Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Đề cương Cơ sở Văn hóa Việt Nam trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.26 KB, 92 trang )

TÀI LIỆU THAM KHẢO
HỌC PHẦN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
CÂU 1: NÊU VÀ PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC THUẬT NGỮ VĂN HÓA Ở PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY. PHÂN BIỆT KHÁI NIỆM VĂN
HÓA, VĂN MINH, VĂN HIẾN, VĂN VẬT. PHÂN TÍCH ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA CỦA UNESCO.
1
CÂU 2: PHÂN TÍCH CÁC ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA THEO QUAN ĐIỂM CỦA TRẦN NGỌC THÊM
4
CÂU 3: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN LÊN VĂN HOÁ VIỆT NAM. LIÊN HỆ VỚI ĐỊA PHƯƠNG ANH/CHỊ.
7
CÂU 4: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM TƯ DUY VÀ TÂM LINH LÊN VĂN HÓA VIỆT NAM.
11
CÂU 5: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ THÀNH HOÀNG LÀNG TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT.
14
CÂU 6: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH NGƯỜI VIỆT.
17
CÂU 7: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ NỘI SINH VÀ YẾU TỐ NGOẠI SINH TRONG GIAO LƯU VĂN HÓA.
19
CÂU 8: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM.
21
CÂU 9: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA LÀNG TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT.
22
CÂU 10: TRÌNH BÀY THÀNH TỰU VÀ PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA LỚP VĂN HOÁ BẢN ĐỊA
24
CÂU 11: PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA ĐẠI VIỆT.
30
CÂU 12: VẼ SƠ ĐỒ DIỄN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM. PHÂN TÍCH THÀNH TỰU CỦA LỚP VĂN HÓA BẢN ĐỊA
32
CÂU 13: VẼ SƠ ĐỒ DIỄN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM. PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG CỦA CUỘC PHỤC HƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC LẦN 1
(THỜI LÝ - TRẦN)
34
CÂU 14: VẼ SƠ ĐỒ DIỄN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM. PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG CỦA CUỘC PHỤC HƯNG VĂN HÓA DÂN TỘC LẦN 2


(THỜI HẬU LÊ).
36
CÂU 15: VẼ SƠ ĐỒ DIỄN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM. PHÂN TÍCH ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY).
39
CÂU 1: THẾ NÀO LÀ PHƯƠNG PHÁP LIÊN NGÀNH VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN HỆ THỐNG? VÌ SAO HAI PHƯƠNG PHÁP NÀY ĐƯỢC
CỌI LÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CƠ BẢN CỦA VĂN HÓA HỌC NÓI CHUNG VÀ CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM NÓI RIÊNG?
42
CÂU 2: ANH/CHỊ HÃY PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH RẰNG: VĂN HÓA VIỆT NAM LÀ MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG ĐA
DẠNG. (CHƯA LÀM)
45
CÂU 3: QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN THỂ HIỆN NHỮNG SẮC THÁI NỔI BẬT GÌ TRONG NỀN VĂN HÓA
VIỆT NAM?
45
CÂU 4: PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH QUY LUẬT TƯƠNG TÁC GIỮA CON NGƯỜI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN TRONG VĂN HÓA. 46
CÂU 5: PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH QUY LUẬT TƯƠNG TÁC GIỮA CON NGƯỜI VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI (GIAO LƯU VĂN HÓA)
TRONG VĂN HÓA. (CHƯA LÀM)
50
CÂU 6: ANH/CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG: GIAO LƯU VĂN HÓA VỚI PHƯƠNG TÂY THÔNG QUA VĂN HÓA PHÁP THỜI KỲ 1858 1945 ĐÃ ĐƯA VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ MỘT NỀN VĂN HÓA MANG TÍNH KHU VỰC TRỞ THÀNH MỘT NỀN VĂN HÓA MANG TÍNH
QUỐC TẾ.
50
CÂU 7: ANH/CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG: GIAO LƯU VĂN HÓA VỚI TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 938 ĐÃ LÀM
GIÀU BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM.
52
CÂU 8: ANH/CHỊ HÃY CHỨNG MINH RẰNG: VĂN HÓA VIỆT NAM MANG NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG NHẤT CỦA VĂN HÓA ĐÔNG
NAM Á.
57
CÂU 9: BẰNG HIỂU BIẾT VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA DÂN TỘC, CHỨNG MINH RẰNG: LỊCH SỬ ĐÃ TẠO RA VÀ HUN ĐÚC NHƯNG GIÁ TRỊ
TINH THẦN MANG TÍNH BẢN SẮC CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM.
59
THỜI KỲ ĐÁ MỚI (CÁCH ĐÂY HÀNG VẠN NĂM) ĐÃ ĐÁNH DẤU MỘT BƯỚC TIẾN QUAN TRỌNG TRONG LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI.

