Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

ĐỀ CƯƠNG GIÁO dục học đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.09 KB, 87 trang )


ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Chương 1: Nhập môn nghề giáo
Câu 1. Nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học là gì?
Giáo dục học là một khoa học nghiên cứu về giáo dục con người. Nó có đối tượng
nghiên cứu là bản chất, quy luật của hoạt động giáo dục con người, mục đích, mục tiêu
giáo dục, nội dung, phương pháp, phương tiện và các hình thức tổ chức giáo dục con
người một cách hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định. Vì vậy Giáo dục học có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với các bộ phận khác
của xã hội.
- Nghiên cứu các qui luật của giáo dục.
- Nghiên cứu các nhân tố của hoạt động giáo dục (mục đích, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục…). Từ đó tìm tòi con đường nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động giáo dục.
Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong thực tiễn nảy sinh,
đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới. Vì vậy nhiệm vụ của Giáo dục
học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp luận khoa học
giáo dục.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát triển nhanh
qui mô giáo dục, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng
yêu cầu còn nhiều hạn chế.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trong nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục trong những điều kiện mới…
- Các vấn đề trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong quản lý giáo dục và đào tạo…
Câu 2. Tại sao nói giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc thù?
a. Nguồn gốc và bản chất của hiện tượng giáo dục
- Ngay từ thuở sơ khai, con người tiến hành lao động để tồn tại và cũng thông đó họ bắt
đầu nhận thức thế giới, tích lũy dần dần được một kho tàng kinh nghiệm phong phú bao
gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những chuẩn mực đạo đức, niềm tin, văn hóa,..Để duy trì


2


xã hội loài người, họ liền có nhu cầu trao đổi và truyền thụ kinh nghiệm cho nhau và hiện
tượng giáo dục xuất hiện từ đây.
- Giáo dục xuất hiện ban đầu như một hiện tượng tự phát, diễn theo lối quan sát, bắt
chước ngay trong quá trình lao động. Về sau, giáo dục trở thành một hoạt động tự giác có
tổ chức, có mục đích, nội dung, phương pháp của con người.
- Giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Giáo dục làm nhiệm vụ
chuyển giao những tinh hoa văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ…của nhân loại cho thế hệ sau, là
cơ sở giúp thế hệ sau nối tiếp nhau sáng tạo, nâng cao những gì mà con người đã học
được.
- Bản chất của hiện tượng giáo dục là sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử- xã
hội của các thế hệ loài người, chức năng trọng yếu của giáo dục đới với xã hội là hình
thành và phát triển nhân cách con người.
b. Các tính chất cơ bản của giáo dục
- Tính phổ biến và vĩnh hằng
+ Trong bất kì một chế độ xã hội hay một giai đoạn lịch sử nào thì mục đích của giáo dục
vẫn là chăm sóc, dạy dỗ, đào tạo con người, là truyền thụ một cách có ý thức cho thế hệ
trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hoá, tinh thần của loài người và dân tộc,
làm cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi mặt vào cuộc sống xã hội. Vì vậy giáo dục
tồn tại và phát triển mãi cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Tính nhân văn
+ Giá trị nhân văn là những giá trị chung đảm bảo cho sự sống, tồn tại và phát triển
chung của mọi người, mọi dân tộc, quốc gia trên trái đất, là những giá trị vì con người,
cho con người, những giá trị vì sự sống hôm nay và ngày mai. Giáo dục luôn phản ánh
những giá trị nhân văn – giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và
những nét bản sắc văn hóa truyền thống của từng dân tộc, từng quốc gia. Giáo dục luôn
hướng con người đến những cái hay, cái đẹp, cái tốt, phát huy những yếu tố tích cực trong
mỗi con người nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách mỗi người.

- Tính xã hội- lịch sử
+ Giáo dục được phát triển và biến đổi cùng với sự biến đổi và phát triển của xã hội. Giáo
dục nảy sinh trên cơ sở kinh tế – xã hội nhất định, do đó tính chất, mục đích, nhiệm vụ,
nội dung của một nền giáo dục bao giờ cũng chịu sự quy định của các quá trình xã hội
trong xã hội đó. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, do đó các nền giáo dục tương ứng cũng khác nhau. Từ tính chất này
của giáo dục có thể thấy giáo dục “không nhất thành bất biến”; việc sao chép nguyên bản

3


mô hình giáo dục của một nước này cho một nước khác, giai đoạn này cho giai đoạn khác
là một việc làm phản khoa học.
- Tính giai cấp
+ Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp – đó là một tính qui
luật quan trọng trong việc xây dựng và phát triển giáo dục. Tính giai cấp của giáo dục là
sự phản ánh lợi ích của giai cấp đó trong các hoạt động giáo dục, thể hiện giáo cho ai?
Giáo dục nhằm mục đích gì? Giáo dục cái gì? và giáo dục ở đâu?... Trong xã hội có giai
cấp, giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp, nhà trường là công cụ của chuyên
chính giai cấp, hoạt động giáo dục cũng như môi trường nhà trường là một trận địa đấu
tranh giai cấp.
c. Vai trò, chức năng của giáo dục đối với sự phát triển xã hội và phát triển nhân cách.
- Chức năng kinh tế - xản xuất
+ Tái sản xuất sức lao động thông qua công tác đào tạo nhân lực (nguồn lao động có trình
độ) cho xã hội.
Để thực hiện tốt chức năng này, công tác giáo dục- đào tạo cần quan tâm đến những vấn
đề:
+ Gắn kết giáo dục với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển của
đất nước (đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội)
+ Xây dựng hệ thống cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.

+ Quan tâm thích đáng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường dạy nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
+ Đầu tư cơ sở vật chất trường học cả về số và chất đáp ứng nhiệm vụ đào tạo ở tất cả
các cơ sở giáo dục và đào tạo.
- Chức năng chính trị - xã hội
+ Trang bị cho thế hệ trẻ cũng như toàn xã hội lý tưởng phấn đấu vì một nước Việt Nam
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;
+ Thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực để xóa đói giảm nghèo, tạo sự bình
đẳng trong các tầng lớp dân cư;
+ Góp phần tạo ra đội ngũ cán bộ thực sự vì nước, vì dân.
- Chức năng văn hóa – tư tưởng

4


+ Thực hiện việc nâng cao dân trí; bồi dưỡng nhân tài, hình thành hệ thống giá trị xã hội,
xây dựng lối sống, đạo đức, thế giới quan, ý thức hệ và các chuẩn mực xã hội cho thế hệ
trẻ.
- Giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
+ Giaó dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Qua giáo dục,
thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm xã hội – lịch sử đó được kết
tinh trong các sản phẩm văn hoá vật chất và tinh thần của nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội
những kinh nghiệm đó để biến chúng thành kinh nghiệm của bản thân, tạo nên nhân cách
của mình.
+ Giáo dục có thể đem lại cho con người những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được.
+ Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình
thành nhân cách (yếu tố sinh thể, hoàn cảnh sống…).
+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền
không bình thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên.

