Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

SỬ DỤNG CA KHÚC CÁCH MẠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1954 1975) (LỚP 12 – THPT) ĐỂ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----- KHOA LỊCH SỬ-----

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG CA KHÚC CÁCH MẠNG TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1954 - 1975) (LỚP 12 – THPT) ĐỂ
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Nguyễn Thị Phương Thanh

Sinh viên thực hiện

: Lê Thùy Dương

Mã sinh viên

: 645602009

HÀ NỘI – 2018
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Chữ viết tắt
DHLS
GV
HS
HTHT
THPT
PPDH


SGK

Giải thích
Dạy học lịch sử
Giáo viên
Học sinh
Hứng thú học tập
Trung học phổ thông
Phương pháp dạy học
Sách giáo khoa

MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định “giáo dục là quốc
sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với
hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội”. Trọng tâm là “... đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục đạo tạo phát triển nguồn nhân lực, phấn đấu trong những năm tới, tạo ra
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo làm cho
giáo dục đào tạo thật sự là quốc sách hàng đầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân, là yêu cầu bức
thiết của tồn xã hợi, u cầu của hợi nhập q́c tế trong kỷ ngun tồn cầu
hóa”[4].

Từ ưu thế của các phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức dạy học mới đã
triển khai trong những năm gần đây như: phương pháp bàn tay nặn bột, giáo dục
trải nghiệm sáng tạo, giáo dục STEM,… việc đổi mới phương pháp dạy học cần
được thực hiện trên cơ sở phân hoá đối tượng, các căn cứ về điều kiện, loại hình
năng lực và phẩm chất cần phát triển ở người học. Từ đó lựa chọn các hình thức tổ
chức dạy học phù hợp, tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo và ứng dụng
công nghệ thông tin, truyền thông trong tổ chức dạy học thông qua việc sử dụng
các mô hình học tập kết hợp giữa lớp học truyền thống với các lớp học trực tuyến;
cùng với việc tổ chức cho người học thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, coi
3


trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn việc học tập ở nhà, ở ngoài nhà trường; đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học; tăng cường mô hình học tập gắn với thực
tiễn, xây dựng và sử dụng tủ sách lớp học, phát triển văn hóa đọc gắn với hoạt
động của các câu lạc bộ khoa học trong nhà trường; tăng cường hoạt động giao lưu,
hợp tác nhằm thúc đẩy hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, nâng cao hiểu
biết về các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới…
Hứng thú học tập có vai trị quan trọng trong q trình DHLS ở trường phổ
thơng. Có hứng thú, HS nhanh chóng tiếp thu bài, nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức.
Hứng thú học tập cịn kích thích các em tích cực, say mê học tập để tiếp thu những
kiến thức mới, tự giác nắm vững kiến thức lịch sử và biết vận dụng những kiến
thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Hứng thú học tập giúp HS phát triển toàn diện, ý
thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong cuộc sống.
Các ca khúc cách mạng, bằng phương thức phản ánh độc đáo của mình, đã
tái hiện lại lịch sử dân tộc, thể hiện cảm xúc của người nghệ sĩ và của nhân dân đối
với quê hương, đất nước, thời đại. Không ít nhà nghiên cứu âm nhạc cho rằng, ca
khúc cách mạng là một pho sử bằng âm thanh phản ánh những diễn biến trong đấu
tranh cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta ở
thế kỷ XX. Bản chất xã hội của các ca khúc cách mạng không phải ở chỗ phương

thức phản ánh xã hội của dòng ca khúc này như thế nào, mà phương thức phản ánh
đó nói lên được cái gì của đời sống hiện thực giai đoạn 1954 - 1975. Xét về thực
chất, ca khúc cách mạng không phản ánh hiện tượng, mà phản ánh bản chất của
thẩm mỹ, dùng cảm xúc như công cụ cơ bản để biểu hiện lý tưởng, đó là những giá
trị văn hóa ẩn chứa trong các ca khúc cách mạng Việt Nam.
Thực tế, trong những năm qua, vị thế bộ môn Lịch sử chưa được coi trọng
đúng mức, vẫn bị coi là “môn phụ” trong nhà trường. HS chưa u thích mơn Lịch
sử, phần lớn học theo kiểu đối phó. Hiện nay, quan niệm của xã hội về bộ mơn đã
có phần thay đổi, vị trí bộ mơn được nâng cao song chất lượng vẫn chưa được cải
thiện đáng kể. Xuất phát từ những lý do nêu trên, em chọn đề tài “Sử dụng ca khúc
4


cách mạng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 (lớp 12 – THPT)
để tạo hứng thú học tập cho học sinh” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp, chun
ngành Lý luận và PPDH mơn Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chưa có một tài liệu hay cơng trình nào nghiên cứu hồn chỉnh về việc sử
dụng các ca khúc cách mạng để tạo hứng thú lịch sử cho HS. Tuy nhiên, một số
nhà tâm lí học, giáo dục học, mĩ thuật… đã đề cập đến vấn đề này trong các nghiên
cứu của mình ở các khía cạnh khác nhau.
a Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các nhà tâm lý học đã có những nghiên cứu
về hứng thú:
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, X.L.Rubinstein (1902 – 1960), nhà tâm
lý học người Nga đã đưa ra khái niệm về hứng thú, con đường hình thành và vai
trị của hứng thú. Ơng cho rằng, hứng thú là biểu hiện của ý chí và tình cảm.
Năm 1931, ở Anh tác giả E.K.Strong trong tác phẩm “Change of interest
with age” (Sự thay đổi của hứng thú qua độ tuổi) đã đưa ra phương pháp nghiên
cứu về hứng thú, nêu nhiều câu hỏi và tiến hành điều tra trên nhiều đối tượng khác

nhau, trong đó ơng đã chú ý đến lứa tuổi HS. Tác giả cho rằng hứng thú được biểu
hiện ra trong xu thế của con người có mong muốn học được một số điều nhất định,
thích một vài hoạt động và định hướng tính tích cực nhất định vào những hoạt
động đó [20; 55-62]. Tuy nhiên, ông chưa đi sâu phân tích những biểu hiện, tác
động của hứng thú đối với hoạt động học tập ở HS.
Tiếp đó, năm 1938, Ch.Buhler, nhà tâm lý học người Đức đã tìm hiểu khái
niệm hứng thú trong tác phẩm “Phát triển hứng thú ở trẻ em”. Ông coi hứng thú là
nguồn gốc tinh thần của tính tích cực biểu đạt tâm lý, đổi mới tâm lý. Tuy nhiên,
ông mới dừng ở khái niệm chung chung về hứng thú, chưa đề cập đến vai trò của
giáo dục đối với việc hình thành và phát triển hứng thú.
Trong cuốn "Tâm lý học cá nhân" (1971), A.G. Côvaliôp, nhà tâm lý học
người Nga đã đưa ra khái niệm về hứng thú: “Hứng thú là một thái độ đặc thù của
cá nhân đối với đới tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp
5