THỜI KỲ NÀY CON NGƯỜI ĐÃ NHẬN BIẾT, TẬN DỤNG VÀ SỬ DỤNG NHIỀU LOẠI NGUYÊN VẬT LIỆU TỪ ĐÁ, ĐẤT SÉT, SỪNG, XƯƠNG,
TRE, NỨA…ĐỂ LÀM CÔNG CỤ SẢN XUẤT. ĐẶC BIỆT HƠN, HỌ ĐÃ BIẾT LÀM GỐM, THUẦN DƯỠNG ĐỘNG VẬT, BIẾT TRỒNG CÂY, QUY
HOẠCH ĐỊNH CƯ THÀNH TỪNG NHÓM, DÂN SỐ THEO ĐÓ CŨNG TĂNG LÊN.
61
CÂU 10: ANH/CHỊ HÃY CHỨNG MINH VAI TRÒ LÀ NỀN TẢNG VÀ LÀ NGUỒN GEN NỘI SINH CỦA LỚP VĂN HÓA BẢN ĐỊA TRONG TIẾN
TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM.
61
CÂU 11: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM.
65
CÂU 12: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM.
70
CÂU 13: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT PHÁP THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1858 - 1945) ĐỐI VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM.
76


CÂU 14: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA, CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.
82
CÂU 15: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.
88


Câu 1: Nêu và phân tích nguồn gốc thuật ngữ văn hóa ở phương
Đông và phương Tây. Phân biệt khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn
vật. Phân tích định nghĩa văn hóa của UNESCO.
* Nguồn gốc thuật ngữ Văn hóa ở Phương Đông và phương Tây
- Phương Đông: Tại Trung Quốc, thời Xuân Thu (thế kỷ VI trước CN) trong
cuốn Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên
hạ/ Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ). Cụm từ này với nghĩa
như một phương thức giáo hóa, giáo dục con người: “Nhân văn giáo hóa”. Tiếp

đến là Lưu Hướng thời Tây Hán (Năm 77 - 6 TCN) dùng thuật ngữ văn hóa với
nghĩa đối lập với vũ lực (Phàm vì dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hóa
mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Văn hóa ở đây được hiểu là văn trị
giáo hóa, tổ chức, quản lý, cai trị xã hội bằng văn hoá
- Phương Tây: từ văn hóa bắt nguồn từ một động từ tiếng La - tinh
“cultus” sau chuyển thành “kultura”, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau từ
“kultura” chuyển thành “culture” (tiếng Anh), nghĩa là vun trồng,chăm sóc, bồi
dưỡng tinh thần, trí tuệ cho con người.
-> Mặc dù có những điểm khác nhau song “văn hóa” của phương Đông
hay “culture” của phương Tây đều có nội hàm chỉ hoạt động khai mở, vun trồng
trí tuệ và tâm hồn cho con người, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn.
* Phân biệt khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật.
- Văn minh: (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo đức, biểu
hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp, từ
civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có nguồn gốc từ tiếng La tinh là civitas
nghĩa là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân. Văn minh
chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng
cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại.
- Văn hiến: truyền thống văn hóa lâu đời. Đào Duy Anh giải thích “là sách
vở và nhân vật tốt trong một đời”. Văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do
những người có tài đức chuyên tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt.
1


- Văn vật: truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch
sử. Ví dụ “Hà Nội nghìn năm văn vật”. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ
những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Khái niệm văn vật
cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử.
* Phân tích định nghĩa văn hóa của UNESCO.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa

nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó
chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
Ta cũng có thể nói rằng khi Đức Chí Tôn tạo nên Càn Khôn Thế Giái,
Ngài đã ban cho vũ trụ một nền văn hoá riêng biệt. Mặt trời ban năng lượng cho
mọi sinh vật trên quả địa cầu. Quả đất quay chung quanh mặt trời mỗi năm với
bốn mùa đầy đủ nắng mưa, gió tuyết. Mặt trăng quay qyanh quả đất mỗi tháng.
Tất cả đều theo một mẫu mực tự nhiên của trời đất. Riêng các sinh vật, muôn
loài đều phát triển một nền văn hoá riêng biệt tuỳ theo môi trường nơi chúng
sinh sống. Ví dụ, người Việt Nam dưới sự cai trị tàn ác của tàu, đã phát triển tục
xâm mình để được an toàn khi phải lặn xuống biển mò trai. Và cũng theo ảnh
hưởng của Tàu, người Việt đã thắm nhuần triết lý Phật Lão Nho, tạo cho người
Việt một nền văn hoá đặc thù biết làm tròn bổn phận với bản thân mình, với gia
đình, với tổ quốc, và với nhân loại. Ngoài ra người Việt cũng có tinh thần của
Phật Lão thương yêu tất cả mọi chúng sanh.
Vì được thành hình do con người dưới ảnh hưởng của môi trường khác
nhau và nhân quả nghiệp chướng khác nhau, không có một nền văn hoá của dân
tộc nào giống với nền văn hoá của dân tộc nào, và không ai có thể phán đoán
rằng nền văn hoá này là tốt và nền văn hoá khác là xấu. Tất cả đều là tương đối.
Có khi một phong tục của một dân tộc được vô cùng trân trọng cao quí, thì đối
với phong tục của dân tộc khác lạ bị cho là dã man trái đạo. Ví dụ như tín đồ đạo
Jainism (một biến thể của Phật giáo) chủ trương sống loả thể đế trở về với sự tự
2