+ Giáo dục có thể đón trước sự phát triển, “hoạch định nhân cách tương lai” để tác động
hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Câu 3. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
- Khái niệm con người
+ Quan niệm của chủ nghĩa Mác Lê nin: con người là một bộ phận, là khâu tiến hóa cao
nhất của tự nhiên nói chung và của quá trình sinh học nói riêng, là một thực thể mang bản
chất tự nhiên - sinh học, mang trong mình sức sống của tự nhiên và tính tự nhiên là tính
bao trùm của sự sống. Song điều quan trọng hơn, con người còn là một sản phẩm của lịch
sử xã hội, là một thực thể mang bản chất xã hội, bao gồm những thuộc tính, những phẩm
chất có ý nghĩa xã hội, được hình thành trong quá trình hoạt động và do kết quả của sự
tác động qua lại giữa người với người trong xã hội .
- Khái niệm nhân cách
+ Nhân cách: Là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người.
- Quá trinh hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự tác động của các nhân tố
sau: Yếu tố di truyền; yếu tố môi trường; yếu tố giáo dục; yếu tố tính tích cực hoạt động
của cá nhân. Trong 4 nhân tố nêu trên thì nhân tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá
trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
5


- Vai trò của yếu tố di truyền đối với sự phát triển nhân cách
+ Nhân tố di truyền giữ vai trò tiền đề vật chất đối với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách con người. Di truyền là sự tái tạo lại ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở
cha mẹ, là sự truyền lại từ cha mẹ cho con cái những đặc điểm, những phẩm chất nhất
định đã được ghi lại trong hệ thống gen.
- Vai trò của môi trường đối với sự phát triển của nhân cách
+ Nhân tố môi trường là điều kiện cần thiết đối với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách con người. Nói đến môi trường là nói đến hệ thống phức tạp, đa dạng các hoàn
cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống

và sự phát triển của con người.
- Vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
+ Nhân tố hoạt động cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách con người. A.N.Leonchep cho rằng: Chính trong các hoạt động của chủ
thể mà tâm lý nhân cách của con người mới phát triển và hoàn thiện. Nền tảng của nhân
cách là những quan hệ phụ thuộc giữa các hoạt động của con người mà do tiến trình
phát triển của những hoạt động ấy tạo ra.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, Các Mác khẳng định: Đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách con người giáo dục có vai trò chủ đạo. Điều này được thể hiện ở
những mặt sau:
+ Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển nhân cách
• Xác định mục đích, mục tiêu giáo dục bao gồm mục đích giáo dục của hệ thống
giáo dục quốc dân, mục tiêu của từng bậc học, cấp học, trường học và từng hoạt
động giáo dục cụ thể.
• Xác định nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa chọn phương
pháp, phương tiện, hình thức giáo dục phù hợp đáp ứng mục đích, mục tiêu giáo
dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.
• Tổ chức các hoạt động, giao lưu khoa học, phù hợp.
• Kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục…
+ Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo thuận lợi cho quá trình phát
triển nhân cách.
• Đối với di truyền: tạo thuận lợi cho mần móng của con người có trong chương
trình gen được phát triển. Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác
quan và vận động cơ thể. Phát triển tư chất cá nhân, tạo điều kiện phát triển năng
khiếu thành năng lực. Khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những
6


người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách, nâng cao nhận thức về trách nhiệm,
sự chia sẻ, hỗ trợ của cộng đồng đối với người khuyết tật.

• Đối với môi trường: Tác động đến môi trường tự nhiên thông qua trang bị kiến
thức và ý thức bảo vệ môi trường, tác động đến môi trường thông qua các chức
năng kinh tế- sản xuất, chính trị - xã hội, tư tưởng- văn hóa. Giáo dục còn thay đổi
tính chất của các môi trường nhỏ như gia đình, nhà trường, nhóm bạn bè, khu
phố…tạo nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách.
• Đối với hoạt động cá nhân: Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp
bổ ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất, năng lực cá nhân, xây dựng
những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia hoạt động giao tiếp đồng thời
hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động giao tiếp phù hợp với khả năng của bản
thân, thúc đẩy tích cực các mối quan hệ giữa thầy và trò, giữa trò với nhau…Giáo
dục còn tạo tiền đề cho tự giáo dục bản thân của cá nhân. Chỉ những người biết tự
giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục (Bennet – Anh).
+ Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách.
• Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những định hướng
đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát triển.
• Các yếu tố trong quá trình giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà giáo dục phải
giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục phải giữ vai trò chủ động.
• Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba lực lượng giáo dục: gia đình, nhà trường và xã
hội.
• Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của người được giáo dục.
• Nhà giáo dục phải có phẩm chất và năng lực tốt để làm công tác giáo dục.
Kết luận sư phạm
Để phát huy vai trò chủ đạo của mình, giáo dục cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục. Giáo dục không chỉ là sự tác động 1
chiều của những người làm công tác giáo dục tới thế hệ trẻ mà nó còn bao gồm cả hoạt
động tích cực, đa dạng của người được giáo dục trong mối quan hệ 2 chiều giữa nhà giáo
dục và học sinh.
- Giáo dục chỉ có thể đảm bảo sự phát triển nhân cách nếu có được chỗ dựa là
+ Tư chất vốn có ở mỗi người.
+ Hoạt động tích cực (tự vận động) của mỗi người trước tác động bên ngoài (giáo dục) và

điều kiện bên trong (tư chất-hoạt động tích cực cá nhân)
- Dạy học và giáo dục phải được xây dựng theo nguyên tắc phát triển và đón trước được
sự phát triển tâm lý
7


- Giáo dục không phải là vạn năng, nó cũng không hạ thấp, thủ tiêu các yếu tố khác
- Công tác giáo dục sẽ thành công khi người được giáo dục ý thức được, chấp nhận các
yêu cầu của nhà giáo dục, biến chúng thành của bản thân, làm cho họ tự đề ra mục đích
phấn đấu, rèn luyện,… điều đó có nghĩa là người được giáo dục phải tích cực hoạt động.
- Hoạt động cá nhân giữ vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân
cách. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, về động lực của sự phát
triển nhân cách. Trong quá trình giáo dục, nhà trường cần tổ chức các hoạt động phong
phú, đa dạng để thu hút học sinh tham gia.

