Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài viết tôn đức thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.46 KB, 11 trang )

Bài dự thi “Tìm hiểu về Chủ tịch Tôn Đức Thắng – Một nhân cách lớn” lần 4 năm 2018
Chủ đề 3: Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một trong những người bạn thân thiết lâu năm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nội dung
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà Nguyễn
ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi sự
chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị
khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm
công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô
lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là trọng
điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê,
chè...) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và
nhanh. Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các
cơ sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc
quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi chính
sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ
nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo
dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam
nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn
chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên
ngoài.
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam
từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.


Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa có
tinh thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng
của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột,
cuộc sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên...
phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái đấu
tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.


Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của chúng.
Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn ép nên có tinh thần
dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm
1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với công
nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế là có
tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp
thu chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hoá nên có
quan hệ gần gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai cấp ở
Việt Nam lúc đó "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh
nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng
đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất đồng
thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp.
Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ phong

kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân
tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân tộc
là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc Việt Nam
ở đầu thế kỷ XX.
Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước nổ ra theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản.
Thứ nhất, phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào Cần
Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng tổ chức (1885 - 1886);
cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo dài và quyết
liệt nhất là phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 — 1913) v.v...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất
khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn
định thống trị hàng chục năm trời. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa vẫn thất bại do thiếu
đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo phong trào yêu nước
Việt Nam đi đến thành công.


Thứ hai, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào
Đông Du (1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra gần
hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam.
Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung
Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong nước,
khôi phục độc lập dân tộc.

Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức . Những
năm 1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải
thiện đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn
hưng văn hóa, công nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908); phong trào đấu
tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong trào của
Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc
của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất bại
chính là do thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh tế, chính trị non yếu của giai cấp tư sản
Việt Nam đã không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng
hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam đứng trước
yêu cầu và nhiệm vụ mới
Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trước khi ra đi, Người đã tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia
đình; được học tập, có vốn kiến thức văn hoá, sớm cảm thông với nỗi khổ nhục của người
dân mất nước; hiểu rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước. Người ra nước
ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa
mình với những công nhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động để sống, vừa học
tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng
Tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18 tháng 6
năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới
Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi
lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ
thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự
hội nghị. Bản yêu sách không yêu cầu độc lập cho Việt Nam, nhưng bao gồm quyền tự do và
bình đẳng. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó



có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên
chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai gọi tên mình là Nguyễn Ái
Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lenin, từ đó ông hoàn toàn tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ
18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu
Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng
Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
Bác Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888 trong một gia đình nông dân giàu truyền
thống yêu nước, tại Cù Lao Ông Hổ, tổng Bình Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa
Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Vào thời điểm đó, thực dân Pháp đã mở rộng cuộc xâm lược ra toàn cõi Việt Nam và
cũng là thời điểm mà phong trào yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ ở khắp ba kỳ
nhằm chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của người thanh niên Tôn
Đức Thắng. Ngay khi còn là học sinh của Trường Bách nghệ Sài Gòn, cùng với việc học giỏi
nhất trường, Bác Tôn còn là "người chỉ huy" nhiều cuộc bãi khóa để phản đối sự đàn áp dã
man của thực dân Pháp đối với phong trào nông dân ở nhiều nơi.
Tốt nghiệp Trường Bách nghệ với điểm tối ưu (20/20), Bác Tôn gia nhập hàng ngũ giai
cấp công nhân Việt Nam và làm việc tại xưởng sửa chữa tàu thủy Ba Son. Năm 1912, Bác
Tôn đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son thắng lợi, ghi một dấu ấn đậm nét đầu
tiên trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Năm 1913, ông sang Pháp làm công nhân ở Toulon (Pháp). Năm 1914, ông được tuyển
mộ làm lính thợ cho một đơn vị Hải quân Pháp, đi tới nhiều nước, ở nhiều nơi, tiếp xúc với
nhiều lớp người có mầu da và tiếng nói khác nhau, cũng như Bác Hồ, Bác Tôn nhận thức ra
một điều là : ở đâu, người lao động cũng là người cùng khổ, bị bóc lột, đàn áp đến thậm tệ.
Tinh thần yêu nước nồng cháy trong Bác được nâng lên thành tình yêu giai cấp, tình đoàn
kết quốc tế thiết tha. Sự kiện người thanh niên Việt Nam Tôn Đức Thắng tham gia cuộc binh
biến của hải quân Pháp ở Hắc Hải năm 1919, treo cờ đỏ trên một thiết giáp hạm của Pháp tại

