Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân – do dân – vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.94 KB, 27 trang )

TiÓu luËn
M«n: lÞch sö t tëng chÝnh trÞ

Đề tài:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hồ Chí Minh là nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam ở
thế kỷ XX. Tư tưởng của Người là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Người để lại những dấu ấn đặc biệt sâu đậm trong tiến trình
phát triển của cách mạng Việt Nam. Đối với thế giới, đặc biệt là cách mạng
giải phóng dân tộc, cống hiến của Người đã đi vào lịch sử, được thế giới thừa
nhận và tôn vinh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất,
Dưới ánh áng tư tưởng Hồ Chí Minh, hiện nay chúng ta đang từng
bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa – Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát
huy được quyền dân chủ nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm
việc, đưa lao động, được học hành được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã
hội, nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân chủ, tới cuộc sống và số phận
của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó dân chủ đi đôi
với kỷ cương, trật tự được thể chế hoá bằng pháp luật, trong khuôn khổ của
pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đó là một Nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân
dân, một tổ chức Nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ bằng pháp luật


và vì công lý.
Thực tiễn ngày nay quá trình đổi mới của đất nước trong thời kỳ quá độ
tiến lên Chủ nghĩa xã hội và trong bối cảnh hoà nhập quốc tế mang đến cho
đất nước nhiều có hội và những thách thức phải vượt qua. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã điều hành đất nước ổn định về chính trị,
phát triển về kinh tế, quan hệ quốc tế được rộng mở, đời sống nhân dân ngày
2


càng được nâng cao. Bên cạnh đó còn những tồn tại làm cản trở quá trình hội
nhập và phát triển kinh tế, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng đó là
thủ tục hành chính còn phiền hà, còn có những cán bộ Đảng viên còn cơ hội,
tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống…
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng tư tưởng của Người về
xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị
trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức
để quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta vững tin trong tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một bộ máy quản lý gọn nhẹ,
năng động và hiệu quả “Một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ ra sức làm
việc” đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Xuất phát từ những lý do trên việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước của dân – do dân – vì dân mang tính cấp thiết của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu.
Trước năm 1990, đã có một số công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân như:
- Phạm Văn Đồng – Một số vấn đề về Nhà nước – Nxb Sự thật, 1980.
- Trường Chinh – Tuyển tập, Nxb Sự thật. Hà Nội 1987.
Tuy đã có những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Nhà nước nhưng nhìn chung còn hạn chế. Từ năm 1992, sau Đại hội lần

thứ VII, Đảng và Nhà nước đã đầu tư và chỉ đạo các chương trình nghiên cứu
khoa học xã hội, trong đó có chương trình KX02: “Nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh”. Chương trình KX02 đã có một đề tài khoa học mang mã số KX02
– 13: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do
dân, vì dân”. Với phương pháp tiếp cận mới và góc độ đề cập khác nhau, các
nhà khoa học đã có được tiếng nói chung, bước đầu làm sáng tỏ một số nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam. Có thể nói, kết
quả nghiên cứu của đề tài đó và những tác phẩm của một số tác giả đã công
3


bố và đã gợi mở nhiều vấn đề để tiếp tục nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước.
Dưới góc nhìn của chính trị học, với cách tiếp cận mới sẽ làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân và sự vận dụng tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh xây dựng Nhà nước Việt Nam ngang tầm nhiệm
vụ của giai đoạn lịch sử mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước của dân – do dân – vì dân.
- Phân tích nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước của dân – do dân – vì dân.
- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam
ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn lịch sử mới.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở nghiên
cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân

tích – tổng hợp, logic, lịch sử, hệ thống, so sánh.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận được kết cấu thành ba chương
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước của dân – do dân – vì dân.
Chương II: Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước của dân – do dân – vì dân. (Nhà nước kiểu mới).
Chương III: Sự vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng Nhà
nước Việt Nam ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn lịch sử mới.

4


NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN – DO DÂN – VÌ DÂN
1. Cơ sở lý luận.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Chính quyền là vấn đề cơ bản và chủ
yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị
xây dựng bộ máy Nhà nước để cai trị do vậy vấn đề cơ bản nhất của mọi cuộc
cách mạng là vấn đề chính quyền.
Sau khi giành được chính quyền thì vấn đề xây dựng Nhà nước để giữ
vững củng cố phát huy hiệu lực của nó để tổ chức xây dựng cuộc sống mới
luôn đặt ra đối với giai cấp cầm quyền. Đặc biệt trong cách mạng vô sản việc
giành chính quyền về tay nhân dân lao động luôn là mục tiêu trực tiếp của
cách mạng vô sản sau đó chính quyền Nhà nước trở thành công cụ của giai
cấp vô sản để thực hiện mục đích của cách mạng đó là xoá bỏ chế độ cũ, xây
dựng xã hội mới.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện nhất, triệt để