Câu 4. Vai trò của môi trường sống đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung
quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Môi trường sống được chia làm 2 loại:
- Môi trường tự nhiên: bao gồm các điều kiện tự nhiên – sinh thái phục vụ cho hoạt động
của con người
- môi trường xã hội bao gồm:
+ Môi trường chính trị: chế độ chính trị, giai cấp…
+ Môi trường kinh tế sản xuất: chế độ kinh tế, quan hệ sản xuất, cơ sở ản xuất – kinh
doanh
+ Môi trường sinh hoạt xã hội: gia đình, các tổ chức phục vụ sinh hoạt cộng đồng.
+ Môi trường văn hóa: hệ tư tưởng, nhà trường, cơ quan văn hóa – giáo dục, phương tiện
thông tin đại chúng.
Môi trường xã hội được chia làm 2 loại:
+ Môi trường lớn: đặc trưng chủ yếu bởi tính chất của nhà nước, chế độ chính trị, chế độ

kinh tế, hệ thống các quan hệ sản xuất..
+ Môi trường nhỏ: là 1 bộ phận của môi trường lớn trực tiếp bao quanh trẻ, đó là: gia
đình, nhà trường, bạn bè, đoàn – đội, người lớn thân thuộc, cơ sở sản xuất mà trẻ tham
gia, cơ sở văn hóa địa phương…
Vai trò của môi trường trong sự hình thành và phát triển nhân cách:

8


- Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện trong một môi trường nhất
định. Môi trường góp phần tạo nên động cơ, mục đích, cung cấp phương tiện, điều kiện
cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh các kinh nghiệm xã hội,
các giá trị văn hóa để hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
- Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách phụ thuộc:
+ Lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó (tiếp thu, chấp
nhận hay phủ định phản đối).
+ Xu hướng, năng lực của cá nhân tham gia vào cải biến môi trường (tích cực hay tiêu
cực, mạnh hay yếu).
Trong sự tác động qua lại giữa môi trường và nhân cách, cần chú ý đến 2 mặt của vấn đề:
- Tính chất tác động của hoàn cảnh sống đã phản ánh vào nhân cách
- Tính tích cực của nhân cách tác động đến hoàn cảnh nhằm mục đích làm cho hoàn cảnh
phục vụ nhu cầu và lợi ích của cá nhân.

Quan hệ giữa môi trường sống và nhân cách là mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau, quan hệ
2 chiều
Khi bàn về mối quan hệ giữa môi trường sống và con người, Cac - Mac đã khẳng đinh:
“Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Khi bàn về việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng đã khẳng định: Con người mới vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể có ý thức của xã hội.

Con người mới Việt Nam là kết quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, đặc biệt việc xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa to lớn và quyết định đối với sự hình
thành con người mới. Song con người mới là chủ thể có ý thức của xã hội. Phải bằng kết
quả tổng hợp của ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao
động và đấu tranh thì những thành viên của xã hội mới cải tạo được mình và dần trở
thành con người mới.

Kết luận sư phạm
Trong quá trình giáo dục con người, cần gắn chặt từng bước việc học tập và giáo dục với
thực tiễn cải tạo và xây dựng xã hội và đấu tranh cách mạng.
Trong quá trình giáo dục học sinh cần lưu ý một số điểm sau:

9


- Từng bước gắn việc giáo dục và học tập của học sinh với việc cải tạo và xây dựng xã
hội
- Xây dựng cho học sinh có các giá trị đúng đắn
- Giúp học sinh chiếm lĩnh những ảnh hưởng tích cực của môi trường sống, phê phán
những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến học sinh.
- Tổ chức cho học sinh tích cực tham gia vào việc cải tạo và xây dựng môi trường có tác
dụng giáo dục.
- Xã hội kết hợp với nhà trường có kế hoạch “sư phạm hóa” từng bước môi trường, quan
tâm đến việc bảo vệ học sinh trước ảnh hưởng xấu…
- Cần đánh giá đúng đắn vai trò của môi trường sống trong sự phát triển nhân cách. tuyệt
đối hóa vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách là sai lầm về mặt nhận thức,
cho rằng mọi cái đều do hoàn cảnh, rơi vào thuyết “định mệnh do hoàn cảnh”. thuyết này
hạ thấp, thủ tiêu giáo dục.
- Hạ thấp, phủ nhận vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách dẫn đến thuyết
“giáo dục là vạn năng”, giáo dục con người theo xu hướng cải lương.

Câu 5. Phân tích vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Nhận xét vai trò của giáo dục trong thực tiễn và đưa ra những
ý kiến đề xuất.
Vai trò của giáo dục trong giai đoạn hiện nay
+ Giáo dục có vai trò chính đối với việc phát triển KT- XH là tái sản xuất sức lao động
thông qua công tác đào tạo nhân lực (nguồn lao động có trình độ) cho cho XH. Giáo dục
nâng cao năng suất lao động của cá nhân thông qua tích lũy kiến thức, kỹ năng, thái độ
lao động.
+ Theo Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992, không có đầu tư nào mang
lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào giáo dục. Việc
thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại những chuyển biến về
trình độc học vấn trong cộng đồng người dân và giải quyết vấn đề việc làm. Khi họ có
trình độ học vấn nhất định họ sẽ có khả năng tiếp thu thông tin cũng như khả năng phát
huy chuyên môn của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, những người có trình độ học vấn
càng cao thì cơ hội họ tìm được một công việc tốt và thích hợp sẽ dễ dàng hơn so với
những người khác. Mặt khác, một điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là việc đầu tư cho
giáo dục sẽ làm tăng năng suất cho chính bản thân họ. Từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân (Becker, 1964).
10


+ Người dân là nhân tố sang tạo ra kỹ thuật công nghệ và trực tiếp sử dụng chúng vào
quá trình phát triển kinh tế. Do đó ta có thể nhận thấy việc nâng cao trình độ học vấn và
trang bị kiến thức chuyên môn cho người dân sẽ làm tăng năng suất và hiệu quả cao. Ở
phạm vi vĩ mô, giáo dục làm tăng kỹ năng lao động, tăng năng suất và dẫn đến thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, giáo dục được coi là quốc sách.
+ Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững “Nguồn nhân lực là
nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn

lực, có khả năng huy động, tổ chức để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội”
(Nguyễn Hữu Long, 2004).
+ Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức,
kỹ năng, trình độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động cá
nhân và sự phát triển của xã hội.
+ Giáo dục nâng cao chất lượng của lao động, được thể hiện qua việc tích lũy vốn, tăng
thu nhập người lao động. Giáo dục cũng là công cụ để thế hệ trước truyền lại cho các thế
hệ sau các tư tưởng và tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục đào tạo thực hiện mục đích
“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” hình thành đội ngũ có tri thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động sáng tạo, có đạo đức cách mạng,
tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.
+ Giáo dục gắn liền với học hành, những điều học sinh học trong nhà trường sẽ gắn với
nghề nghiệp và cuộc sống trong tương lai của họ. Giáo dục đào tạo lớp người có kiến
thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa học, công nghệ,
xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà
văn hóa, nhà kinh doanh quản lý nhằm phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo
nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
+ Sự gia tăng trình độ học vấn dẫn tới mức năng suất cao, ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh
tế. Vì vậy các nhà chính trị và hoạch định chính sách đều cố gắng hành động nhằm nâng
cao trình độ học vấn của người dân. Các tranh luận rằng Chính phủ nên hỗ trợ nhiều cho
giáo dục vì giáo dục cần và tốt cho tăng trưởng kinh tế và phát triển giáo dục.
Nhận xét vai trò của thực tiễn và đưa ra ý kiến đề xuất
+ Trong thời buổi hiện nay, giáo dục được xem là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Trong khi đó giáo dục Việt Nam còn nhiều hạn chế, yếu kém. Điều này đặt ra yêu
cầu cần phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam.