dẫn về tình cảm của nó” [1; 228]. Tác giả coi hứng thú là một thái độ đặc thù của
một cá nhân đối với một đối tượng nào đó, trên cơ sở đó đề ra những phương pháp
giáo dục tích cực. Còn A.A. Liublinxkaia, nhà tâm lý học người Nga, tác giả cuốn
sách “Tâm lý học trẻ em” lại định nghĩa: “Hứng thú là thái độ nhận thức của con
người đới với xung quanh, đới với mợt mặt nào đó của chính nó, đới với mợt lĩnh
vực nhất định mà trong đó con người ḿn đi sâu hơn” [14; 28].
Năm 1980, nhà tâm lý học P.A. Ruđich trong tác phẩm "Tâm lí học" đã đề
cập đến khái niệm hứng thú và đặc điểm tiêu biểu của hứng thú. Theo Ruđich
“hứng thú là biểu hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những hiện
tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương
đối cố định của con người đối với các hoạt động nhất định” [18; 350]. Tuy nhiên,
trong tác phẩm này, Ruđich chỉ phân tích vai trị của hứng thú trong vận động.
Trong cuốn "Từ hứng thú đến tài năng" (năm 1975), nhà tâm lý học người
Nga L.X. Xlôvaytrich đã nghiên cứu một cách cụ thể về hứng thú và cho rằng đây

là cơ sở của sự phát triển nhân cách cũng như tài năng của HS.
Từ khoảng giữa thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa tương
đối hoàn chỉnh về hứng thú, họ đều cho rằng hứng thú là thái độ lựa chọn của cá
nhân đối với một đối tượng nào đó; là những lựa chọn tích cực với mục đích nhận
thức và chiếm lĩnh đối tượng; là quá trình nhuốm màu sắc xúc cảm, làm cho đối
tượng hấp dẫn.
Vấn đề hứng thú học tập cũng nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các
nhà giáo dục lịch sử, cụ thể:
N.G. Đairi trong tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” [8] đã
nhấn mạnh đến hoạt động nhận thức độc lập của người học: bản chất của hoạt động
độc lập của HS; biểu hiện của hoạt động độc lập của HS; các biện pháp tổ chức
hoạt động độc lập của HS trong DHLS. Ông cho rằng một trong những nhân tố góp
phần đạt được hiệu quả to lớn của việc DHLS ngay trong giờ học ở trên lớp là “sự
thi đua đạt mục đích hứng thú đới với chính q trình hoạt đợng lơgíc và đối với
việc “khám phá” ra cái mới” [8; 72]

6


A.A.Vaghin trong cuốn "Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông"
trình bày các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong đó có ý nghĩa
của việc sử dụng SGK và các loại tài liệu lịch sử nhằm nâng cao chất lượng dạy
học.
Các yếu tố nhận thức và tổ chức của sự say mê, thích thú xác định phương
pháp, kỹ thuật và phương tiện giảng dạy lịch sử. Các nhà giáo dục học đã chuyển
hướng đa dạng không gian học tập, sự thay đổi của lớp học. Bởi bản chất của việc
học tập và hoạt động nhận thức bao gồm: độc lập, thách thức, dễ hiểu và tự do lựa
chọn nhiệm vụ, các hoạt động cần thiết phải tự phát triển. Trong trường hợp này,
các nhà nghiên cứu đề xuất có các hình thức hoạt động: cá nhân, tập thể, nhóm.
Qua những cơng trình nghiên cứu trên có thể thấy các nhà tâm lý học, giáo

dục học và giáo dục lịch sử ở các nước đã rất quan tâm nghiên cứu vấn đề hứng
thú, hứng thú nhận thức và hứng thú học tập các môn học của HS ở trường phổ
thông, trong một số nghiên cứu đã đề cập đến biện pháp gây hứng thú học tập cho
HS.
b. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước
* Các cơng trình giáo dục học, tâm lý học
Ở trong nước, vấn đề hứng thú, hứng thú học tập của HS nói chung cũng
nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học. Cụ thể:
Năm 1975, trong “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học sinh
Việt Nam”, tác giả Đức Minh đã nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hứng
thú.
Trong “Đề cương bài giảng tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm”
(năm 1975), các tác giả đã định nghĩa: “Hứng thú là sự định hướng có lựa chọn
của cá nhân vào những sự vật, hiện tượng của thực tế xung quanh. Sự định hướng
đó được đặc trưng bởi sự vươn lên thường trực tới sự nhận thức, tới những kiến
thức mới ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn” [10; 101]. Định nghĩa này nhấn mạnh
hứng thú như là một thái độ đặc biệt của cá nhân và cá nhân đó có xu hướng hoạt

7


động để vươn lên hiểu sâu đối tượng nhận thức và sẽ nhận thức đầy đủ, sâu sắc
hơn.
Trong “Tâm lý học đại cương” (xuất bản năm 2003), NXB Đại học Sư
Phạm, tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy cũng đã nghiên cứu khái niệm
hứng thú: “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với mợt đới
tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đới với c̣c sớng, vừa có khả năng mang lại xúc
cảm cho cá nhân trong quá trình nhận thức” [24; 187]
Lê Nguyên Long trong “Một số vấn đề về giáo dục học” và “Thử đi tìm
những phương pháp dạy học hiệu quả” (năm 2002), NXB Giáo dục, đã đề cập đến

vai trò của hứng thú nhận thức trong việc bồi dưỡng động cơ học tập tích cực cho
HS; chỉ ra mối quan hệ giữa hứng thú học tập của HS với việc lựa chọn nội dung
dạy học và sử dụng PPDH của GV.
Tiếp đó, Thái Duy Tuyên trong “Giáo dục học hiện đại (Những nội dung cơ
bản)”(năm 1999), NXB Giáo dục, cho rằng “Người thầy có thể điều khiển hứng
thú của HS qua các yếu tớ của q trình dạy học: nợi dung, phương pháp, phương
tiện, hình thức tở chức; qua các bước lên lớp: mở bài, giảng bài mới, củng cố, vận
dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ thầy trò.v.v...”[22; 285]
Trong cuốn "Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường" (năm
2005), NXB Đại học Sư Phạm, tác giả Phan Trọng Ngọ đã đề cập đến một số
phương pháp được người học
hứng thú.
* Về các cơng trình nghiên cứu giáo dục lịch sử
Giáo trình “Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cấp ba”,
NXB Đại học Sư Phạm, nhóm tác giả Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Cao
Lũy, Nguyễn Tiến Cường đã đề cập đến vấn đề hứng thú bên ngoài và hứng thú
bên trong của HS, hệ thống các PPDH lịch sử ở trường phổ thông.
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” xuất bản những năm 1978,
1992, 2002, 2009, NXB Đại học Sư Phạm, các tác giả Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình
8