nhất trong lịch sử. Lênin cho rằng: cách mạng xã hội chủ nghĩa không phải
chấm dứt lúc đã lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị. Việt lật đổ mới chỉ
là bước đầu cách mạng. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động còn phải sử
dụng chính quyền chuyên chính vô sản để tiến hành cách mạng đến cùng, để
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
2. Cơ sở thực tiễn.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thập niên đầu thế kỷ XX, đất nước ta chìm
trong đêm đen nô lệ. Các chiến sĩ, vương triều, Tôn thất, các anh hùng hào
kiệt lớp lớp đứng lên với khí phách lẫm liệt, anh dũng vô song, với tấm lòng
yêu nước vô bờ bến đặng cứu nước, cứu nhà nhưng đều đi đến thất bại.

5


Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước cháy bỏng và sự mẫn cảm của
người thanh niên trí thức đã lựa chọn một con đường mới. Những tư tưởng, lý
luận mới về tự do và giải phóng con người đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra
nước ngoài học hỏi về giúp đồng bào mình. Những năm tháng hoạt động ở
các nước, các Châu lục trên thế giới, Hồ Chí Minh luôn chú ý nghiên cứu
khảo sát các loại mô hình Nhà nước trong thực tiễn (Nhà nước phong kiến,
Nhà nước vô sản).
Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
Đối với Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản chính quyền vẫn ở
trong tay một số ít người, còn lại đời sống nhân dân hết sức cực khổ và duy
nhất chỉ có Nhà nước vô sản mới thực sự mang lại quyền lợi cho toàn thể
nhân dân lao động. Do vậy Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình Nhà nước vô sản.
Sau khi đến Liên Xô người đã tìm thấy một mô hình Nhà nước kiểu mới
“Phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền… ra sức tổ
chức kinh tế mới để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”. Mô hình Nhà
nước đó là gợi ý cho Người về một kiểu Nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt

Nam trong tương lai. Mô hình đó lần đầu tiên được Người nêu ra trong chính
cương vắn tắt của Đảng năm 1930. “Dựng ra chính phủ công nông binh”.
Năm 1941 Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng chủ trì
Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941 hoàn
chỉnh sự chỉ đạo chiến lược và sách lược đề ra chương trình việt minh, về vấn
đề chính quyền, Hội nghị chủ trương “Không nên nói công nông liên hợp và
lập chính quyền Xô viết mà phải đoàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ
Dân chủ cộng hoà”. Chương trình Việt minh cũng ghi rõ “Sau khi đánh đuổi
đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân
chủ cộng hoà… chính phủ ấy do Quốc Dân Đại hội cử ra”.
Khi thời cơ giải phóng dân tộc đã đến gần trong thư gửi đồng bào toàn
quốc tháng 10/1944 Hồ Chí Minh cũng nói rõ: “Trước hết cần có một Chính
phụ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể
6


quốc dân gồm tất cả các Đảng phái cách mệnh, các đoàn thể ái quốc trong
nước bầu ra một cơ cấu như thế mới để lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo
công việc cứu quốc kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
Từ mô hình Nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình Nhà nước
đại biểu cho khối đoàn kết của toàn thể quốc dân là một bước chuyển biến sáng
suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù
hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Sau khi lãnh đạo cách mạng tháng Tam thành công Hồ Chí Minh trên
cương vị là Chủ tịch nước đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
của Châu Á. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công đầu trong việc đặt nền móng
xây dựng một Nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc – Nhà nước của dân –
do dân – vì dân.
Nói về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Nhà nước
Việt Nam mới, Phạm Văn Đồng viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra

đời trong một hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt. Trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ ngày 03/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra một số vấn đề
cấp bách: Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm. Tổ chức
tổng tuyển cử theo chế độc phổ thông đầu phiếu, xây dựng hiến pháp, giáo
dục tinh thần nhân dân…”.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp viết “Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý
luận của Lênin về Nhà nước kiểu mới, lập ra Nhà nước cộng hoà dân chủ
“Nhà nước của dân, do dân, vì dân…”.

7


Chương II
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN – DO DÂN – VÌ DÂN (NHÀ NƯỚC KIỂU MỚI)
1. Tính chất của Nhà nước kiểu mới.
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh mang tính chất là
Nhà nước của dân – do dân – vì dân.
a. Thế nào là Nhà nước của dân.
Đó là Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Sau khi nước ta giành
được độc lập Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.
Địa vị làm chủ của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền
lực nhà nước, được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà
nước – những người trực tiếp thi hành quyền lực nhà nước. Người viết: Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách
mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đầu là phân công làm
đày tớ cho dân. Người căn dặn cán bộ nhà nước: Phải nhớ rằng dân là chủ.

Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiều là nhờ ở dân hết. Khi nói
với tư cách công bộc của cán bộ nhà nước đối với nhân dân, Hồ Chí Minh
khẳng định, mục đích hoạt động của họ là vì lợi ích chung. Người nói: Những
người trúng cử (vào bộ máy nhà nước), sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập
của Tổ quốc, ra sức mưu sự hạnh phúc cho đồng bào. Phải luôn luôn nhớ và
thực hành câu Vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng. Người
khẳng định: Làm việc nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà
nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên
bầu. Nếu dân là chủ thì nhà nước, cán bộ nhà nước là công bộc của dân. Đây
là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng này đã chỉ rõ sự
đối lập về chất của Nhà nước nhân dân với nhà nước phong kiến, nhà nước
thực dân. Người căn dặn các cán bộ nhà nước phải luôn ghi nhớ rằng các cơ
8


quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa
là để gánh vác chung cho dân, chứ không phải là để đè đầu dân như trong thời
kỳ dưới quyền thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Ở đây, ta thấy Hồ
Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của khái niệm “công bộc của dân” và có thể hiểu
đây là một định nghĩa của Hồ Chí Minh về chức năng của Nhà nước mà ý
nghĩa sâu sắc của nó vẫn giữ nguyên tính thời sự và cần được quán triệt trong
công cuộc xây dựng Nhà nước hiện nay.
Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Người đã chỉ
đạo tiến hành tổng tuyển cử để xây dựng nên Nhà nước của dân. Người đã lựa
chọn và xử lý đúng đắn việc thực hiện dân chủ đại diện trực tiếp, kết hợp giữa
hai hình thức dân chủ này để đạt được mục tiêu phát huy dân chủ xây dựng
Nhà nước thực sự của dân.
Tại điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo đã
khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà, tất cả quyền
binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi

giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo…”.
Điều 32 Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định: “Những việc quan hệ
sẽ đưa ra nhân dân phán quyết…”. Thực chất ‘đó là chế độ trưng cầu dân ý –
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta .
- Người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
- Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực của mình để hình thành các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân.
- Các vị đại diện của dân do dân cử ra chỉ là người thừa uỷ quyền của
dân và chỉ là “Công bộc” của dân, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện cho
mình bầu ra đồng thời “Nhân dân có quyền bãi miễn Đại biểu Quốc hội, Đại
biểu Hội đồng nhân dân nếu như những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân”.

9


b. Thế nào là Nhà nước do dân.
Đó là Nhà nước do nhân dân bầu ra thông qua việc lựa chọn, bầu cử
những đại biểu của mình. Nhà nước do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng góp cả vật
chất lẫn tinh thần. Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó
Người yêu cầu tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tôn trọng nhân dân:
“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” nghĩa là khi
các cơ quan đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
nhân dân sẽ bãi miễn.
c. Thế nào là Nhà nước vì dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có một Nhà nước thực sự của dân, do dân
tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân
được. Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không

có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.
Một nhà nước vì dân thì việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng làm.
“Việc gì có hại cho dân, dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh”. Mọi chủ
trương, chính sách, xây dựng phát luật đều phải xuất phát từ nguyện vọng và
lợi ích chính đáng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn
đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn
nấp ở núi non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích
đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, giành được chính quyền, uỷ thác cho tôi
gánh vác việc Chính phủ, tôi lo lắng ngày đêm, nhẫn nhục cố gắng cũng vì
mục đích đó là một vị Chủ tịch hoàn toàn vì dân”.
Khác với nhà nước thực dân, phong kiến, Nhà nước mới sinh ra không
phải để bóc lột dân, mà phải chăm lo cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học
hành, được chữa bệnh… Trong Nhà nước đó: Cán bộ từ Chủ tịch trở xuống
đều là công bộc của dân, là đầy tớ trung thành của nhân dân, phải gần dân,
hiểu dân, trọng dân.
10


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là
nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo nghĩa là tất cả các cán bộ từ
Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã bất kỳ ở cấp nào và ngành
nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Trong chế độ dân
chủ Bác chỉ rõ: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thư ký, Uỷ viên này khác là
làm gì? Làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải là làm quan cách mạng”.
Nhà nước vì dân là không ngừng chăm lo đến đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. “Sau hết chương tình nội chính của Chính phủ và của quân
dân ta chỉ có ba điều mà thôi”.
a. Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc đủ ăn.
b. Mở mang giáo dục để cho ai nấy đều biết đọc biết viết.