11


+ Thực trạng ngày nay cho thấy việc giáo dục còn mang tính lý thuyết, chưa gắn chặt với

thực tế, chưa kết hợp với việc thực hành. Tại nhiều trường học do cơ sở vật chất còn thiếu
thốn nên trang bị các phòng thực hành, các dụng cụ thực hành chưa có. Có phải chăng
việc đầu tư việc đầu tư vào xây dựng các phòng thiết bị, các phòng thí nghiệm là không
cần thiết. Chính điều này làm cho học sinh, sinh viên học xong không biết vận dụng kiến
thức của mình vào thực tiễn. Nhà nước cần quan tâm hơn trong việc hỗ trợ trang thiết bị
phòng học.
+Trong việc giáo dục và đào tạo, giáo viên, giảng viên chưa thực sự quan tâm đến việc
trau dồi các kỹ năng cho học sinh, sinh viên. Nghi vấn đặc ra: Phải chăng giáo viên
không có kỹ năng hay việc trau dồi kỹ năng không thật cần thiết? Kỹ năng là một thành
tố quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách, giá trị con người. Do vậy, những giáo
viên, sinh viên ngành sư phạm nên không ngừng trai dồi kỹ năng cho bản thân qua việc
tham gia các buổi tọa đàm, các lớp chuyên đề, kỹ năng. Việc tham gia các hoạt động
Đoàn, Hội, làm cán bộ Đoàn, Hội cũng là cách hiệu quả để trau dồi kỹ năng quản lý, kỹ
năng làm việc nhóm..
+ Thời đại ngày nay, để được làm việc trong các công ty, xí nghiệp nước ngoài rất cần
đến ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Điều này là vấn đề khó đối với khá nhiều sinh
viên. Điều cần thiết lúc này là có kế hoạch học hiệu quả và hứng thú kích thích học.
Ngoải ra, nhà trường, các trung tâm tin học, trung tâm ngoại ngữ cần tạo điều kiện tốt
nhất cho các học viên để tang cường học tập hai đòi hỏi này.
+ Học trò ngày nay đòi hỏi rất cao ở người thầy. Vì thế, ngay từ trên ghế nhà trường, sinh
viên sư phạm không ngừng phấn đấu, tự nhen nhóm lửa nghề thì tự khắc sẽ bị đào thải.
Điều quan trọng nữa là mỗi sinh viên xác định xác định khi ra trường sẽ đi dạy thì phải
chuẩn bị tâm thế tốt. Mỗi thầy cô giáo cố gắng nhen nhóm lửa nghề cho sinh viên, sinh
viên tiếp lấy, mang cả bầu tâm huyết và tuổi trẻ gắn với nghề nghiệp chân chính đã chọn.
Câu 6. Các chức năng của giáo dục đối với xã hội
a. Chức năng kinh tế- xã hội
Lao động dù đơn giản đến đâu cũng cần có sự huấn luyện để con người biết lao động,
có kinh nghiệm lao động. Lao động càng phức tạp, càng hiện đại càng đòi hỏi sự đầu tư
vào huấn luyện nhiều hơn. Mối liên hệ giữa giáo dục và sản xuất đươc hình thành trên
sức lao động. Sức lao động xã hội chỉ tồn tại trên nhân cách con người. Giáo dục tái tạo

nên sức mạnh bản chất của con người, vì vậy giáo dục được coi là phương thức tái sản
xuất ra sức lao động xã hội.
+ Giáo dục tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ thuật, có kỹ năng nghề nghiệp, phát
triển kinh tế sản xuất.
12


+ Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao động mới, đáp ứng
kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều nguyên nhân.
+ Bằng con đường truyền thông, giáo dục phát triển ở con người những năng lực chung
và năng lực riêng biệt, giúp con người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp,
thay đổi việc làm, góp phần phát triển kinh tế sản xuất. Giáo dục góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng.
Mặt khác, bất kỳ một nước nào, muốn phát triển kinh tế, sản xuất ngày càng mạnh mẽ
với năng suất ngày càng cao thì phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có chất lượng cao.
Đó là đội ngũ đông đảo những người lao động không chỉ có những phẩm chất cao quý,
mà còn phải có những trình độ nghề nghiệp cần thiết, đáp ứng những yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội.
Muốn có nguồn nhân lực như vậy, xã hội phải dựa vào giáo dục, mà chỉ có giáo dục
mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
- Giáo dục góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
+ Giáo dục tạo ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế
sức lao động cũ bị mất đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần tăng năng suất
lao động, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế – xã hội. Chính giáo dục đã tái sản xuất
sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản xuất và quản lý xã hội với trình độ,
năng lực cao.
+ Giáo dục đào tạo lại nguồn nhân lực đã bị lỗi thời, tạo nên sức lao động mới, đáp ứng
kịp thời nguồn nhân lực thiếu hụt do nhiều nguyên nhân. Bằng con đường truyền thông,
giáo dục phát triển ở con người những năng lực chung và năng lực riêng biệt, giúp con
người nâng cao năng lực làm việc, thay đổi nghề nghiệp, thay đổi việc làm, góp phần

phát triển kinh tế sản xuất.
+ Giáo dục trực tiếp và thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kĩ
thuật, kĩ năng lao động cho nhân dân lao động. Đó là yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế sản xuất của xã hội.
- Giáo dục góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cộng đồng.
- Giáo dục tham gia vào chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bằng con
đường truyền thông, giáo dục giúp mọi người nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, phát triển kinh tế gia đình, góp phần xóa đói giảm nghèo. Như vậy,
giáo dục góp phần phát triển kinh tế sản xuất.
- Giáo dục thông qua con đường truyền thông, tham gia vào chương trình dân số, kế
hoạch hóa gia đình. Giáo dục giúp cho mọi người nhận thức đúng đắn về dân số, sức