Tùng, Nguyễn Thị Côi đã chỉ ra những khái niệm căn bản nhất của phương pháp
dạy học lịch sử và cách ứng dụng trong dạy học ở trường phổ thông. Đồng thời tiếp
thu thành tựu các công trình đã xuất bản trong và ngoài nước, nâng cao lý luận
cũng như tính hiệu quả của các PPDH từ đó nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
Tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông” (2006), NXB Đại học Sư Phạm, đã
phân tích những vấn đề lý luận về bài học lịch sử. Đồng thời, tác giả đã đưa ra
nhiều biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Trong các biện

pháp, tác giả đã đề cập đến “phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức đặc
biệt trong tư duy là phương tiện tớt để hình thành kiến thức, gợi dậy những xúc
cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức,
tình cảm học sinh” [7; 69]
Mặc dù khơng phân tích cụ thể về gây hứng thú học tập cho học sinh, song
trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử ở
THCS”, các tác giả Trịnh Đình Tùng, Phan Ngọc Liên đã đưa ra những biện pháp
sư phạm góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh.
Vấn đề hứng thú học tập còn được một số Nghiên cứu sinh, nhiều học viên
Cao học lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của mình: Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu
đặc điểm hứng thú học môn toán của học sinh tiểu học và biện pháp tâm lí sư
phạm nâng cao hứng thú học mơn tốn ở các em” (năm 2008), Đại học Sư phạm
Hà Nội, tác giả Nguyễn Thị Thu Cúc. Luận văn Thạc sĩ "Bước đầu tìm hiểu
nguyên nhân gây hứng thú học tập bộ môn Tâm lý học của sinh viên khoa tự nhiên
của trường Đại học Sư phạm I" của tác giả Nguyễn Thanh Bình.
Bên cạnh các giáo trình, sách tham khảo về PPDH Lịch sử, vấn đề hứng thú
học tập Lịch sử cũng được nhiều học viên cao học lựa chọn làm Luận văn Thạc sĩ
và được các tác giả công bố trên tạp chí chuyên ngành.
Luận văn Thạc sỹ của Đặng Thị Yên "Gây hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh miền núi tỉnh Lai Châu qua dạy học khoá trình lịch sử lớp 6 THCS"
9


(1999), tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về hứng thú và hứng thú học
tập, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm gây hứng thú học tập lịch sử cho
học sinh lớp 6 THCS.
Nguyễn Thị Thơm trong luận văn Thạc sĩ "Sử dụng câu chuyện về nhân vật
nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 19451954 trường THPT" đã đề cập đến sự cần thiết của việc sử dụng câu chuyện nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh. Tác giả đã đưa ra một số biện pháp sư phạm
nhằm gây hứng thú cho học sinh khi sử dụng câu chuyện trong dạy học lịch sử Việt

Nam giai đoạn 1954-1954.
Như vậy, từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngồi nước
có thể thấy nhiều nghiên cứu vấn đề gây hứng thú học tập cho HS trong dạy học
lịch sử đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học giáo dục. Tuy vậy, chưa
có một cơng trình nào đề cập đến vấn đề sử dụng các ca khúc cách mạng trong dạy
học lịch sử để tạo hứng thú cho HS, với khóa luận này và vấn đề mà tác giả lựa
chọn sẽ góp phần tạo những cơ sở lí luận cũng như thực tiễn cho việc ứng dụng
công cụ hữu dụng này trong việc nâng cao hiểu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sử dụng các ca khúc cách mạng nhằm tạo
hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT giai đoạn
1954-1975.
- Phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào tình hình thực tiễn, chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề này trong
DHLS lớp 12 THPT, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1954 - 1975. Các
phân tích đánh giá chủ yếu dựa trên nội dung phần lịch sử Việt Nam 1954 – 1975

10


trong SGK Lịch sử 12 và các đối tượng học sinh đang theo học những nội dung
này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
+ Tìm hiểu nội dung của các ca khúc cách mạng và khả năng sử dụng những
ca khúc đó để tạo hứng thú cho học sinh THPT trong dạy học phần Lịch sử Việt
Nam 1954 - 1975, lớp 12 THPT

+ Khẳng định vai trò, ý nghĩa của các ca khúc cách mạng trong dạy học để
tạo hứng thú cho học sinh, trên cơ sở đó đề xuất hướng sử dụng trong DHLS Việt
Nam 1954 - 1975, lớp 12 THPT.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về cơ sở lí luận của việc tạo hứng thú
học lịch sử nói chung, việc sử dụng các ca khúc cách mạng nhằm tạo hứng thú cho
học sinh nói riêng.
+ Khảo sát thực tiễn việc sử dụng các ca khúc cách mạng trong dạy học môn
Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Từ đó hệ thống các nhạc phẩm có thể sử
dụng nhằm tạo hứng thú cho HS trong học tập lịch sử.
+ Nghiên cứu chương trình và SGK Lịch sử 12 phần từ năm 1954 - 1975 và
xác định những nội dung có thể chú trọng nhằm giáo dục lịch sử cũng như tạo
hứng thú cho học sinh trong quá trình dạy học.
+ Nghiên cứu và đưa ra đề xuất một số biện pháp nhằm tạo hứng thú cho
học sinh thông qua việc sử dụng các ca khúc cách mạng trong dạy học lịch sử từ
Việt Nam 1954 – 1975.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm phương pháp luận sử học mácxít, đảm bảo tính
đúng đắn, khoa học, tính logic, tính hệ thống.