c. Thực hành dân chủ để làm cho dân ta ai cũng được hưởng quyền dân
chủ tự do.
Vào cuối đời, trước khi đi xa, trong Di chúc để lại, Người dặn dò chu
đáo như sau: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như miền núi đã bao
đời chịu đựng gian khổ, bị các chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột,
lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy nhân dân ta rất anh hùng, dũng
cảm, hăng hái cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng”.
Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế văn hoá, nhằm
không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Người nhắc nhờ Đảng và Chính phủ, mọi người phải tìm mọi cách giúp
đỡ cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong, những người đã
dũng cảm hy sinh xương máu để họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, mở những lớp
dạy nghề thích hợp để họ dần dần tự lực cánh sinh. Cũng ở trong Di chúc,
Người căn dặn phải làm nhiều hơn trong cuộc cách mạng đem quyền bình
đẳng cho phụ nữ, miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân, phát triển
công tác vệ sinh, y tế, sửa đổi chế độ giáo dục sao cho hợp với hoàn cảnh của
nhân dân, có kế hoạch đào tạo tiếp các chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ
trang nhân dân và thanh niên xung phong thành những cán bộ và công nhân
11


có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, trở thành
những người xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên.
2. Bản chất của Nhà nước kiểu mới.
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp của Nhà nước ta mang bản
chất của giai cấp công nhân được thể hiện.
Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối. Vấn đề Đảng lãnh đạo
chính quyền trở thành nguyên tắc bất di, bất dịch. Chính quyền là sản phẩm
của cuộc cách mạng, là công cụ thực hiện nguyện vọng và ý chí của nhân dân,
đảm bảo thực hiện mục tiêu lợi ích của nhân dân, chính quyền đó phải đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền phải mang bản chất giai cấp công nhân.
Để huy động sức mạnh của toàn dân, có thể tập hợp các Đảng phái, các
tổ chức Chính trị, đại diện cho các tầng lớp xã hội nhưng không thể chia sẻ
quyền lãnh đạo, không thể thay đổi, biến chất thành nhà nước của giai cấp
khác. Bản chất nhà nước quy định sứ mệnh, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước,
quy định nội dung phương thức hoạt động của nhà nước cũng như quy định
sự tồn tại, phát triển của nhà nước.
Đó là Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số
phục tùng đa số, địa phương phục tùng Trung ương.
Đó là Nhà nước thực sự thống nhất về quyền lực nhưng lại có sự phân
công, phân cấp rõ ràng cụ thể:
- Quyền lập pháp: Thuộc Quốc hội.
- Quyền hành pháp: Thuộc Chính phủ.
- Quyền tư pháp: Thuộc Toà án và Viện Kiểm sát nhân dân các cấp.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Nhà nước Việt Nam là Nhà nước đại đoàn
kết toàn dân. Nhà nước đó bao gồm tất cả các tầng lớp trong xã hội đặt dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đi đôi với việc khẳng định và giữ vai trò
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh thực hiện xây dựng Nhà nước
mang tính dân tộc sâu sắc, dựa trên nền tảng dân tộc vững chắc, tư tưởng toàn
dân đoàn kết hợp sức chăm lo để xây dựng củng cố chính quyền, tạo cho
12


chính quyền Nhà nước thực sự thâu tóm được sức mạnh của muôn dân được
thể hiện ngay từ ngày thiết lập nền cộng hoà dân chủ. Tuyên bố trước kỳ họp
thứ hai Quốc hội khoá I, Hồ Chí Minh đã khẳng định về Chính phủ liên hiệp,
Chính phủ mới phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài
không đảng phái. Theo Hồ Chí Minh vấn đề giai cấp, tính giai cấp của Nhà
nước dựa trên nền tảng dân tộc, dựa trên cơ sở xã hội là đại đoàn kết toàn dân.
Đảng của giai cấp công nhân Đại biểu cho lợi ích của toàn dân tộc “… quyền

lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một”.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp
lý mạnh mẽ.
a. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
trước hết phải là Nhà nước hợp hiến.
Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với
quốc dân đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam
mới. Qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn dân tộc Việt Nam quyết
tâm giữ vững nền tự do, độc lập của mình.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà Hồ Chí Minh đề ra nhiệm vụ cấp bách (06 nhiệm vụ) trong đó
nhiệm vụ thứ 3 là phải có hiến pháp dân chủ, đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay, cuộc tổng tuyển cử chế độ phổ thông đầu phiếu để sớm có một
Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Ngày 17/09/1945, Người ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban xây dựng
Hiến pháp để trình Quốc hội gồm 7 vị do Người làm trưởng ban.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã thành công tốt đẹp, bầu được 330 đại
biểu trúng cử, Quốc hội họp phiên đầu tiên ngày 02/02/1946. Chủ tịch Hồ Chí
Minh được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Quốc hội liên hiệp kháng chiến, đây là
Chính phủ hợp hiến đầu tiên do Đại biểu nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách

13


và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại của Nhà nước
Việt Nam mới.
b. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh
là Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có
hiệu lực trong thực tế.