đây để ủng hộ và bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga, là một minh chứng cụ thể về tình
đoàn kết quốc tế cao cả. Nó đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử phát triển và nâng
cao mối quan hệ hợp tác và hữu nghị Việt - Xô sau này.
Do tham gia cuộc binh biến lịch sử đó, năm 1920, Bác Tôn buộc phải rời Pháp trở về
nước. Bác Tôn thành lập tổ chức Công hội bí mật nhằm tập hợp, đoàn kết, bảo vệ quyền lợi
giai cấp công nhân, làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống lại sự áp bức,
bóc lột của bọn đế quốc và bè lũ tay sai của chúng.
Năm 1925, Bác Tôn tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - một tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sự kiện đó đánh
dấu bước chuyển biến tư tưởng có tính chất quyết định từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ


nghĩa Mác - Lê-nin của Bác do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và truyền bá vào Việt
Nam. Từ đó, tạo điều kiện cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào công
nhân Sài Gòn do Bác Tôn tổ chức và lãnh đạo, nhanh chóng nâng cao trình độ tổ chức, trình
độ tự giác của giai cấp công nhân, thúc đẩy cuộc đấu tranh ngày càng phát triển. Lịch sử
phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam đã khẳng định : Các tổ chức công hội mà Bác
Tôn là người sáng lập là những tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam có vai trò quan
trọng trong lịch sử phong trào công nhân Việt Nam vào những năm đầu cách mạng vô sản ở
nước ta.
Cuối năm 1929, Bác Tôn bị Thực dân Pháp bắt, bị kết án 20 năm tù khổ sai, đày ra Côn
Đảo. Ròng rã gần 17 năm trời bị đọa đầy trong ngục tù đế quốc, với bao cực hình vô cùng dã
man, bọn thực dân, đế quốc không lay chuyển nổi ý chí kiên trung, bất khuất của Bác.
Ngược lại, chúng càng làm cho khí phách của người cộng sản lớp tiền bối lan tỏa và nêu
gương cho các thế hệ kế tiếp, cho mọi người dân Việt Nam yêu nước noi theo. Cũng chính
tại Côn Đảo, Bác đã tham gia thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở đó và tích cực tham
gia đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp.
Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, theo sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương
Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Nam Bộ cử đoàn
đại biểu ra đón Bác Tôn cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng trở về đất liền. Tại Hội

nghị cán bộ toàn xứ Nam Kỳ họp ngày 15-10-1945, Bác Tôn và các đồng chí Lê Duẩn,
Phạm Hùng... được bầu vào Xứ ủy. Tháng 3/1946, Bác Tôn được Trung ương Đảng điều
động ra Bắc và lần đầu tiên được gặp Bác Hồ - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mà Bác Tôn hằng
ngưỡng mộ từ năm 1919 trên đất Pháp và những năm tháng bị tù đày ở Côn Đảo.
Còn Bác Hồ, nghe danh người công nhân Tôn Đức Thắng đã tổ chức Công hội bí mật
từ năm 1920. Đến năm 1926, tại Trung Quốc, khi cử hai đồng chí Nguyễn Văn Lợi và Trần
Trọng Bình về Sài Gòn gây dựng cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đồng chí Lý
Thụy (bí danh của Bác Hồ) căn dặn: Đến Sài Gòn, phải tìm cách liên lạc được với anh Tôn
Đức Thắng!
Từ đó, Bác Tôn và Bác Hồ luôn luôn sát cánh bên nhau - một hình ảnh tiêu biểu cho
đoàn kết Bắc - Nam, để cùng Trung ương Đảng, Chính phủ lo việc nước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là linh hồn của chính sách đại đoàn kết dân tộc, đồng chí Tôn Đức Thắng là đại diện
tiêu biểu cho chính sách ấy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra chính sách: “Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công đại thành công”. Với vai trò là người đứng đầu tổ
chức mặt trận, đồng chi Tôn Đức Thắng đã thực hiện xuất sắc chính sách đại đoàn kết toàn
dân trong tiến trình cách mạng. Đó là nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Tình hình cách mạng những ngày trước Toàn quốc kháng chiến chuyển biến rất phức
tạp. Trong phiên họp ngày 8/11/1946, kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, khai mạc tại Nhà hát
Lớn Hà Nội, khi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh nói lời từ chức, trao quyền để
Quốc hội lựa chọn người đứng ra thành lập Chính phủ mới, thì đại biểu Nam Bộ Tôn Đức