11


Ngồi ra, đề tài cịn nghiên cứu lí luận các bộ mơn như Tâm lí học, Tâm lí
lứa tuổi và Tâm lí sư phạm, Giáo dục học, Phương pháp DHLS… phục vụ cho
những nội dung có liên quan của đề tài.
Ngoài hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp
logic, đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác, trong đó coi trọng hai phương
pháp đặc trưng của chuyên ngành là điều tra, khảo sát và thực nghiệm sư phạm. Cụ
thể là:

- Phương pháp sưu tầm, xử lí tài liệu đọc: nghiên cứu các cơng trình của các
nhà Giáo dục học, Tâm lí học có liên quan, sưu tầm các tài liệu về vấn đề tạo hứng
thú lịch sử cho HS, trong đó có việc sử dụng các ca khúc cách mạng.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: tiến hành khảo sát, điều tra việc sử
dụng các ca khúc cách mạng nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong DHLS ở
THPT. Việc điều tra, khảo sát được tiến hành thông qua phiếu điều tra, dự giờ,
phỏng vấn…
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được hoàn thành giúp bản thân sinh viên nâng cao kiến thức về lí luận
DH mơn Lịch sử, đặc biệt là các biện pháp tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lí luận của PPDH Lịch sử, về vấn đề
tạo hứng thú học tập bằng việc sử dụng hợp lý các ca khúc cách mạng cho HS
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ được vận dụng vào DH môn Lịch sử ở trường
phổ thông. Đây là tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên các trường cao đẳng
sư phạm, đại học sư phạm… khi dạy học môn PPDH Lịch sử và GV Lịch sử phổ
thông trong việc vận dụng các biện pháp tạo hứng thú học tập cho HS vào DHLS
để nâng cao chất lượng bộ mơn.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục thì nội dung khóa
luận tốt nghiệp được trình bày qua 2 chương:
12


Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng ca khúc cách mạng
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông để tạo hứng thú học tập cho học sinh
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng ca khúc cách mạng trong dạy học lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Thực
nghiệm sư phạm


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC
CA KHÚC CÁCH MẠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG ĐỂ TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
• Hứng thú
“Hứng thú” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng như
trong đời sống xã hội lồi người. Nó là một hiện tượng tâm lý phức tạp, vì vậy, vấn
đề này được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi
“hứng thú là gì?” thì lại có nhiều quan niệm khác nhau dựa trên những cách tiếp
cận khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Hứng thú là sự ham thích”, “cảm thấy có hứng
thú, hào hứng” [23; 457].
Trong tâm lý học, có nhiều quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu.
Nhưng tựu chung lại, những ý kiến đều có điểm chung rằng hứng thú là một trạng
thái tâm lý phức tạp, phản ánh nhiều giai đoạn từ đơn lẻ (tri giác, ghi nhớ...) tới tổ
hợp nhiều quá trình tâm lý (tình cảm, ý thức, nhận thức) của con người. Hứng thú
là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa
trong cuộc sống, vừa có khả năng mang lại cho nó một khối cảm. Hứng thú làm
tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành
động sáng tạo làm tăng sức làm việc. Dựa vào những nghiên cứu của các nhà tâm
13


lý học rút ra khái niệm: Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với
đối tượng nào đó khi hiểu được ý nghĩa, tác dụng của đới tượng đó đới với c̣c
sớng và nó mang đến sự khoái cảm cho bản thân.
Để phân biệt hứng thú với những khái niệm gần giống với nó cần phân tích
cấu trúc của hứng thú, các giai đoạn khác nhau của hứng thú để thấy được ở giai

đoạn nào của quá trình phát triển thì hứng thú thực sự được nảy sinh.
Tìm hiểu cấu trúc của hứng thú, các nhà tâm lý học cho rằng “cấu trúc
của hứng thú gồm 3 yếu tớ: có cảm xúc đúng đắn đới với hoạt đợng; có khía cạnh
nhận thức cảm xúc; có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt đợng. Ba
thành tớ trong cấu trúc hứng thú có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mỗi giai
đoạn phát triển của hứng thú, có thể thành tớ này hoặc thành tớ kia có sự phát
triển nhiều hay ít” [9; 30]. Dù là hứng thú nào thì cũng bao hàm khía cạnh nhận
thức và thái độ của cá nhân đối với đối tượng ở một mức độ nhất định. Khi có sự
thích thú một đối tượng thì con người có xu hướng muốn tìm hiểu nó kỹ hơn, sâu
sắc hơn. Bên cạnh đó, hứng thú của con người bao gồm cả hứng thú trực tiếp và
hứng thú gián tiếp. Hứng thú trực tiếp là hứng thú với quá trình nhận thức cịn
hứng thú gián tiếp có được khi đạt kết quả hoạt động. Bên cạnh đó, con người cịn
có hứng thú chiếm lĩnh một đối tượng cụ thể nào đó như là sưu tầm đồ vật (có thể
là sưu tầm tem, sưu tầm tranh, đồ cổ…), mặc dù sưu tầm nhưng chưa chắc đã
nghiên cứu sâu sắc về đối tượng mình sưu tầm.
Hứng thú của con người rất phong phú và đa dạng. Dựa trên những căn cứ
khác nhau có thể phân loại hứng thú thành:
- Căn cứ vào nội dung đối tượng của hứng thú và phạm vi hoạt động của
hứng thú có thể chia thành các loại: hứng thú vật chất; hứng thú nhận thức; hứng
thú xã hội – chính trị; hứng thú lao động, nghề nghiệp; hứng thú thẩm mỹ.
- Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú có thể chia hứng thú thành hứng thú
trực tiếp, hứng thú gián tiếp. Sự tương quan giữa hứng thú trực tiếp và hứng thú
gián tiếp là điều kiện thuận lợi cho hoạt động tích cực của cá nhân.
14


- Căn cứ vào tính hiệu quả của hứng thú, có thể chia hứng thú thành các loại:
hứng thú tích cực; hứng thú thụ động. Trong đó, hứng thú tích cực có vai trị to lớn
trong hoạt động của con người. Đây là một trong những nguồn kích thích niềm say
mê hoạt động, đem lại những hiệu quả cao, góp phần quan trọng trong sự phát triển

nhân cách, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, là nguồn gốc của sự sáng tạo.
- Căn cứ vào khối lượng của hứng thú, có thể chia thành: hứng thú rộng;
hứng thú hẹp. Hai loại hứng thú này có mối quan hệ với nhau vì nếu chỉ có hứng
thú hẹp mà khơng có hứng thú rộng thì nhân cách sẽ khơng phát triển tồn diện,
cịn nếu chỉ có hứng thú rộng thì sự phát triển nhân cách sẽ dừng ở mức độ hời hợt,
không sâu sắc.
- Căn cứ vào chiều sâu của hứng thú có thể chia thành hứng thú sâu sắc,
hứng thú hời hợt. Trong đó, những người có hứng thú sâu sắc thường có khuynh
hướng đi sâu tìm hiểu đối tượng nhận thức, mong muốn hiểu sâu sắc đối tượng
đang tìm hiểu.
- Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú có thể chia thành các loại: hứng thú
bền vững, hứng thú không bền vững, hứng thú ổn định, hứng thú không ổn định.
Theo các nhà tâm lý học nước ngoài và trong nước, hứng thú được biểu
hiện:
- Xu hướng lựa chọn của quá trình tâm lý của con người nhằm vào các đối
tượng cụ thể của thế giới xung quanh
- Xu thế, nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân khi mong muốn hiểu được một
lĩnh vực cụ thể, một hành động xác định mang lại sự thoải mái cho cá nhân.
- Nguồn kích thích mạnh mẽ tới tính tích cực cá nhân, do ảnh hưởng của
nguồn kích thích này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra khẩn trương, còn hoạt
động thì trở nên say mê và đem lại hiệu quả.
- Thái độ lựa chọn đặc biệt (khi đó con người không thờ ơ, bàng quan mà
tràn đầy những ý định tích cực, một cảm xúc trong sáng, ý chí tập trung) đối với
các đối tượng, các hiện tượng xung quanh.
15