Trong một Nhà nước dân chủ - Dân chủ và pháp luật phải đi đôi với
nhau, nương tựa vào nhau mới đảm bảo được cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ, không thể có dân chủ ngoài pháp luật, pháp luật là bà đỡ của dân chủ.
Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và
pháp luật.
Ngược lại hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ
của người dân được tôn trọng trong thực tế.
Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo được việc thực
hiện quyền lực của nhân dân và mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt
Nam, đồng thời là người có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, ở
cương vị là Chủ tịch nước, hai lần Người đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến
pháp: Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật,
613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo
ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, kiểm tra, giám sát việc thi
hành pháp luật trong cơ quan Nhà nước và trong nhân dân.
Người luôn khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của
Chính phủ đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải
gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.

14


c. Để xây dựng một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thấy rõ Nhà nước phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ
đức, đủ tài dựa trên một số tiêu chí cơ bản.
- Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
- Có đạo đức cách mạng, giỏi về chuyên môn.

- Hăng hái hoàn thành công việc. Có tinh thần phê bình và tự phê bình,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Có tinh thần tiên phong, gương mẫu.
- Phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Cán bộ là cầu
nối liền giữa Đảng – Chính phủ - nhân dân.
- Dám chịu trách, dám quyết đoán, giám chịu trách nhiệm về việc
chung (nhất là trong tình thế khó khăn, thắng không kiêu, bại không nản).
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
hiệu quả.
Làm thế nào để xây dựng Nhà nước cách mạng trong sạch, vững mạnh,
hiệu quả, đấu tranh khắc phục những căn bệnh cố hữu của Nhà nước kiểu cũ
đó là mối quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những
ngày đầu mới giành được chính quyền.
Người xác định đây là cuộc đấu tranh gian khổ muốn thắng lợi phải huy
động sức mạnh của nhân dân và của cả hệ thống chính trị, sử dụng kết hợp
các biện pháp tư tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, kinh tế và pháp
luật… trong đó Người nhấn mạnh hai nội dung cơ bản sau:
a. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, muốn hình thành ngay một Nhà nước pháp quyền
là chưa được và phải có thời gian không thể nóng vội được.
+ Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay phải nhấn mạnh đến
vai trò của pháp luật, phải khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật.
+ Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân.
+ Không nên đề cao một chiều vai trò của pháp luật, coi pháp luật là tối
thượng, bỏ qua vai trò hỗ trợ của các nhân tố khác trong đó có vấn đề giáo
15


dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái của ý thức xã hội
thuộc hai lĩnh vực khác nhau nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong
thực tế trị nước.

Những nhà chính trị sáng suốt thường không bao giờ tuyệt đối hoá địa
vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị lão luyện và sáng suốt đã
thu hút được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn hoá trị nước của
loài người và đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn sáng tạo. Trong 24 năm
nắm cương vị đứng đầu Nhà nước, Người là một mẫu mực của sự kết hợp đạo
đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng
nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật. Suốt đời mình Chủ tịch Hồ Chí Minh
gương mẫu chấp hành kỷ cương phép nước đồng thời cũng suốt đời kiên trì giáo
dục đạo đức cho cán bộ Đảng viên nhất là những người có chức có quyền.
b, Kiên quyết chống ba thứ “Giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí và quan liêu.
Sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh
của việc thi hành pháp luật, mặt khác dựa vào sự gương mẫu, sự trong sạch về
đạo đức của người cầm quyền. Vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi: “Cán bộ
phải thực hành chữ “Liêm” trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.
Từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “”Giặc nội xâm”,
“Giặc trong lòng” những căn bệnh mà chúng ta phải kiên quyết chống nếu
không chúng sẽ dẫn đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được.
Người nói “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu dù có ý hay không cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến… nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý
chí khắc khổ của cán bộ ta, nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là Cần, Kiệm,
Liêm, Chính… tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi của Việt gian, mật thám”.
Người chỉ ra mối quan hệ giữa đánh thù trong và diệt giặc ngoài chống
tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận.
“Nếu chiến sỹ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc
nội xâm là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
16


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo

từ cấp trên đến cấp dưới không xét công việc thực tế, không theo dõi giáo dục
cán bộ, không gần gũi quần chúng, đối với công việc thì chỉ trọng hình thức
mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề, chỉ thị biết khai hội,
viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn
thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ
mà không giữ đúng, có luật mà không nắm vững… thế là bệnh quan liêu đã
ấp ủ, dung túng che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy muốn trừ sạch nạn
tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩu sạch bệnh quan liêu”.
Vì vậy không thể nói đến một Nhà nước trong sạch và vững mạnh, hiệu
quả nếu như không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh vào cuộc chiến đấu
tranh để chặn đứng tiến tới tiêu diệt tật gốc những nguyên nhân đã gây ra nạn
tham ô, lãng phí, quan liêu.