13


khỏe sinh sản, giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giống
nòi, góp phần phát triển sản xuất.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa thì giáo dục phải nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thời đại phát triển như bão táp của khoa học và
công nghệ, nhân loại đang chuyển sang nền văn minh tin học, điện tử, sinh học. Khoa
học-công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển lực lượng sản xuất
gắn liền với sản xuất hàng hóa và thị trường, gắn liền với sự phân công lao động và hợp
tác quốc tế. Giáo dục không phải là yếu tố phi sản xuất, giáo dục là yếu tố bên trong, yếu
tố cấu thành của sản xuất xã hội. Không thể phát triển lực lượng sản xuất nếu như không
đầu tư thỏa đáng cho nhân tố con người, nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Không
thể xây dựng được quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nếu như không nâng cao trình
độ dân trí, trình độ tổ chức và quản lý của cán bộ và nhân dân. Thực tiễn đã chỉ ra rằng,
không một quốc gia nào muốn phát triển lại đầu tư ít cho giáo dục. Cuộc chạy đua phát
triển kinh tế hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học công nghệ, chạy đua về giáo dục đào
tạo, chạy đua về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành

Trung Ương khóa 8 đã nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách, nhận thức
sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”. Để làm tốt
chức năng này giáo dục đào tạo phải xây dựng được một xã hội học tập tạo điều kiện cho
mọi người có thể học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Chính vì vậy, giáo dục phải
thực sự đi trước đón đầu thúc đẩy phát triển kinh tế sản xuất.
Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất giáo dục là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế
phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi nền khoa học và
công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là
những người có trình độ học vấn cao, có kiến thức rộng, có tay nghề vững, có tính năng
động, sáng tạo… thì giáo dục phải đào tạo nhân lực một cách có hệ thống, chính qui ở
trình độ cao.
b. Chức năng chính trị - xã hội
- Giáo dục góp phần quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức công dân,
pháp luật.
Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối, chính sách… của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm
quyền. Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai
cấp nắm quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống, bảo
vệ chế độ chính trị, xã hội đương thời.

14


- Giáo dục đào tạo người lao động đáp ứng những mục đích, những yêu cầu chính trị - xã
hội nhất định.
Như đã biết, mỗi hình thái kinh tế-xã hội cụ thể, thậm chí ngay trong một xã hội cụ thể
ở những giai đoạn phát triển khác nhau lại đòi hỏi những mẫu người công dân, người lao
động khác nhau nhằm đáp ứng mục đích, yêu cầu chính trị - xã hội nhất định.
Giáo dục phải đáp ứng “đơn đặt hàng” đó. Một khi đơn đặt hàng này thay đổi thì giáo

dục phải thay đổi về mục đích, hệ thống các ngành học, mục tiêu, nọi dung, phương
pháp, hình thức tổ chức giáo dục… để có thể đủ khả năng và điều kiện thực hiện tót nhất
“đơn đặt hàng” mới này. Muốn vậy, kinh nghiệm cho thấy, một mặt giáo dục phải có tính
nhạy bén, tính năng động, mặt khác xã hội phải hỗ trợ tích cực và có hiệu quả cho nó.
- Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành xã
hội.
Trong xã hội phong kiến, giáo dục góp phần không nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự
phân chia giai cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội mang tính chất giai cấp và đẳng cấp ro
rệt.
Ví dụ: Giáo dục trong chế độ phong kiến góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và duy
trì sự bất bình đẳng giữa nam và nữ (nam được đi học, thi cử, làm quan; nữ thì ngược lại,
không được đi học, ở nhà làm công việc nội trợ…).
Còn trong xã hội ta, nhờ giáo dục cho mọi người, giáo dục thường xuyên, giáo dục phổ
cập…, trình độ dân trí ngày một nâng cao, làm cho các tầng lớp xã hội dễ dàng nhích lại
gần nhau.
c. Chức năng tư tưởng - văn hóa
- Giáo dục là phương thức cơ bản truyền bá và xây dựng hệ tư tưởng chung định hướng
cho mọi thái độ và hành vi của toàn xã hội.
- Giáo dục góp phần nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho toàn xã hội, xây
dựng lối sống, nếp sống có văn hóa (nâng cao dân trí).
- Giáo dục góp phần bảo tồn, phát triển những giá trị tư tưởng – văn hóa của nhân loại và
của dân tộc thông qua việc dạy học và giáo dục.
Tóm lại, với những chức năng này, giáo dục có khả năng tác động đến toàn bộ các lĩnh
vực hoạt động của xã hội thông qua những con người được giáo dục.
Thực hiện những chức năng cơ bản đó, giáo dục phải bám sát yêu cầu phát triển kinh tế sản xuất, chính trị - xã hội, tư tưởng - văn hóa để đáp ứng đầy đủ và kịp thời. Đồng thời
giáo dục phải được phát triển mạnh mẽ để tạo tiền đề cho sự phát triển mới về kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởn
15



Câu 7.Cấu trúc của hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) và sơ đồ cấu trúc
Cấu trúc của hoạt động giáo dục theo nghĩa rộng (vở ghi)
Sơ đồ cấu trúc

Câu 8. Phân biệt các khái niệm hoạt động giáo dục theo nghĩa rộng, hoạt động giáo dục
theo nghĩa hẹp và hoạt động dạy học theo chức năng cơ bản của chúng.

BẢNG PHÂN BIỆT HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC VÀ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC (THEO NGHĨA
HẸP)

Các khái niệm
Giáo dục (nghĩa hẹp)
Hoạt động giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng),
là hoạt động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo
đức, thẩm mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn
của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa này giáo dục (nghĩa hẹp) bao gồm
các bộ phận: đức dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục lao động.
16


Dạy học
Hoạt động dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng),là quá trình tác động qua
lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã
hội loài người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo…) để phát triển những năng lực và phẩm chất
cuả người học theo mục đích giáo dục.
Giống nhau: Là hai bộ phận của hoạt động giáo dục tổng thể, hai hoạt động này gắn bó
chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau nhưng có sự tách biệt tương đối về chức năng
nhưng đều hướng đến thực hiện mục đích lớn của giáo dục là hình thành mẫu nhân cách
lý tưởng cho xã hội.
Khác nhau

Tiêu chí
Mục đích

Chức năng
nhiệm vụ

Hoạt động dạy học
Nhằm chủ yếu hình thành:
Năng lực trí tuệ, kỹ năng trí tuệ
Chức năng trội: Chủ yếu nhằm thực
hiện nhiệm vụ giáo dục trí tuệ
Có thế mạnh về mặt phát triển trí tuệ,
nhận thức: hình thành các biểu tượng,
khái niệm, định luật, lý thuyết, các kỹ
năng, kỹ xảo…

Đối tượng

Hệ thống khái niệm
Hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo được
quy định chặt chẽ, phù hợp logic nhận
thức, tuân theo một chương trình, kế
hoạchdạy học nhằm đạt được một mục
tiêu giáo dục xác định.