Hứng thú của HS trong học tập lịch sử, mối quan hệ giữa hứng thú với việc
học tập lịch sử
* Hứng thú của HS trong học tập lịch sử

Cũng như các môn khoa học khác ở trường THPT, môn LS góp phần khơng
nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ có cái nhìn chính xác về quá khứ,
từ đó đánh giá đúng hiện tại và có định hướng cho tương lai. Mơn LS nhằm giúp
HS có những kiến thức cơ bản, cần thiết về LS dân tộc và LSTG, góp phần hình
thành thế giới quan khoa học, tình yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc,
bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động để có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời
sống xã hội.
Trong quá trình lĩnh hội kiến thức LS, biểu tượng cụ thể về sự kiện, không
chỉ là cơ sở để hình thành khái niệm, hiểu bản chất của sự kiện mà cịn tạo ra hứng
thú, lơi cuốn HS khám phá LS. Từ đó, các em ham mê tìm hiểu tại sao sự kiện ấy
lại xảy ra trong thời gian này chứ không phải là trong thời gian khác, bản chất của
sự kiện ấy là gì... Để hiểu được bản chất của một sự kiện, HS sẽ tích cực tham
khảo ý kiến của thầy cô, của các bạn cùng lớp, qua tài liệu tham khảo, qua sách
báo... Như vậy, các em đã tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, vai trị chủ động
đã chuyển sang HS, GV lúc này đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động
nhận thức.
Để học tốt bất cứ một môn khoa học nào kể cả mơn LS, HS cần có tình cảm
với mơn học, có nhu cầu học tập cụ thể. Để thoả mãn nhu cầu của bản thân, HS sẽ
tích cực học tập để lĩnh hội kiến thức. Khi đã đạt được những thành công trong học
tập, các em sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, thoả mãn được nhu cầu hiểu biết của
bản thân, tức là các em đã đạt được hứng thú trong học tập.
Bên cạnh yếu tố quan trọng từ phía GV, để hình thành hứng thú học tập cịn
phụ thuộc rất nhiều vào chính bản thân HS. Trình độ phát triển trí tuệ của HS là
một cơ sở cần thiết để phát triển hứng thú, đồng thời cũng là điều kiện quan trọng
để bồi dưỡng hứng thú. Thái độ đúng đắn của HS đối với bộ môn LS cũng là điều
16


kiện quan trọng để hình thành hứng thú học tập LS. Nghĩa là HS phải nhận thức
được tầm quan trọng của LS mới có thể hình thành và phát triển hứng thú học tập.

Ngồi ra, HS cũng cần phải có nhu cầu, tính ham hiểu biết, sự nỗ lực học tập mới
có thể hình thành và duy trì được hứng thú một cách bền vững.
Từ những nghiên cứu của các nhà giáo dục LS, định nghĩa sau được coi là
phổ biến nhất: “Hứng thú học tập lịch sử là một thái đợ say mê tự giác tích cực
đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể” [30; 16].
Hiện nay học sinh THPT hầu như khơng có hứng thú học tập bộ môn LS,
một số các em tỏ ra u thích bộ mơn nhưng niềm u thích ấy chưa bền vững, có
thể mới chỉ là sự thích thú bên ngồi, khơng phải hứng thú thực sự, hứng thú bên
trong. Như vậy, tạo hứng thú học tập LS cho HS là làm cho HS có thái độ say mê,
tích cực với nội dung LS cụ thể và duy trì niềm say mê, tích cực ấy.
* Mới quan hệ giữa hứng thú với việc học tập lịch sử
Với quan niệm về hứng thú nói chung, hứng thú học tập LS nói riêng có thể
thấy hứng thú có vai trị quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Vì
vậy, tạo hứng thú học tập cho HS có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong DH.
Hứng thú sẽ khiến con người “cảm thấy khối cảm khi lao đợng vì thấy nó
là trị chơi về thể lực và trí tuệ” [2; 230]. Trong học tập cũng vậy, hứng thú giúp
HS học một cách say mê, khi thu được kết quả học tập cao sẽ trở thành động lực để
tiếp tục duy trì hứng thú. Hứng thú đóng vai trị là động lực mạnh nhất thúc đẩy
hoạt động học của HS. “Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, hứng thú
sâu sắc tạo ra nhu cầu gay gắt của cá nhân, cá nhân thấy cần phải hành động để
thoả mãn hứng thú” [28; 21]. Hứng thú học tập tạo ra động cơ thúc đẩy việc học
tập của HS, giúp HS tiến hành việc học đạt hiệu quả cao, bởi lẽ hứng thú là động
cơ cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của các kĩ xảo, tri thức và trí tuệ... Trong
DHLS, hứng thú làm nảy sinh khát vọng học tập, là mong muốn được tìm hiểu và
lý giải về các sự kiện, hiện tượng LS. Có hứng thú HS sẽ say mê học hỏi, khám
phá những chân trời kiến thức mới để thoả mãn nhu cầu của bản thân. Hứng thú
17