Thắng lập tức đứng lên, dõng dạc phát biểu: “Tôi xin giới thiệu Cụ Hồ Chí Minh, tức nhà
yêu nước Nguyễn Ái Quốc là người xứng đáng hơn ai hết, đứng ra thành lập Chính phủ
mới!”.
Lời Bác Tôn là tiếng nói đại diện cho Nam Bộ đang anh dũng chiến đấu bảo vệ độc
lập, thống nhất của nước Việt Nam mới; là ý chí và quyết tâm xây dựng một đất nước hòa
bình, thống nhất và giàu mạnh của toàn dân Việt Nam. Với sự tín nhiệm của quốc dân đồng
bào và sự giới thiệu của Bác Tôn, Quốc hội đã hoàn toàn tín nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và

ủy nhiệm Người thành lập Chính phủ mới.
Toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Lịch sử và nhiệm vụ cách mạng ngày càng kết gắn
Bác Hồ và Bác Tôn. Tháng 6/1948, Bác Hồ ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc. Trước đó, Bác Hồ
và Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định cử Bác Tôn, Ủy viên Trung ương Đảng, làm
Trưởng ban Trung ương vận động Thi đua ái quốc.
Tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ thường mời Bác Tôn đến gặp để đàm đạo, trao đổi ý
kiến về những công việc cụ thể nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua kháng chiến kiến quốc.
Tháng 11/1948, Bác Hồ gửi thư tới Bác Tôn, thư viết: “...Theo thiển ý của tôi, chúng ta cần
huấn luyện cán bộ, mà huấn luyện cán bộ xã là trước hết. Rồi lựa chọn những cán bộ có
năng lực nhất, đưa dần lên làm cán bộ huyện, tỉnh và khu... Nói tóm lại, cần có chương trình
huấn luyện hẳn hoi... Thiển ý như thế, xin Cụ và Ban Thi đua Trung ương xét bàn kỹ. Kính
chúc Cụ mạnh khỏe và gửi Cụ lời chào thân ái và quyết thắng”...
Bác Tôn luôn coi Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, luôn kính yêu và có sự biết ơn vô hạn đối
với công lao to lớn của Bác Hồ, với thời đại. Còn Bác Hồ trân trọng Bác Tôn như một người
đồng chí, một người bạn chiến đấu thân thiết, thủy chung, là lòng kính trọng và sự ghi nhận
những cống hiến của Bách Tôn với cách mạng Việt Nam, với phong trào cách mạng vô sản.
Vào ngày chủ nhật, Bác Hồ thường sang thăm gia đình Bác Tôn (tại nhà số 35 Trần Phú, Hà
Nội); trong một lần như vậy, thấy Bác Tôn ở tầng hai, phải đi lại cầu thang tốn sức, Bác Hồ
nhắc: Phải đưa Cụ xuống tầng dưới, ít phải đi lại, xuống hầm cũng nhanh hơn.
Khi có thể, vào chiều một ngày thứ bảy trong tháng, Bác Hồ mời Bác Tôn sang nhà sàn
dùng cơm. Bác Hồ ra tận chỗ gốc cây sát bờ ao đón bạn, và lên tiếng: “Chào Cụ!”. Bác Tôn
cũng chắp tay đáp lễ: “Chào Cụ!”. Với phong thái ung dung tự tại, hai vị lãnh tụ khoác tay
nhau đi dạo trên con đường trải sỏi trong vườn... Được ngắm nhìn hình ảnh cảm động đó, ai
cũng liên tưởng đến tình đoàn kết hai miền Nam - Bắc và tin tưởng vào ngày thống nhất đất
nước đang đến gần.
Năm 1958, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Bác Tôn (20/8), Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng - phần thưởng cao
quý nhất. Tại lễ trao tặng, trước khi gắn tấm Huân chương Sao Vàng lên ngực áo Bác Tôn,
Bác Hồ rất vui và xúc động phát biểu: “...Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối
với Đảng, đồng chí là 28 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi. Là một

chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một


trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười
vĩ đại...
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm,
liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân... Thay mặt
nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao
Vàng, là huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn
Đức Thắng là người đầu tiên và là người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp XHCN đầu tiên của Việt Nam
(1/1/1960).
Bác Tôn xúc động đáp từ: “Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm nay sẽ mãi mãi khuyến
khích tôi trung thành đến phút cuối cùng trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và thống nhất
của đất nước thân yêu, cho chủ nghĩa xã hội, cho hạnh phúc và yên vui của toàn thể nhân
loại”.
Đến năm 1968, Bác Tôn tròn 80 tuổi, Bác Hồ đã đến chúc thọ người bạn già và tặng
Bác Tôn hai câu thơ:
“Càng già, chí khí càng dai,
Chống Mỹ, cứu nước ít ai hơn Già”
Bác Hồ rất quan tâm đến sức khỏe của Bác Tôn. Người thường căn dặn các bác sĩ và
cán bộ phục vụ phải dành sự chăm sóc tốt nhất cho Bác Tôn. Bác Tôn là người năng hoạt
động, tập luyện thể thao, Bác rất thích đi xe đạp ra ngoại thành vào buổi sáng sớm. Biết vậy,
Bác Hồ dặn Bác Tôn lúc tập luyện, nhất là đi xe đạp phải thận trọng, đảm bảo an toàn.
Những lần tiếp khách, đặc biệt là tiếp đại biểu Nam Bộ hay các cháu nhi đồng miền
Nam vào thăm, Bác Hồ đều mời Bác Tôn cùng dự. Những năm sức khỏe Bác Hồ giảm sút,
bước chân đi không còn nhanh nhẹn như xưa, một lần cùng Bác Tôn xuất hiện trước đông
đảo đồng bào, Bác Hồ bảo: “Để tôi nắm tay Cụ đi, cho đồng bào khỏi thấy!”. Câu nói ấy của
Bác Hồ đã khiến nhiều anh chị em phục vụ trào nước mắt.
Hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng là 20 năm Bác Tôn liên tục được

đại diện các tầng lớp nhân dân suy tôn làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (từ 10-9-1955 đến 2-1977) và Chủ tịch danh dự Đoàn Chủ tịch Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho đến ngày Bác qua đời. Cũng trong thời gian
đó, Bác còn đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự
Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Ngày
15-7-1960, Bác được nhân dân ta bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau khi Bác Hồ qua đời, trong phiên họp đặc biệt trung tuần tháng 9/1969, Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bầu Bác Tôn làm Chủ tịch nước. Khi nhận trọng trách
này, Bác Tôn xúc động phát biểu: “Được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh
quang đối với tôi”.
Ngày 30/4/1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Bác Tôn vào Sài Gòn dự lễ
mừng chiến thắng. Sáng 15/5/1975, trong buổi lễ trọng thể tổ chức trước Dinh Thống Nhất,


Bác Tôn đọc lời chào mừng quân và dân cả nước, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn công lao trời
biển của Bác Hồ đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Bác Tôn nhắc lại di chúc của Bác Hồ: “Đến ngày thắng lợi, tôi sẽ đi khắp hai miền
Nam - Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng...”. Sự hân hoan và cảm
động thể hiện rõ trên khuôn mặt của đồng chí, đồng bào, nhiều người đã không cầm được
nước mắt...
Trong ngày vui đại thắng của dân tộc, mọi người dân Việt Nam đều cảm thấy “như có
Bác Hồ”; và Bác Tôn chính là người thay mặt Bác Hồ trên chặng đường vẻ vang đó của đất
nước trong ngày ca khúc khải hoàn
Bác Hồ và Bách Tôn là tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, tranh đấu quên mình, hy sinh cả cuộc
sống riêng tư vì sự nghiệp mà Người tự nhủ và căn dặn những người cách mạng - những học
trò xuất sắc của Người thuộc thế hệ đầu tiên lập Đảng. Cả cuộc đời và sự nghiệp, Hồ Chí
Minh đã làm tất cả vì Dân, vì Nước; trong gian lao khó nhọc, cả lúc hiểm nguy thử thách khi
bị giam cầm, đọa đầy trong lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, mất liên lạc với Đảng, với
dân, Người vẫn một lòng kiên trinh với lý tưởng, giữ trọn niềm tin với nghị lực phi thường