Lĩnh vực

Môn học/khoa học

Chủ đề, chủ điểm, nội dung giáo dục (nghĩa

hẹp) đa dạng phong phú

Cơ chế hình
thành
Thời gian

Con đường nghiên cứu khoa học, logic
cao
Chiếm lĩnh nhanh hơn

Hình thức

Lớp/bài
Hệ thống bài lên lớp (theo thời khóa
biểu), xemina, thực hành, thí nghiệm…

Không gian
Phương
thức:

Hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp)
Nhằm chủ yếu hình thành:
Phẩm chất nhân cách, giá trị, kỹ năng sống
Chức năng trội: Chủ yếu nhằm thực
hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ,
sức khỏe, lao động…
Có thế mạnh về mặt xúc cảm, thái độ: hình
thành niềm tin, chuẩn mực, lý tưởng, động
cơ, nguyên tắc hành vi, lối sống.
Hệ thống giá trị, chuẩn mực

Hệ thống các chuẩn mực xã hội (các định
hướng giá trị về đạo đức, văn hóa, thẩm
mĩ…), có tính không chắc chắn, chủ yếu
dựa theo nhu cầu xã hội, nguyện vọng và
hứng thú của đối tượng.

Phòng học là chủ yếu
Truyền đạt, phân tích, giảng giải…
Hình thức: chủ yếu cá nhân
17

Tác động vào cảm xúc, nhiều khi phi logic
Lâu dài hơn, bền bỉ hơn
Nhóm/nội dung GIÁO DỤC
Các sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội,
tham quan, lao động công ích, các sinh hoạt
thường nhật…
Ngoài lớp học thông thường, trong nhà
máy, trong cuộc sống xã hội…
Trải nghiệm, biểu diễn, chiêm nghiệm…
Hình thức: chủ yếu hoạt động tập thể


Mục đích
trải nghiệm
Kiểm tra
đánh giá

Quản lý


Chủ yếu để tích lũy kinh nghiệm quan hệ,
hoạt động, ứng xử, giải quyết vấn đề… để
thích ứng với sự đa dạng của cuộc sống
luôn vận động
Chủ yếu đánh giá các kiến thức khoa học Nhấn mạnh đến kinh nghiệm, thái độ thực
học được đã được vận dụng như thế nào hiện, tính trải nghiệm, cảm xúc, giá trị,
vào thực tiễn.
niềm tin, thói quen…
Thường sử dụng đánh giá định lượng
Thường sử dụng đánh giá định tính.
Người lãnh đạo là đại diện của tập thể học
Người lãnh đạo quá trình dạy học chủ
sinh, đoàn thể và gia đình, của giáo viên
yếu là giáo viên bộ môn
chủ nhiệm/ giáo dục viên…
Quản lý theo chương trình môn học, thi
Quản lý theo chường trình hoạt động của
cử.
tập thể
Chủ yếu để củng cố kiến thức khoa học
(tích hợp), lý luận thông qua việc giải
quyết nhiệm vụ của thực tiễn

BẢNG SO SÁNH BA HOẠT ĐỘNG VỀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN
Các khái niệm
Giáo dục (theo nghĩa rộng)
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là hoạt động giáo dục tổng thể hình thành và phát triển
nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm phát triển tối đa những
tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của con người.
Giáo dục (nghĩa hẹp)

Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt
động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư tưởng chính trị, đạo đức,
thẩm mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn của
cá nhân trong các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa này giáo dục (nghĩa hẹp) bao gồm các
bộ phận: đức dục, mỹ dục, thể dục, giáo dục lao động.
Dạy học
Dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng),là quá trình tác động qua lại giữa
giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài
người (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo…) để phát triển những năng lực và phẩm chất cuả
người học theo mục đích giáo dục.

18


Giống nhau: Cả hai hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục là tập con của họat động
giáo dục tổng thể, đều hướng đến hình thành nhân cách con người, tác động tích cực đến
xã hội.

Khác nhau
Tiêu chí

Hoạt động giáo dục
tổng thể (theo nghĩa
rộng)
Hình thành mẫu nhân
cách con người mà
giáo dục cần đào tạo
đáp ứng yêu cầu của xã
hội trong từng giai
đoạn phát triển.

Phát triển toàn diện
nhân cách con người.

Chức năng cơ bản

Chức năng của nó bao
gồm cả chức năng của
hoạt động dạy học và
hoạt động giáo dục
(theo nghĩa hẹp), được
cụ thể hóa thành các
nhiệm vụ:
Giáo dục trí tuệ, giáo
dục đạo đức, giáo dục
thẩm mĩ, giáo dục thể
chất và giáo dục lao
động hướng nghiệp.

Hoạt động dạy học

Hoạt động giáo dục

Chức năng trội: Chủ
yếu nhằm thực
hiện nhiệm vụ giáo dục
trí tuệ như
+ Trau dồi học vấn,
truyền thụ và lĩnh hội hệ
thống tri thức khoa học
phổ thông, cơ bản, hiện

đại, phù hợp với thực
tiễn rèn luyện hệ thống
kỹ năng, kỹ năng, kỹ
xảo nhận thức và thực
hành cho người học.
+ Tổ chức, hướng dẫn
học sinh phát triển năng
lực và phẩm chất trí tuệ.
+Tổ chức, hướng dẫn
học sinh hình thành,
phát triển phẩm chất
nhân cách và phát triển
toàn diện nhân cách.
Làm cơ sở để tiến hành
phát triển hoạt động
giáo dục (theo nghĩa
hẹp), dạy học phải đi
đến giáo dục.

Chức năng trội: Chủ
yếu nhằm thực hiện
nhiệm vụ giáo dục đạo
đức, thẩm mĩ, sức
khỏe, lao động…
Có thế mạnh về mặt
xúc cảm, thái độ: hình
thành niềm tin, chuẩn
mực, lý tưởng, động
cơ, nguyên tắc hành vi,
lối sống.

Thực hiện chức năng
dựa trên có cơ sở của
hoạt động dạy học,
thúc đẩy dạy học.

Câu 9. Phân tích bản chất, tính hai mặt của hoạt động dạy học. Từ đó rút ra kết luận sư
phạm
Định nghĩa hoạt động dạy học
19


Hoạt động dạy học (theo nghĩa hẹp) là hoạt động kép, là hoạt động phối hợp tương tác
và thống nhất giữa hoạt động chủ đạo chủ đạo của giáo viên và hoạt động tự giác, tích
cực, chủ động của học sinh nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.
Phân tích
Quan niệm về hoạt động dạy học phản ánh tính hai mặt của hoạt động này: hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động này không tách rời nhau
mà nằm trong mối quan hệ tương tác với nhau, dạy tốt sẽ dẫn đến học tốt và ngược lại, là
một hoạt động chung hướng tới mục đích hình thành nhân cách con người mới, đáp ứng
yêu cầu của thời đại. Trong đó:
- Người giáo viên đóng vai trò chủ thể định hướng, tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt
động nhân thức, học tập của học sinh đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ và có chất
lượng những yêu cầu, nhiệm vụ học tập phù hợp với mục tiêu dạy học cấp học. Giáo viên
đóng vai trò hết sức quan trọng để khuyến khích tính ham hiểu biết của người học, rèn
luyện độc lập khám phá trí tuệ, tăng cường khả năng tổ chức và sử dụng kiến thức giúp
người học đạt được năng lực học suốt đời qua việc tự giáo dục. Để đáp ứng được nhu cầu
dạy và học, giáo viên cần phải có năng lực của một nhà khoa học chân chính và một nhà
sư phạm tâm huyết.
- Phối hợp với hoạt động dạy của giáo viên, học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy,
vừa là chủ thể của hoạt động học tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo tự tổ chức hoạt động