được thoả mãn, HS sẽ cảm thấy dễ chịu, vuimừng và mong muốn duy trì cảm giác

ấy một cách bền lâu. Như vậy, hứng thú chính là động lực mạnh nhất để thúc đẩy
hoạt động học của HS.
Xuất phát từ đặc trưng của khoa học LS, việc học tập LS của HS chủ yếu
thông qua tri giác các nguồn tài liệu, do đó, có hứng thú học tập HS sẽ có sự tập
trung, tìm tịi nghiên cứu, ghi nhớ các sự kiện, từ đó hiểu được bản chất của sự
kiện, hiện tượng LS. Đồng thời, HS cần có tư duy sáng tạo, có trí tưởng tượng để
có thể tái tạo lại bức tranh quá khứ như nó đã từng tồn tại. Nhờ vậy, việc lĩnh hội
tri thức LS của HS sẽ đạt hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, hứng thú học tập cịn có thể
hình thành ở HS những tình cảm tích cực với bộ mơn, góp phần hình thành những
tư tưởng tốt đẹp, tình yêu với quê hương đất nước.
Trong học tập, hứng thú không chỉ giúp HS học một cách say mê, khi thu
được kết quả học tập cao sẽ trở thành động lực để tiếp tục duy trì hứng thú. Hứng
thú đóng vai trị là nhân tố thúc đẩy hoạt động học tập nói chung và học tập LS nói
riêng. Hình thành hứng thú cho HS là mục đích cần đạt được của GV, hay cũng có
thể nói rằng, HS có hứng thú học tập thì đã là thành công lớn của GV trong giáo
dục. Muốn HS học tập tốt, GV LS hay GV bất cứ bộ môn nào khác đều cần tạo
hứng thú học tập cho HS để đạt được mục đích giáo dục, giáo dưỡng và phát triển
của nhà trường, gia đình và xã hội. Cần chú ý hơn nữa đến việc phát huy sở trường
và năng khiếu cá nhân và cần coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú cho HS.
Trong học tập LS, hứng thú là động lực thúc đẩy mạnh nhất đối với quá
trình nhận thức LS. Là một môn học trong trường phổ thông, LS cung cấp cho HS
những kiến thức cơ bản về LS lồi người. Do nhận thức LS có nét đặc thù là nhận
thức những gì đã xảy ra trong quá khứ nên để hiểu và vận dụng kiến thức LS vào
thực tiễn là không dễ đối với HS. Tuy nhiên, có hứng thú học tập, HS sẽ tìm tòi
thêm kiến thức từ những tài liệu tham khảo khác ngồi SGK để lý giải những kiến
thức khó mà các em chưa hiểu hết. Khi đã lý giải được những vấn đề khó, HS sẽ
hiểu LS, từ đó khơng cịn cảm thấy LS quá dài hay khó nhớ.
18



• Nhạc cách mạng
 Khái niệm
“Nhạc cách mạng” thường được gọi nhạc đỏ, là một dòng của tân nhạc Việt
Nam gồm những bài hát sáng tác trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, ở miền
Bắc Việt Nam và vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh
Việt Nam và sau năm 1975 khi Việt Nam thống nhất. Khái niệm "nhạc đỏ" chỉ hay
dùng trong nhân dân (để phân biệt với "nhạc xanh", "nhạc vàng"...) và chỉ có từ
khoảng đầu thập niên 1990 trở đi, cịn các văn bản nhà nước gọi đây là nhạc cách
mạng, nhạc truyền thống hay nhạc chính thống. Tuy nhiên biểu tượng của cách
mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên gọi nhạc đỏ cũng như nhạc cách
mạng vậy.
Các ca khúc nhạc đỏ thường để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục
vụ kháng chiến, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu
lý tưởng cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, và những bài hát trữ tình cách mạng,
thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng, tinh thần lạc
quan, u đời, cống hiến và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường ít tính
hiện thực hóa mà mang tính lý tưởng hóa hay lãng mạn hóa cao, nhưng khác với
các ca khúc thời tiền chiến có tính lãng mạn tách rời đời sống, thường khơng có
khơng gian hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa gắn với
cuộc sống xã hội, có khơng gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.
Các bài hát nhạc đỏ phần lớn thuộc dịng thính phịng, được hát bởi các
giọng tenor và soprano, dàn hợp xướng, và âm hưởng dân ca, giai điệu phức tạp
nhưng lời nhiều bài bình dị đi vào quần chúng số đông. Không kể các bài hành
khúc, tổ khúc, hợp xướng thường hát tốp ca hay hợp xướng, phần lớn các bài nhạc
đỏ hát bằng giọng trưởng quãng âm cao và rộng, sáng, đôi khi kèm hợp xướng.
Nhạc đỏ thường theo điệu March (hành khúc), Valse, Slow Waltz hay Boston, Slow
Ballad, Slow Surf, Blues, đến Chachacha, Disco, một số là các trường ca giai điệu

19



phức tạp. Tính cách mạng cịn thể hiện trong nhiều tác phẩm khí nhạc hay nhạc
viết cho trẻ em.
Nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống, opera nhạc kịch và nhạc giao
hưởng là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam
từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc (nhạc giao hưởng chủ yếu là các tác giả
Liên Xô như Sergei Taneyev,Shostakovich, Prokofiev, Myaskovsky, Rodion
Shchedrin,...ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc miền bắc lúc đó, kể cả thanh, khí nhạc,
nhạc phim, sân khấu, ngồi ra cịn có Tchaikovsky, Mikhail Glinka, Chopin,
Mozart,...). Tuy khơng có chủ trương kiểm duyệt cơng khai, nhưng âm nhạc thời
kỳ trước 1975 tại miền Bắc và nhạc đỏ có sự định hướng, chỉ đạo và kiểm sốt của
lãnh đạo và nhà nước. Với mong muốn tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN thời trước
Đổi mới, nên các bài nhạc đỏ thường có tính cách mạng, tính chiến đấu cao về mặt
tư tưởng, thoát ly khỏi tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Các bài nhạc đỏ thường thể
hiện tính cộng đồng rất cao, và theo hướng lành mạnh hóa văn hóa tư tưởng. Khác
với các dịng nhạc khác thường khai thác tình yêu cá nhân là chủ đạo, mà xã hội
hay thiên nhiên chỉ làm nền hay mang tính minh họa, nhạc đỏ khơng có tình u cá
nhân tách rời xã hội. Tình yêu cá nhân phải gắn bó với tình yêu quê hương, đất
nước, cộng đồng, thậm chí mở lòng ra cả nhân loại, gắn với chiến đấu, lao động,
học tập, cơng tác, và chỉ có tình u chung thủy, đợi chờ, tình cảm không bị chi
phối bởi vật chất được nhắc tới nhiều, khơng có thất tình, cơ đơn, yếu đuối. Các ca
khúc nhạc đỏ thường rất chặt chẽ về tư tưởng, ít mơ tả cái “Tơi” cá nhân, cho dù
nó thể hiện tư tưởng rất cao thượng và rộng lớn. Âm nhạc không chịu sự chi phối
của thị trường, tiền bạc, khơng theo cung cầu, do đó hạn chế các ca khúc thị trường
sáng tác theo thị hiếu (nở rộ miền nam trước 1975 và sau Đổi mới). Nhưng mặt
khác kiểm soát chặt cũng hạn chế sáng tạo của các nhạc sĩ, và các tư tưởng lớn
thường nhân dân khơng nắm bắt kịp, ít chạm được tới quần chúng bình dân, và sau
thời Đổi mới, tâm lý xã hội có nhiều chuyển biến, các ca khúc nhạc đỏ xét về tư
tưởng càng thể hiện tính lý tưởng hóa. Sau Đổi mới, xuất hiện nhiều bài hát xã hội,
20