vượt lên hoàn cảnh. Trước sau như một: “Cả đời tôi chỉ có mục đích, là phấn đấu cho quyền
lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”. Đồng thời, Người không ngừng phấn đấu với
một ham muốn tột bậc làm cho Tổ quốc được độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào có hạnh
phúc - hạnh phúc bình dị mà vĩ đại: có cơm ăn, áo mặc, được học hành. Tấm gương đạo đức
ấy không gì có thể mờ phai.
Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên và công chức “dân là chủ và dân làm chủ”. Phải
dân chủ chứ không được “quan” chủ, là đầy tớ công bộc của dân chứ không lên mặt “quan”
cách mạng. Theo Người, đối với nhân dân của mình, họ là những người chủ đích thực chứ
không phải thần dân, và Người “không phải là vua” mà là đầy tớ, công bộc của dân, “kính
trọng lễ phép với dân”, “gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân để thương dân và suốt
đời chỉ vì dân mà sống mà tranh đấu”.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ Người nêu gương đạo đức trong
tranh đấu, từ chống giặc ngoại xâm đến chống “giặc nội xâm” mà Người còn nêu gương suốt
đời trong thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc. Là Chủ tịch Nước, ở cương vị nguyên thủ quốc gia, đồng thời là
Chủ tịch Đảng, Người là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, tuyệt đối không
màng danh lợi, đứng ngoài vòng danh lợi, chỉ luôn coi mình là một người lính vâng lệnh
quốc dân đồng bào, làm tròn nhiệm vụ do dân ủy thác. Khi chủ trì phiên họp đầu tiên của
Chính phủ (ngày 03-9-1945), Người đưa ra sáu vấn đề cấp bách phải làm ngay để lo cuộc
sống cho dân. Đặc biệt, Người chủ trương: “mở cuộc vận động kêu gọi các thành viên chính
phủ” nhịn ăn để lấy gạo nuôi dân, cứ 10 ngày nhịn một bữa không chết đâu nhưng dân thì có
bữa cơm bữa cháo, mỗi bữa là một bơ gạo, góp chung lại cứu dân nghèo và tôi xin làm trước
tiên”. Người còn cẩn thận đến mức nếu đến ngày quy định nhịn ăn mà Người có việc phải


tiếp khách thì Người sẽ nhịn bù vào hôm sau. Đã nói là làm, từ việc nhỏ đến việc lớn, lời nói
đi đôi với việc làm, làm gương và nêu gương cho mọi người. Tấm gương ấy của Người làm
cảm động muôn người; là tấm gương sống, quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền.
Bởi thế, Chính phủ do Người đứng đầu thực sự là Chính phủ, là Nhà nước của dân, vì dân,
hành động vì dân bởi rất mực thương dân.