học tập dưới sự tổ chức sư phạm của giáo viên nhằm nắm vững tri thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhân thức, đặc biệ là năng lực tư duy sáng tạo, hình
thanh cơ sở thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức của con người mới.
Chính học sinh chứ không phải con người nào khác phải tự làm ra sản phẩm giáo dục.
Tính chất hành động của họ quyết định tới chất lượng tri thức mà họ tiếp thu.
Ở đây chúng ta nhận thấy sự khác nhau giữa quan điểm hoạt động dạy học truyền thống
và hiên đại. Quan điểm truyền thống nhấn mạnh chức năng điều khiển quá trình nhân
thức của người dạy và tính tích cực, chủ động, tự điều khiển của người học. Ngược lại
theo quan điểm hiện đại về hoạt động dạy học, người ta rất coi trọng yếu tố điều khiển sư
phạm của giáo viên, ở đây vai trò của giáo viên đã có sự thay đổi, người giáo viên phải
biết gợi mở, hướng dẫn, dạy cho người học cách tìm kiếm và xử lý thông tin và từ đó vận
dụng. Tuy nhiên, muốn được như vậy cần coi trọng môi trường công tác giữa việc dạy và
việc học và người học phải tự điều khiển quá trình nhận thức của mình thông qua việc
tích cực, chủ động, tự lực chiếm lĩnh lấy nội dung học tập với sự hỗ trợ của người dạy.
Kết luận sư phạm
- Giáo viên: chủ động, tích cực trong công tác xây dựng, định hướng, điều chỉnh quá trình
lĩnh hội tri thức của học sinh, giáo viên cần nhân thức mối quan hệ mật thiết với học sinh
và tầm quan trọng của việc tự nhân thức của học sinh để hướng tới hoàn thành mục tiêu
20


dạy học. Giáo viên còn phải không ngừng nâng cao chuyên môn cả về tri thức khoa học
lẫn kỹ năng quản lý, truyền đạt thông tin để cung cấp hệ thống tri thức chuẩn sát và bắt
kịp với sự phát triển không ngừng của xã hội. Hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến
việc nhận thức của học sinh. Không bi quan, chán nản mà phải kiên trì nổ lực, việc dạy
học phải có kế hoach cụ thể, ro ràng, hoàn thành mục tiêu truyền đạt kiến thức cơ bản mà
bộ quy định cũng như mục tiêu kiến thức mà bản thân mỗi giáo viên đặt ra.
+ Tri thức cũng như cách thức truyền đạt phải mang tính vừa sức chung, vừa sức riêng,
chú ý quan sát những học sinh yếu kém để giúp đỡ các em học tập tốt hơn cũng như giúp
đỡ các em khá giỏi phát triển năng lực của mình hơn.

- Học sinh: không ngừng phối hợp với thầy cô và trải nghiệm thực tiễn để hình thành hệ
thống tri thức có chọn lọc cho riêng mình, cần tạo hứng thú học tập, duy trì hoạt động học
lâu dài, thậm chí trong suốt cuộc đời. Mỗi học sinh phải biết tích cực, chủ động lĩnh hội
tri thức, không lười biếng, chủ quan, không tự cao cũng như tự ti về bản thân. Không
ngừng giúp đỡ các bạn khác cùng tiến bộ, xây dựng tinh thần đoàn kết trong học tập, tạo
lập các nhóm để việc học tập được diễn ra tốt hơn.
Bên cạnh đó:
- Nhà trường: chủ động tạo điều kiện, môi trường cho giáo viên tổ chức hoạt động dạy
học đạt được mục tiêu đề ra.
- Gia đình và xã hội không ngừng phối hợp với nhà trường, giáo viên để giúp đỡ học sinh
lĩnh hội tri thức khoa học. Phụ huynh học sinh cần kèm cặp, nhắc nhở các em chuẩn bị
bài vở tốt trước khi đến lớp, nhắc nhở các em tích cực tham gia các hoạt động trên lớp,
trong nhà trường do giáo viên tổ chức như xây dựng bài, tham gia các họat động ngoại
khóa học tập… Xã hội cần quan tâm và hạn chế những tác động tiêu cực, những tri thức
lệch lạc, xây dựng các thư viện, các buổi giao lưu tri thức miễn phí, hấp dẫn dành cho học
sinh, tạo ra các trang mạng bổ ích phụ trợ cho việc học tập, các cuộc thi dành cho học
sinh giỏi như Toán, tiếng Anh trên máy tính…
Câu 10. Phân tích tính hai mặt của hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Từ đó rút ra
kết luận sư phạm cần thiết cho công tác giáo dục học sinh phổ thông.
Định nghĩa hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp)
Hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) là hoạt động phối hợp, thống nhất hoạt động chủ
đạo của nhà giáo dục và họat động tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục của người được
giáo dục nhằm hình thành và phát triển những phẩm chất nhân cách phù hợp với yêu cầu
xã hội.
Phân tích
21


+ Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo, có nghĩa là địnhh
hướng, tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành nhân cách của người được

giáo dục, theo định hướng của mục đích và nhiệm vụ giáo dục. Nhà giáo dục tác động lên
học sinh một cách có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương tiện phù hợp.
Qua đó kích thích và làm phát triển ở học sinh tính tự giác, tích cực, tự giáo dục. Thể hiện
cụ thể thông qua việc:

• Xác định mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đề ra các yêu cầu giáo dục.
• Lựa chọn các loại hoạt động và giao lưu phù hợp
• Tổ chức thường xuyên khoa học, hợp lý các hoạt động và giao lưu
• Khơi dậy, kích thích tính tích cực, tự giáo dục của đối tượng
• Giáo dục của nhà trường đóng vai trò chủ đạo phối hợp với các lực lượng giáo dục
• Xây dựng môi trường giáo dục
• Thường xuyên kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh hoạt động giáo dục.
+ Trong quá trình giáo dục, người được giáo dục tồn tại một mặt với tư cách là đối
tượng chịu sự tác động có định hướng của nhà giáo dục song mặt khác lại tồn tại với tư
cách là chủ thể tự giáo dục, có nghĩa là họ tự tổ chức, tự điều khiển quá trình hình thành
nhân cách của mình. Họ tiếp nhận những tác động một cách có chọn lọc, có khả năng tự
vận động đi lên, tự chuyển hóa những yêu cầu chuẩn mực thành nhu cầu, mong muốn
phát triển chính bản thân.
+ Như vậy, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác động qua lại tích cực giữa nhà
giáo dục và người được giáo dục, trong đó tính tích cực, chủ động của học sinh là rất
quan trọng. Nếu không có sự tác động qua lại này thì sẽ không có bản thân quá trình giáo
dục theo đúng nghĩa của nó. Nói cách khác, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác động
qua lại tích cực và sự thống nhất biện chứng giữa giáo dục và tự giáo dục.
Kết luận sư phạm
- Nhà trường: chủ đạo, thống nhất các lực lượng giáo dục.
- Nhà giáo dục: cần hạn chế những tác động tiêu cực, kiên trì nhẫn nại, tác động liên tục.
Ngoài ra nhà giáo dục không nên bi quan, nóng vội, chán nản, buông lỏng, bi quan sớm.
22