kể cả phê phán thói hư tật xấu của xã hội, các tệ nạn nhưng chưa nhiều và chưa có
những tác phẩm lớn có giá trị cao.
Một số nhạc sĩ nhạc đỏ tiêu biểu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn
Xn Khốt, Phạm Duy, Văn Cao, Tơ Hải, Nguyễn Văn Tý, Phạm Tuyên, Huy Du,
Hoàng Việt, Hoàng Vân, Phan Huỳnh Điểu, Diệp Minh Tuyền, Chu Minh, Hoàng
Hiệp, Hoàng Hà, Trần Kiết Tường, Lư Nhất Vũ, Trần Long Ẩn, Phạm Minh Tuấn,
Văn Chung, Xuân Hồng, Thuận Yến, Trần Hoàn, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn
Thương,...
Những ca sĩ nổi tiếng của nhạc đỏ (cũng thường là các ca sĩ dịng thính
phịng) có thể kể đến như: Quốc Hương, Trần Khánh, Trần Thụ, Trần Chất, Trung
Kiên, Quý Dương, Trần Hiếu, Tiến Thành, Hữu Nội, Kiều Hưng, Thanh Huyền,
Thương Huyền, Bích Liên, Tường Vi, Tân Nhân, Kim Nhớ, Kim Ngọc, Diệu Thúy,
Mỹ Bình, Vũ Dậu, Lê Dung, Tiến Thành, Quang Thọ, Doãn Tần, Thúy Hà, Thanh
Hoa, Thu Hiền, Trung Đức, Tuấn Phong, Quang Lý, Bích Việt, Trọng Tấn, Đăng
Dương, Việt Hoàn, Tạ Minh Tâm, Quang Hưng, Thanh Thúy, Cao Minh, Anh Thơ,
Phạm Phương Thảo, Lan Anh, Tân Nhàn... Do nhạc đỏ nhiều bài rất nhiều người
hát kể cả các ca sĩ khơng chun dịng nhạc này, nên trừ số rất ít, mỗi ca sĩ nổi bật
ở một vài bài.
Trước 1945 cũng có những ca khúc vẫn được xếp vào dòng nhạc đỏ như bài
“Cùng nhau đi Hồng binh” của Đinh Nhu, một số bài hát của Đỗ Nhuận, Lưu Hữu
Phước... Nhưng phải đến khi xảy ra cuộc Chiến tranh Việt - Pháp, nhiều nhạc sĩ
lãng mạn đi theo kháng chiến sáng tác những ca khúc mới thì nhạc đỏ mới thực sự
hình thành.
Những ca khúc cách mạng là những ca khúc được gắn liền với thời kỳ chiến
tranh và xây dựng đất nước. Đặc biệt, những ca khúc được ra đời trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã trở thành những bài ca đi cùng năm
tháng, là những dấu ấn lịch sử không phai trong tâm thức mỗi người con đất Việt.
 Các giai đoạn của nhạc cách mạng

21


- Giai đoạn 1945-1954
Đây là giai đoạn khởi đầu của dòng tân nhạc cách mạng, tuy vậy những tác
phẩm ưu tú nhất cũng đã xuất hiện trong thời kì này. Hai nhóm sáng tác có ảnh
hưởng mạnh mẽ đầu tiên phải kể đến là Nhóm Tổng Hội Sinh Viên do Lưu Hữu
Phước sáng lập và nhóm Đồng Vọng do Hồng Quý sáng lập. Hai nhóm này quy tụ
nhiều nhạc sĩ nổi danh đương thời như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Canh Thân...
Tiếp đó là những nhạc sĩ tuy khơng gia nhập nhóm nào, nhưng đã theo
kháng chiến và sáng tác nhạc phục vụ kháng chiến như Phạm Duy, Đoàn Chuẩn,
Phạm Đình Chương, Tơ Vũ, Tơ Hải, Lê Trực (Hồng Việt), Ngọc Bích...Và âm
nhạc của giai đoạn này cũng đã chuyển biến theo hướng mới, ca khúc thường có
nội dung sáng sủa, hùng mạnh hoặc bi tráng, gần gũi với hiện thực.
Nhạc sĩ sáng tác dồi dào và cũng gặt hái nhiều thành công nhất trong giai
đoạn này là Phạm Duy với những ca khúc nhạc hùng, nhạc kêu gọi, chiêu hồi, hoặc
là mang đậm chất dân ca và nói lên suy nghĩ của tầng lớp thanh niên đi kháng
chiến, cũng như đi thẳng vào đời sống người dân trước cuộc chiến. Theo Hoàng
Cầm, Phạm Duy là "số một" tại Việt Bắc lúc bấy giờ. Tuy vậy cũng chính Phạm
Duy là người bị phê bình vì những ca khúc buồn, và cuối cùng là bị cách mạng
cấm phổ biến sau khi ông rời bỏ chiến khu về thành.
Một số ca khúc tiêu biểu của thời kì này: Nhạc tuổi xanh, Đường về quê,
Đường Lạng Sơn, Bên ni bên tê, Bà mẹ Gio Linh, Bao giờ anh lấy được đồn Tây,
Về miền trung, Chiến sĩ vô danh, Nương chiều, Bông Lau rừng xanh pha máu, Việt
Bắc, Xuất quân, Thanh niên ca... (Phạm Duy), Tiến qn ca, Bắc Sơn, Gị đống đa,
trường ca Sơng Lô, Làng tôi, Chiến sĩ Việt Nam, Không quân Việt Nam... (Văn
Cao), Du kích sơng Thao (Đỗ Nhuận), Đồn vệ quốc quân, Mùa đông binh sĩ
(Phan Huỳnh Điểu), Lời người ra đi (Trần Hoàn),...
Nhạc cách mạng vào giai đoạn này tuy đang đi vào lề lối cách mạng, nhưng
vẫn còn mang những tình cảm lãng mạn của thời tiền chiến. Các nhạc sĩ thường

sáng tác dựa trên tình yêu nước thương nòi, lấy chất liệu từ hiện thực, hơn là từ lý
22