Hiếm có vị chủ tịch nước nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống đạm bạc, đến mức
khắc khổ trong cái ăn, cái mặc hằng ngày; bởi thương dân mà tiết kiệm, bởi lãng phí là
không thương dân, bởi mỗi đồng tiền bát gạo mà ta tiêu dùng đều do mồ hôi, nước mắt của
dân làm ra. Người lên án gay gắt và nghiêm trị theo luật pháp những hành vi tham ô, tham
nhũng, coi đó là bất liêm, bất chính, bất nghĩa, phải trừng trị như trừng trị một tội ác. Người
nói cho cán bộ, công chức rõ, đồng bào đem mồ hôi nước mắt để làm ra tiền của, để trả
lương cho ta. Nếu lười biếng và vô trách nhiệm trong công việc hàng ngày là lừa gạt dân
chúng. Người lấy mình làm gương, chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên, công
chức và rèn luyện kỷ luật công vụ, xiết chặt kỷ cương, nề nếp hành chính, sớm thành lập
thanh tra chính phủ để kiểm soát hoạt động của bộ máy và hành vi công chức. Những biện
pháp ấy đều chỉ vì mục đích “phục vụ dân” và “bảo vệ dân”.
Tấm gương Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở đức trung thực, khiêm tốn, vị tha, nhân
ái, khoan dung, thấm nhuần chất nhân văn trong tham chính và cầm quyền, trong ứng xử với
người, với việc, mà cao hơn tất cả là tình thương yêu dành cho dân chúng mãi không bao giờ
thay đổi. Khi gửi thư chúc mừng thượng thọ một cụ già 80 tuổi (lúc đó Người đã 60 tuổi) mà
Người xưng hô là cháu: “Cháu xin thay mặt Chính phủ chúc thọ Cụ. Chúc Cụ sống lâu muôn
tuổi để cùng con cháu kháng chiến kiến quốc tới ngày thắng lợi”. Người lấy tiền tiết kiệm
của mình để mua nước ngọt gửi ra trận địa cho bộ đội đang trực chiến giữa những trưa hè
nóng nực. Người viết thư loan báo cho đồng bào rõ: để tỏ lòng biết ơn các liệt sĩ đã hy sinh
vì Tổ quốc và những gia đình có công với nước, Người sẽ nhận tất cả con liệt sĩ là con mình,
v.v. Mỗi một chiến sĩ ngã xuống trên chiến trường, Người như đứt từng khúc ruột. Người
rộng lòng bao dung khoan thứ, kiềm chế ngay cả những lúc Người không hài lòng trước
những việc làm sai, những người làm hỏng. Người căn dặn “phê bình việc chứ không phê
bình (với ý xúc phạm) người”. Trong Di chúc, Người căn dặn “phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau”, phê bình có lý có tình, ứng xử có tình có nghĩa,... Người để lại muôn vàn tình
thương yêu cho đồng bào, đồng chí và không quên gửi lời chào bạn bè quốc tế và nhân dân
thế giới, v.v.
Giống như Bác Hồ, Bác Tôn luôn luôn xác định nhân dân là người chủ, mà Chính phủ
là người đầy tớ trung thành. Chính phủ chỉ có một mục đích duy nhất là hết lòng, hết sức
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thấm nhuần quan điểm tư tưởng này, Bác Tôn dày

công vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quan điểm vì nhân dân phục vụ luôn nhất quán
trong tư tưởng, đạo đức của Bác Hồ và Bác Tôn.
Ðạo đức cách mạng của Bác Tôn thể hiện ở tình thương yêu sâu sắc đối với các tầng
lớp nhân dân, thương binh, gia đình liệt sĩ, các cụ già, trẻ thơ và những người tàn tật gặp


cảnh khó khăn. Bác Tôn đặc biệt quan tâm đến thiếu nhi, những "búp trên cành", Bác Tôn
thường nhắc đến Di chúc của Bác Hồ: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết".
Bác thường căn dặn các cấp, các ngành phải chăm sóc hơn nữa đến thế hệ thiếu nhi,
làm sao cho cháu nào cũng ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành. Muốn vậy, người lớn phải là
tấm gương sáng. Bác Tôn nói rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, việc chăm sóc, giáo
dục thế hệ trẻ là vô cùng quan trọng.
Bác đã yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể hãy hăng hái tham gia cùng
ngành giáo dục thực hiện phong trào thi đua "Hai tốt" bằng những hành động thiết thực, làm
tốt việc chăm lo trường sở, dụng cụ giảng dạy và học tập, chăm lo đội ngũ giáo viên, tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất để thầy dạy tốt, trò học tốt. Ðiều cần kíp là phải đào tạo đội ngũ cán
bộ chuyên trách có phẩm chất và năng lực để quản lý, chăm sóc các cháu; có kế hoạch bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục các cháu. Ðiều quan trọng hơn cả là đừng để cho các cháu hư
hỏng.
Làm Chủ tịch nước, Bác Tôn sống giản dị như một người dân. Bác quan tâm sâu sắc
đến đời sống người lao động. Có lần, thấy một nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch, mùa
đông giá rét, chỉ mặc có một chiếc áo mong manh, người run run, Bác Tôn về nhà lấy ra
chiếc áo bông bảo người nhân viên mặc cho đỡ rét. Có lần Bác Tôn đứng trong ngôi nhà ở
số 35 đường Trần Phú, Hà Nội, nhìn ra đường thấy những người phụ nữ đạp xe đứa con nhỏ
ngủ gà ngủ gật ở chiếc ghế lắc lư sau yên, Bác Tôn nói: "Các cháu tội nghiệp quá". Ði thăm
cơ sở, Bác Tôn xuống tận xưởng sản xuất, tiếp xúc với công nhân, ra tận ruộng gặp bà con
nông dân. Bác Tôn thường tâm sự với anh em phục vụ rằng, Bác xuất thân từ một gia đình
nông dân ở Nam Bộ. Thuở hàn vi đã phải lên Sài Gòn học nghề và tha phương kiếm sống.
May mà gặp được cách mạng để đi theo, cho nên càng nghĩ đến thân phận, càng thấy thương