Có kế hoach giáo dục thường xuyên, hệ thống cho mọi đối tượng, đặc biệt là học sinh
chưa ngoan.
- Trong hoạt động giáo dục: có tác động chung và tác động riêng phù hợp với từng đối
tượng, tình huống giáo dục.
- Phải xem trọng cả hai hoạt động giáo dục và hoạt động dạy học.
Câu 11. Phân biệt khái niệm mục đích và mục tiêu giáo dục
a. Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục là sự dự kiến trước kết quả của hoạt động giáo dục.
- Là phạm trù cơ bản của giáo dục học, là sự dự kiến trước phản ánh trước kết quả
mong muốn của hoạt động giáo dục. Kết quả của hoạt động giáo dục chính là nhân cách
của người được giáo dục. Vì vậy, có thể hiểu mục đích giáo dục là mô hình nhân cách
của con người (người học) mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội
trong một giai đọan lịch sử cụ thể.
- Đặc trưng của mục đích giáo dục:
+ Là kết quả dự kiến của một quá trình hoạt động dài lâu, với thời gian ngắn nó
không cho kết quả ro ràng.
+ MĐGD biểu thị những yêu cầu, những quan điểm chung nhất của xã hội đối với
việc giáo dục con người. (MĐGD vừa mang tính khuôn mẫu, chuẩn mực nhưng vẫn chịu
sự qui định của môi trường lịch sử xã hội).
+ MĐGD thể hiện tính định hướng cho mọi hoạt động giáo dục. Đây là tính chất
quan trọng nhất của mục đích giáo dục.
Để hình dung ro hơn mục đích giáo dục cần phân tích mục đích giáo dục ra thành
các mục tiêu giáo dục.
b. Mục tiêu giáo dục:
Mục tiêu giáo dục được hiểu là sự cụ thể hóa của mục đích giáo dục, Là chuẩn mực
cụ thể của một cấp học, bậc học, một loại trường, một giai đoạn đào tạo nhất định.
- Đặc trưng của mục tiêu giáo dục:
23



+ Là kết quả dự kiến của một quá trình hoạt động ngắn.
+ Có kết quả ro ràng và phải đo lường được.
+ Có thể nêu lên qui trình hoạt động để đạt được kết quả
Mục đích giáo dục có thể được hình dung ở các cấp độ vĩ mô và vi mô. Cấp độ vĩ
mô hay còn gọi là mục đích giáo dục tổng quát là nhấn mạnh mục đích chung của toàn bộ
hệ thống giáo dục quốc dân, phản ánh các yêu cầu của xã hội đối với một nền giáo dục.
Chẳng hạn, mục đích giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân là trình độ dân trí, chất
lượng nguồn nhân lực và nhân tài của một quốc gia ở một giai đoạn lịch sử nhất định.
Cấp độ vi mô hay còn gọi là mục tiêu giáo dục thể hiện ở từng bậc học, cấp học, ngành
học... ở các giai đoạn nhất định như là mục tiêu giáo dục mầm non, phổ thông (mục tiêu
giáo dục tiểu học, THCS, THPT), mục tiêu giáo dục đại học…
c. Sự khác nhau giữa MĐGD và MTGD
TT
Mục đích giáo dục
1 Có tính định hướng, lý tưởng
2
3
4
5

Thời gian thực hiện dài
Tính rộng lớn, khái quát của vấn đề
Khó đo được kết quả tại một thời điểm xác
định
Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do nhiều
mục tiêu kết hợp lại

Mục tiêu giáo dục
Có tính cụ thể với hành động và phương tiện
xác định

Thời gian thực hiện ngắn, xác định
Có tính xác định của vấn đề
Có thể đo được kết quả ở một thời điểm cụ thể
Cấu trúc đơn giản, là một bộ phận hợp thành
của mục đích giáo dục..

Dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt mục đích và mục tiêu là tính xác định và tính
cụ thể của kết quả dự kiến.
Quan hệ giữa mục đích giáo dục và mục tiêu giáo dục
- Có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mục đích giáo dục bao trùm toàn bộ các mục
tiêu giáo dục. Vì vậy, muốn thực hiện được mục đích giáo dục cần phải cụ thể hóa nó
thành các mục tiêu, chỉ có như vậy mới xây dựng được qui trình hoạt động cụ thể và mới
đo lường được.
- Hệ thống mục tiêu thường được sắp xếp theo một cấu trúc gồm nhiều tầng bậc,
người ta gọi đó là cây mục tiêu.
24


- Trong lí luận cũng như thực tiễn giáo dục, cần chú ý đến mối quan hệ giữa MĐGD
và MTGD nhằm đảm bảo cho MĐGD như là một chỉnh thể.
Câu 12. Mục đích giáo dục, mục tiêu giáo dục Việt Nam
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (Luật giáo dục - 2005).
Vấn đề nâng cao dân trí
- Dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa của người dân trong từng
thời kỳ lịch sử nhất định. Dân trí biểu hiện trữ lượng hiểu biết văn hoá của một dân tộc.
Mặt bằng dân trí được thể hiện bằng số năm học trung bình của người dân một nước vào
một thời điểm nhất định.

- Ý nghĩa của của việc nâng cao dân trí:
+ Đối với cá nhân: Làm cho người dân sống hạnh phúc
+ Đối với xã hội: Làm cho xã hội văn minh, tiến bộ, công bằng; là tiêu chuẩn để
đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia.
+ Tham gia giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như: dân số, môi trường,
bệnh tật...
- Các giải pháp cơ bản để nâng cao trình độ dân trí:
+ Con đường cơ bản để nâng cao dân trí là thực hiện phổ cập giáo dục.
Hiện nay ở nước ta, khả năng kinh tế - xã hội mới cho phép chúng ta phổ cập giáo
dục THCS. Một số địa bàn như các thành phố lớn và các vùng trọng điểm trình độ dân trí
phải đạt đến mức văn hoá THPT.
+ Liên tục đổi mới, phát triển phù hợp và đáp ứng được các quá trình phát triển
chung theo hướng nhân văn hóa, xã hội hóa, đa dạng hóa với những phương thức thích
hợp.

25


×