17


Chương III
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NGANG TẦM NHIỆM VỤ
CỦA GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ MỚI
Từ sau cách mạng tháng Tám thành công đến nay Đảng ta đã có kinh
nghiệm hơn một phần hai thế kỷ xây dựng và lãnh đạo Nhà nước từ cách
mạng dân tộc dân chủ chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nội dung
nhiệm vụ của Nhà nước có sự khác nhau xong về tính chất của Nhà nước vẫn
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân được xây dựng trên những nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác – Lênin – Tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất của giai
cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc.
Từ khi đất nước được hoà bình, nền kinh tế từng bước chuyển từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường hướng xã hội chủ nghĩa có
sự quản lý của Nhà nước, trong điều kiện mở của hội nhập kinh tế quốc tế…

đã có sự thay đổi nhiều từ nội dung nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức
hoạt động cho đến yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người vận hành bộ
máy Nhà nước. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang đứng trước cơ hội
và thách thức chưa từng có. Xu thế toàn cầu hoá đang phát triển sâu rộng với
tốc độ nhanh mở ra cơ hội cho các nước chậm phát triển có thể đuổi kịp các
nước đang phát triển, đồng thời cũng gia tăng nguy cơ bành trước của chủ
nghĩa thực dân mới. Trong tình hình đó nếu không có một Nhà nước thực sự
trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu quả, hiệu lực, tranh thủ nắm lấy vận
hội đưa đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ không
có mà độc lập dân tộc cũng khó được bảo vệ.
Vậy làm thế nào để không ngừng hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân,
vì dân, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà nước trong giai đoạn
lịch sử mới. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh liên hệ với tình hình thực tế

18


hiện nay, có thể thấy nổi lên một số vấn đề cấp bách tập trung đột phá nhằm
tạo ra những chuyển biến rõ rệt, cụ thể là:
1. Chúng ta phải xây dựng Nhà nước đảm bảo quyền làm chủ thực sự
cho nhân dân.
Trong điều kiện thực tiễn của nước ta cần chú ý đến một số điểm sau:
Phát huy dân chủ, mở rộng dân chủ để khai thác nội lực, sức mạnh vô
tận của nhân dân ta.
Quyền làm chủ của mọi người dân phải được tôn trọng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Để sớm đưa nước ta ra khỏi thực trạng kém phát
triển của nền kinh tế, rút ngắn khoảng cách với những nước đang phát triển
cần phải phát huy cao độ nội lực của dân tộc, khai thác sức mạnh của toàn dân
tham gia vào công cuộc Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tham gia
vào mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Như chúng ta đã biết

nước ta là nước dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân, nhân tài vật lực từ dân
mà có, nhân dân làm chủ để xây dựng xã hội mới. Do vậy Nhà nước phải biết
phát huy dân chủ, mở rộng dân chủ để nhân dân tham gia xây dựng đất nước.
Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự cho nhân dân, quyền
làm chủ thực sự cho nhân dân không có nghĩa là các quyền làm chủ của nhân
dân được ghi nhận trong Hiến pháp, trong điều luật là đủ mà Nhà nước phải
tạo điều kiện vật chất, tinh thần… để nhân dân có điều kiện tham gia quản lý,
giám sát hoạt động của Nhà nước với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân
kiểm tra”.
Gắn việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, văn hoá – môi trường; với
việc xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; với cải cách hành chính;
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn bộ máy chính quyền, nâng
cao vai trò và địa vị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
Đẩy mạnh dân chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cần chú trọng
dân chủ hoá trong lĩnh vực kinh tế. Dân chủ hoá trong kinh tế có ý nghĩa nền
19


tảng đối với sự thực thi dân chủ trên nhiều lĩnh vực khác trong đời sống xã
hội. Việc tạo môi trường kinh tế theo hướng dân chủ hoá hiện nay có nghĩa là
làm cho toàn bộ các quan hệ kinh tế, các điều kiện sản xuất và các hình thức
kinh doanh được thiết lập theo quan hệ dân chủ, đảm bảo cho mọi người có
thể bộc lộ được những tiềm năng và sự chủ động trong việc tổ chức sản xuất,
kinh doanh.
Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở cần đồng thời xây dựng quy chế
phối hợp hoạt động đồng bộ, thống nhất giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm tích cực xây dựng hệ thống chính trị
ở cơ sở trong sạch và vững mạnh. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và
kỷ cương, kiên quyết xử lý những phần tử lợi dụng dân chủ gây mất đoàn kết