dân mình còn khổ. Thế đấy, người công nhân Ba Son thời xưa và người Chủ tịch nước thời
nay, tất cả đều quy tụ ở bốn chữ: Ðạo đức cách mạng.
Chủ tịch Tôn Ðức Thắng là một con người liêm khiết, trong sạch, sống ngay thẳng,
chân thành; ghét sự xu nịnh, bè phái, chia rẽ, cơ hội chủ nghĩa; chỉ biết ham học, ham làm,
ham tiến bộ, vì ích nước, lợi dân; không tham quyền, cố vị, thật sự chí công vô tư, đặt lợi ích
của Ðảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Nhiều
ứng xử của Bác Tôn về địa vị quyền lực đã trở thành huyền thoại.
Bác Tôn ghét thói đặc quyền đặc lợi; không bao giờ lợi dụng quyền hạn, chức vụ công
tác để mưu cầu lợi ích riêng cho gia đình, cá nhân. Nhân ái, khoan dung, độ lượng, thương
người, dung thứ cho người là những đức tính bẩm sinh của Bác Tôn, đã bộc lộ rõ nét ngay từ
thuở nhỏ. Tính thương người này được mở rộng, nâng dần lên cùng với nhận thức và bề dày
hoạt động thực tiễn: thương những người ruột thịt trong gia đình; bà con hàng xóm, thương
bạn học, thương thầy cô giáo; thương người thợ cùng làm, cùng cảnh ngộ; thương đồng bào
bị bóc lột, đàn áp; thương các dân tộc, quần chúng nô lệ trên thế giới bị đọa đày... Từ tình
thương đồng bào, Bác Tôn đã vươn đến tầm tình thương yêu đồng loại và đạt đến chủ nghĩa


nhân văn cộng sản cao quý: thương người - tin người - giải phóng con người - phát huy sức
mạnh của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là phải sống với nhau có
tình, có nghĩa". Bác Tôn lĩnh hội chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần nhân văn cao cả đó:
sống chí tình, chí nghĩa với đồng chí bạn bè; sống nhân ái, tình nghĩa, thủy chung với đồng
bào, đồng chí.
Ở đồng chí Tôn Ðức Thắng, tình cảm yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản
chân chính; yêu Tổ quốc, nhân dân Việt Nam, đồng chí cũng tôn trọng độc lập, chủ quyền
của các nước khác; coi cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập của các nước thuộc địa cũng như
sự nghiệp cách mạng của nhân dân mình. Ðồng chí đã có những cống hiến lớn lao trong việc
xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới.
Hiện nay, mỗi chúng ta hãy học tập đạo đức cách mạng, lối sống cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư của Bác Hồ và Bác Tôn, noi gương Bác hãy tận tụy với công việc được

Đảng và nhân dân giao phó, đóng góp hết mình cho công cuộc đổi mới, làm cho rừng cây
đoàn kết mà Bác đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời vun đắp không ngừng nở hoa, kết
trái, để hoài bão "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" của Bác Hồ,
Bác Tôn, của toàn Đảng và của mỗi chúng ta sớm thành hiện thực trên Tổ quốc thân yêu.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×