tưởng cách mạng. Cho đến khi các cuộc hội nghị quan trọng về văn nghệ vào năm
1949 và sau đó là hội nghị Việt Bắc 1950, đưa ra chủ trương, khuôn khổ cho các
nhạc sĩ sáng tác theo đường lối tư tưởng của Đảng, thì dòng nhạc cách mạng cũng
chuẩn bị bước thay đổi rõ rệt. Nhiều nhạc sĩ nổi bật của phong trào do không chấp
nhận thay đổi, đã rời bỏ kháng chiến như Phạm Duy, Ngọc Bích, Phạm Đình
Chương... Đồng thời có những nhạc sĩ ở lại tiếp tục sáng tác như Hồng Việt, Đỗ
Nhuận, Tơ Hải, Nguyễn Văn Tý...sẽ trở thành những tác giả chủ lực của nền tân
nhạc cách mạng ở giai đoạn tiếp theo, giai đoạn sau khi hiệp định Geneve chia cắt
đất nước ra làm hai miền.
- Giai đoạn 1954-1975
Trong giai đoạn này, nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những
thể loại âm nhạc duy nhất phát thanh trên đài phát thanh Việt Nam ở miền bắc.
Những bài dân ca cũng được cải biến hoặc viết thêm lời để truyền đạt các chính
sách của nhà nước. Nhiều bài nhạc đỏ trong thời kỳ này cịn tính đấu tranh rất cao
với ca từ mạnh như “Cơ gái Sài Gịn đi tải đạn”, “Giải phóng miền Nam”, “Chào
em cơ gái Lam Hồng”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Bác vẫn cùng
chúng cháu hành quân”,…
- Giai đoạn sau 1975
Sau 1975, một số nhạc sĩ trong phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe như
Tôn Thất Lập sau khi ra Bắc học ở Nhạc viện Hà Nội, cũng sáng tác một số bài hát
có nội dung cổ vũ lao động, xây dựng, và cũng được xem là nhạc đỏ.
Đến thời kỳ Đổi mới, những dòng nhạc khác được phép lưu hành song song,
nhưng nhạc đỏ vẫn được ưu tiên nâng đỡ và lưu truyền tại các đoàn thể thanh niên,
sinh viên, học sinh và tại các nhà hát, tụ điểm ca nhạc thuộc các đoàn thể trên hoặc
của nhà nước. Những bài nhạc đỏ được phổ biến trong thời kỳ này ơn hịa hơn,
khơng thể hiện tính chiến đấu và diệt địch nữa, mà thay vào đó là ca ngời tinh thần

lao động, xây dựng đất nước. (Đề án “Âm nhạc Việt Nam qua từng thời kỳ”)
 Chủ đề sáng tác
23


“Nhạc đỏ” gồm các chủ đề chính:
- Cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân và chiến sĩ vì khát vọng độc lập, hòa bình
và thống nhất.
- Ca ngợi đảng Cộng sản Việt Nam, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, các lãnh tụ, anh
hùng, ca ngợi lý tưởng cộng sản.
- Thể hiện tính đấu tranh giai cấp theo lý tưởng cộng sản [cần dẫn nguồn]
- Ca ngợi quê hương, đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa trong sáng, liên
kết tình cảm cá nhân và gia đình với tình yêu đất nước và nhiệm vụ bảo vệ, xây
dựng đất nước, lý tưởng cộng sản.
- Ca ngợi tuổi trẻ, tinh thần lao động xây dựng đất nước trong thời chiến và trong
thời kỳ đổi mới sau này.
- Ca ngợi tinh thần hòa đồng, nếp sống hướng về cộng đồng, lành mạnh, lạc quan,
thay cho "Cái Tôi" mang tính ích kỷ cá nhân.
- Cổ vũ và truyền đạt những chính sách của Nhà nước Việt Nam
- Ca ngợi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa hay phong trào
cánh tả trên thế giới
- Địa phương ca và ngành ca (các bài hát về các địa phương hay các ngành nghề cụ
thể)
Tuy nhiên các chủ đề này không bao giờ tách bạch mà thường luôn gắn bó,
liên quan đến nhau.
 Đặc điểm
Một số đặc điểm có thể nêu ra để giúp phân biệt với những dòng nhạc khác:
- Nhạc đỏ thường liên kết tình yêu đôi lứa, gia đình trong tình yêu đất nước, yêu lý
tưởng cộng sản và nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng đất nước.
- Thể hiện tính đấu tranh giai cấp hoặc phân biệt địch-ta và thể hiện tinh thần "ta

thắng địch thua" rất rõ ràng.
- Luôn luôn thể hiện tinh thần lạc quan, ngay cả trong chiến tranh. Khơng có tinh
thần chủ bại hoặc yếm thế. Có những bài nói về hòa bình, đau thương, phản đối
chiến tranh như nhạc phản chiến hoặc thương đau, thất bại, chết chóc như những
bài do phong trào "Du Ca Việt Nam" sáng tác hoặc nhạc vàng, có nói về tổn thất
chiến tranh.

24


- Tại miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và trong cả nước kể từ sau
1975, nhạc đỏ cũng như các dòng nhạc khác chịu sự kiểm duyệt của cán bộ lãnh
đạo do Đảng và Nhà nước chỉ định. Tuy nhiên đa số ca khúc đều được sáng tác từ
cảm hứng cá nhân của các tác giả. Ngược lại, nhạc đỏ lại bị cấm bởi chính quyền
thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam trong thời kỳ trước 1954, và ở miền Nam
dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ 1954-1975.
- Những bài tân nhạc Việt Nam được lưu hành ở miền Bắc trong thời kỳ 1954-1975,
hầu hết là nhạc đỏ (nhạc tiền chiến bị cấm sau phong trào Nhân văn giai phẩm).
Trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, nhạc đỏ được phổ
biến rộng rãi ở miền Bắc, những bài hát cũng được lưu truyền rộng trong quân đội
đóng ở miền Nam. Từ năm 1975, với chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
và việc hai miền Nam - Bắc thống nhất, nhạc đỏ càng được phổ biến rộng rãi hơn
trên phạm vi cả nước. Sau thời kỳ đổi mới, nhạc đỏ bị cạnh tranh bởi các dòng
nhạc khác như nhạc tiền chiến, nhạc vàng, nhạc hải ngoại, nhạc nước ngoài, nhạc
trẻ...
1.1.2. Các ca khúc cách mạng gắn liền với lịch sử
Ca khúc cách mạng hình thành và phát triển từ khi có phong trào yêu nước
do Đảng lãnh đạo. Trên văn bản “khai sinh” ca khúc cách mạng được hình thành từ
những năm 30 của thế kỷ XX, với bài “Cùng nhau đi hồng binh” của tác giả Đinh
Nhu. Từng bước đi của ca khúc cách mạng là sự phản ánh trung thực những thành

tựu của lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu của cách mạng,
tiếng hát đầy hào khí đã vang lên khắp nơi. Từ “Diệt phát xít” (Nguyễn Đình Thi),
“Tiếng gọi sinh viên” (Lưu Hữu Phước), “Du kích ca” (Đỗ Nhuận), “Ba Đình
nắng” (Bùi Cơng Kỳ)… đến một loạt bài của Văn Cao như: Bắc Sơn, Chiến sĩ Việt
Nam và nhất là Tiến quân ca đã trở thành Quốc ca hùng tráng.
Dưới cờ cách mạng, biết bao nhạc sĩ trẻ đầy tài năng của thời kỳ đó cũng đã
lao vào cơn lốc của cách mạng và lên đường kháng chiến. Đó là một thời đẹp của
những tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ. Những bài hát, những giọng ca dần dà đã quen
25


×