nội bộ, mất ổn định xã hội.
2. Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng nền
hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay (Từ 1986 đến nay) đất
nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng như kinh tế phát triển, đời
sống nhân dân ngày một nâng cao, an ninh chính trị được ổn định giữ vững,
quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, vị thế đất nước ta trên trường quốc
tế ngày càng được uy tín… điều đó không thể phủ nhận là do có những cải
cách đáng kể trong bộ máy Nhà nước, trong cải cách thủ tục hành chính…
đem lại. Xong chưa thực sự tương xứng với tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế và phát triển. Để đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước trong giai
đoạn hiện nay, cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng nền hành chính hoàn
chỉnh, trong sạch và hiệu quả cần quan tâm thực hiện tốt một số việc sau:
- Cải cách bộ máy Nhà nước:
+ Cải cách quy trình xây dựng luật và quy trình ban hành luật.
+ Bộ máy Nhà nước xây dựng theo hướng tinh gọn, hiệu quả, giảm các
đầu mối trung gian, hình thành các Bộ, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
+ Tăng quyền tự chủ cho địa phương, cho cấp dưới.
20


+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước Trung ương
đối với địa phương, đối với cấp dưới.
- Cải cách nền hành chính Nhà nước.
Đây là lĩnh vực còn nhiều bất cập, người dân còn than phiền nhiều về
thủ tục hành chính, còn nhiều phiền hà, thái độ phục vụ của công chức hành
chính còn để dân chưa hài lòng… Xây dựng nền hành chính Nhà nước trong
sạch và hiệu quả cần quan tâm tới một số việc sau:
+ Công khai các bước công việc trong thủ tục hành chính cần giải quyết
với dân.

+ Quy định hồ sơ cần thiết để giải quyết thủ tục hành chính (từng loại
thủ tục hành chính).
+ Quy định rõ thời gian hoàn thành giải quyết thủ tục hành chính.
+ Quy định cụ thể và công khai mức thu phí, lệ phí khi giải quyết thủ
tục hành chính.
Bên cạnh đó Nhà nước phải sớm ban hành và hoàn thiện chế độ công
vụ để kiểm tra, đánh giá, nhận xét cán bộ làm công vụ phục vụ giải quyết thủ
tục hành chính với người dân.
- Cải cách tài chính công.
+ Cần sớm ban hành văn bản, tiêu chí hợp lý quản lý tài chính công đối
với các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị quốc phòng, công an… các tổ
chức đoàn thể… trong tình hình mới để Nhà nước nắm được chính xác tổng
tài sản của Nhà nước trong các đơn vị khối phi sản xuất tại từng thời điểm để
có kế hoạch sử dụng hợp lý.
+ Sớm tách bạch quản lý tài chính công với các đơn vị sản xuất, kinh
doanh dịch vụ trong các đơn vị sự nghiệp.
Việc này cần phải làm sớm. Trong những đơn vị chủ quản là đơn vị
hành chính sự nghiệp có những đơn vị phụ thuộc nhưng các đơn vị phụ thuộc
lại có tham gia kinh doanh dịch vụ thì các đơn vị này phải chuyển sang khối
sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm trước người lao động về kết quả sản
21


xuất kinh doanh của mình đặc biệt là các đơn vị kinh doanh dịch vụ trong
quân đội và công an.
- Cải cách công tác cán bộ.
Cán bộ là cái gốc của công việc, để cán bộ đáp ứng được yêu cầu sự
nghiệp đổi mới đất nước trong công tác cải cách công tác cán bộ cần làm tốt
một số công việc sau:
+ Tiêu chuẩn hoá cán bộ: Xây dựng tiêu chuẩn cần thiết của cán bộ

theo chức danh, ngạch theo ngành nghề đơn vị công tác.
+ Đổi mới quy trình tuyển cán bộ: Đất nước đang trên đà đổi mới, cơ
hội tìm việc làm của người dân được mở rộng nên công tác thi tuyển cán bộ
cần được đổi mới theo hướng hiện đại và tăng quyền tự chủ về công tác cán
bộ cho ngành, địa phương, cho cấp dưới.
+ Có chính sách đãi ngộ với cán bộ công chức Nhà nước một cách hợp
lý. Xây dựng lại hệ số lượng, bảng lương theo chức danh, ngạch theo ngành
theo hướng thu nhập từ tiền lương của cán bộ công chức tối thiểu phải nuôi
sống được bản thân họ và ít nhất từ 1 đến 2 người ăn theo.
+ Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ: Đất nước đang
trong giai đoạn phát triển và hoà nhập đòi hỏi cán bộ công chức phải am hiểu
chuyên môn và kiến thức phải rộng, có nhiều kiến thức mới do vậy để hoàn
thành tốt công việc Nhà nước phải có kế hoạch thường xuyên đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ cán bộ công chức.
+ Tăng cường công tác kiểm tra chế độ chấp hành công vụ của cán bộ
công chức Nhà nước.
3. Tăng cường hơn nữa lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm bảo đảm
cho Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Hoạt động của Đảng thể hiện bản chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo của
Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của các hệ thống
22


chính trị giúp Nhà nước hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình. Đảng lãnh đạo
Nhà nước được thể hiện, cụ thể như sau:
- Cần thay đổi phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
+ Một là: Đảng lãnh đạo Nhà nước để nó thể chế hoá đúng đắn lập
trường, các quan điểm của mình.

