đố với biện pháp này. Vì vậy cần ghi nhận khái niệm về biện pháp ngăn
chặn này vào khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003 để các cơ quan tiến hành tố tụng
hiểu và áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn này
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại điều 80 BLTTHS với tên
gọi là “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” nên đã dẫn đến cách hiểu sai là bắt người là
một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam. Vì vậy có thể xác định tên gọi của chế
định này là bắt tạm giam bị can, bị cáo.
10


Khoản 1 Điều 80 BLTTHS quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng
mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, nội dung lệnh bắt, trình tự, thủ tục bắt và
thời điểm bắt; chưa có quy định về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi áp
dụng biện pháp ngăn chặn này thì cơ quan điều tra lại phải căn cứ quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 88 BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam trong khi Điều 80 BLTTHS không có viện dẫn về căn cứ. Như vậy không có
sự liên kết giữa các điều luật mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu và áp
dụng. Do đó, điều luật này cần được bổ sung và thay đổi để phù hợp hơn.
Thứ hai, bổ sung Điều 88 BLTTHS

Về vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì BLTTHS nên quy
định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của VKS theo từng loại vụ án đơn giản hay
phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án.
Khoản 3 Điều 88 BLTTHS có quy định về thời hạn của VKS xem xét là: “Trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và
hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”. Trên thực tế, có những vụ việc
đơn giản mà tài liệu lại không nhiều thì VKS có thể xem xét phê chuẩn trong thời
hạn ba ngày, xong đối với những vụ án phức tạp, số lượng tài liệu lớn thì cần phải
có nhiều thời gian cho việc xem xét và phê chuẩn.
Thứ ba, cần nâng cao năng lực chuyên môn và nâng cao phẩm chất đạo đức của
các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Đối với Cơ quan điều tra: cần nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên, thường
xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ
cho điều tra viên.

11


Đối với Viện kiểm sát: cần kiểm sát chặt chẽ việc phê chuẩn lệnh tạm giam,
đảm bảo không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của những đối tượng
không bị tạm giam.
Đối với Tòa án: cần thường xuyên tiến hành việc tập huấn nghiệp vụ cho các
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn tạm giam. Cần phải có văn bản hướng dẫn trực tiếp về các trường hợp áp
dụng, thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án, Phó chánh
án và Hội đồng xét xử cũng như về thời hạn tạm giam trong từng giai đoạn của quá
trình xét xử.


C. KẾT LUẬN
Bắt người nói chung và bắt bị can, bị cáo để tạm giam nói riêng là một trong
những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong Bộ luật Tố tụng hình sự ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể và các quyền nhân thân quan trọng nhất
của người bị bắt. Đây có thể xem là một biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn người
bị nghi đã thực hiện tội phạm tiếp tục thực hiện tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án để giải quyết nhanh chóng và kịp thời vụ án.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội 2015.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, NXB Lao động
3. Bộ luật hình sự 1999, NXB Lao động
4. Luật Hiến pháp 2013, NXB Lao động
5. Luật Tổ chức Quốc hội 2014, NXB Lao động
6. Dương Thị Hồng Dĩnh, Luận văn thạc sĩ Bắt bị can, bị cáo để tạm giữ, tạm giam
7. Trang web:
/>
13


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
B. NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM

GIAM.....................................................................................................................1
1. Khái niệm bắt bị can, bị cáo để tạm giam:.....................................................1
2. Ý nghĩa của việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam:..........................................2
II. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003 VỂ BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN BẮT BỊ CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM...................................3
1. Đối tượng áp dụng:.........................................................................................3
2. Điều kiện áp dụng:..........................................................................................3
3. Căn cứ áp dụng:..............................................................................................4
4. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:....................................5
5. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam:.........................................................6
6. Bắt bị can, bị cáo trong trường hợp đặc biệt:................................................8
III. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUY ĐỊNH BẮT BỊ
CAN, BỊ CÁO ĐỂ TẠM GIAM...........................................................................9
14


C. KẾT LUẬN........................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................13

15



×