+ Hai là: Đảng định hướng hoạt động của Nhà nước vào việc tổ chức
thực hiện có hiệu quả những Nghị quyết đã được thể chế đó.
+ Ba là: Đảng lãnh đạo công tác cán bộ ngay trong Nhà nước. Đảng cử
những Đảng viên đủ sức, đủ tài giữ những chức vụ quan trọng trong Nhà nước.
- Đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
+ Là Đảng viên nhất là những đồng chí lãnh đạo Đảng cần nhận rõ vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không phải nhờ vào uy quyền mệnh
lệnh mà ở trình độ năng lực vạch ra đường hướng chính trị đúng đắn và thông
quan công tác tuyên truyền, thuyết phục làm cho mọi tổ chức và toàn xã hội
tự giác chấp nhận ở tính gương mẫu và vai trò tiên phong chiến đấu của tổ
chức Đảng, của đội ngũ cán bộ Đảng viên, ở sự gắn bó tín nhiệm của quần
chúng đối với Đảng, ở sự trong sạch, vững mạnh về bản lĩnh chính trị, tư
tưởng và tổ chức của Đảng.
+ Nội dung đổi mới chỉnh đốn Đảng gồm:
- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; Đảng lãnh
đạo Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo xây dựng nền pháp chế nhưng Đảng và mọi Đảng viên
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, gương mẫu chấp hành
chính sách và pháp luật.
- Đảng không lấn sân Nhà nước, không làm thay Nhà nước.

23


- Để giữ vững uy tín của Đảng đối với nhân dân, Đảng cần xét kỷ luật
đưa ra khỏi Đảng, xử lý nghiêm trước pháp luật khi Đảng viên vi phạm pháp
luật dù người đó là ai.
Tóm lại: Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà

nước Việt Nam là không thể có lực lượng chính trị nào thay thế được, vấn đề
đó không chỉ mang tính nguyên tắc mà còn được khẳng định từ lý luận Mác –
Lênin – Tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn là kết luận chắc chắn được rút ra từ
thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho mọi
người dân.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, để quản lý mọi mặt của đất
nước, chúng ta phải hoàn thiện và ban hành đầy đủ các bộ luật theo ngành để
quản lý, mọi người dân sống và làm việc theo pháp luật bên cạnh đó Nhà
nước phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân để biết và làm
việc không vi phạm pháp luật. Khi người dân đã biết, hiểu pháp luật tự giác
chấp hành pháp luật toàn tâm toàn ý mang sức, mang tài ra để cống hiến và
phục vụ cách mạng thì sự nghiệp Công nghiệp hoá – hiện đại hoá của đất
nước nhất định thành công. Đất nước ta nhất định sẽ phát triển, đời sống nhân
dân nhất định sẽ được nâng cao.

24


KẾT LUẬN
Như vậy, trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác – Lênin về nhà nước vào
điều kiện cụ thể của cách mạng và xã hội Việt Nam, đặc biệt là, trên cơ sở
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng
chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ thống các quan điểm về nhà
nước của dân, do dân, vì dân (nhà nước kiểu mới) ở Việt Nam. Đây thực sự là
những chỉ dẫn quý báu cả về lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới đến nay
đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn không thể phủ nhận đó là
kinh tế đang phát triển, đời sống nhân dân được ổn định và nâng cao, quan hệ

quốc tế ngày càng mở rộng, uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng
cao, quốc phòng an ninh được giữ vững… điều đó không thể phủ nhận vai trò
lớn tích cực của Nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã tích cực cải cách một cách cơ bản, toàn
diện trong các lĩnh vực: Bộ máy Nhà nước, thủ tục hành chính, tài chính công,
công tác cán bộ… bên cạnh đó còn đang tồn tại những thiếu sót, những việc
làm của cán bộ thuộc bộ máy Nhà nước làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, cản trở quá trình phát triển của đất nước đó là thủ tục hành chính
còn gây phiền hà đối với nhân dân, đó là tệ quan liêu, nạn tham nhũng có
chiều hướng phát triển, đó là thái độ phục vụ của cán bộ còn hách dịch, cửa
quyền đối với người dân. Trong hoàn cảnh đất nước như hiện nay để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân, do dân, vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Đảng, nhân dân ta có
trách nhiệm xây dựng Nhà nước Việt Nam của dân, do dân, vì dân đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

25


×