nhiên nguyên thuỷ thì lại bị phê phán (theo đạo Thiên Chúa, khi Đức Chúa Trời
tạo ra con người, Ông Adam và Bà Eva đâu có mặc quần áo mà vẫn sống một
cuộc đời trong sáng hạnh phúc ở thiên đàng). Trong khi họ sống ung dung loả
thể mà không có chút tà tâm, thì trái lại những kẻ mặc áo quần kín đáo chưa

chắc là không có tà tâm và dục vọng.
Vì rằng nền văn hoá được thành hình dưới ảnh hưởng của môi trường và
nghiệp quả, cho nên ta có thể nói rằng nền văn hoá không theo luật tự nhiên.
Luật tự nhiên là gì? Tự nhiên là sự vật tự nó xảy không bị bất cứ ảnh hưởng nào,
từ bất cứ nơi nào.
Vì rằng vũ trụ vận hành gần như không thay đổi từ muôn ngàn năm, ta có
thể cho rằng nền văn hoá của vũ trụ theo đúng mẫu mực tự nhiên. Còn nền văn
hoá của muôn vật ở thế gian, lúc nào cũng bị ảnh hưởng từ muôn phía và thay
đổi không ngừng. Có khi nền văn hoá càng ngày càng đồi truỵ với thời gian, có
khi nền văn hoá càng ngày càng trở nên tốt đẹp. Làm sao có thể bảo rằng nền
văn hoá nào không theo đúng mẫu mực tự nhiên. Những mẫu mực này là gì?
Nếu cho rằng mẫu mực tự nhiên được qui định bởi đấng tạo hoá, ví dụ như trong
vũ trụ, những tinh cầu được tạo thành theo mẫu mực qui định thế nào mà muôn
đời muôn kiếp, trái đất xoay vần chung quanh mặt trời một cách đều đặn với bốn
mùa xuân hạ thu đông, thì mẫu mực tự nhiên cho chúng sanh là gì? Có phải
chăng đây là định luật của trời đất? Có phải chăng đây là tình thương yêu và sự
công bình? Nếu tất cả mọi chúng sanh trên thế gian này tuân theo mẫu mực trên
của trời đất thì tất cả nền văn hoá đều tốt đẹp, dù ở trong bất cứ môi trường nào,
hay nghiệp quả nào (nếu theo đúng mẫu mực này thì sẽ không còn nghiệp quả).
Đây là trường hợp vô cùng lý tưởng mà chúng ta chưa được thấy ở thế gian này.
Trái lại chúng ta lại chứng kiến nền văn hoá đổi thay tạo nên bao cảnh
tang thương nơi trần thế. Như vậy chúng ta có thể nói rằng nền văn hoá đã
không thích hợp với tự nhiên? Nếu con người không theo mẫu mực ở trần gian
tức là sự thương yêu và sự công bình, và gây nên bao đổi thay của nền văn hoá,
thì ít nhất những nền văn hoá này cũng có chịu ảnh hưởng thiêng liêng, hay là
3


thiên điều tức là luật công bình của trời đất biểu hiện dưới hình thức của luật
nhân quả. Và như vậy, nền văn hoá này chung qui cũng được thành hình theo

mẫu mực tự nhiên tức là nhân quả nghiệp chướng.
Nói như vậy, chúng ta có thể nghĩ rằng, dù nền văn hoá có bị đổi thay
cách nào đi nữa, các nền văn hoá không bao giờ ra khỏi luật tự nhiên, tức là luôn
luôn được đấng tạo hoá an bày theo đúng luật tự nhiên là tình thương yêu và sự
công bình (nhân quả nghiệp chướng).
Câu 2: Phân tích các đặc trưng và chức năng của văn hóa theo quan
điểm của Trần Ngọc Thêm
Theo Trần Ngọc Thêm văn hóa có 4 đặc trưng cơ bản: tính nhân sinh, tính
lịch sử, tính giá trị và tính hệ thống.
* Tính nhân sinh
- Là đặc trưng cơ bản của văn hóa vì VH do con người sáng tạo ra trong
quá trình hoạt động thực tiễn. Văn hóa là đặc trưng của nhân loại, là dấu hiệu
quan trọng để phân biệt giữa con người với các động vật cao cấp khác.
- Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội
do con người sáng tạo với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên được biến
đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật
chất (luyện quặng, đẽo gỗ) hoặc tinh thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho
các cảnh quan thiên nhiên).
* Tính lịch sử
Văn hóa do con người sáng tạo ra trong một quá trình lịch sử lâu dài và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một
bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa phải thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại và phân bố lại các giá trị, đồng thời phải luôn biến đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh mới và điều kiện mới. Vì vậy văn hóa còn có tính khả biến.
Tính khả biến của văn hóa được thể hiện ở mọi cấp độ, từ vi mô đến vĩ mô; từ
chủ thể sáng tạo đến chủ thể nhận thức. Tính lịch sử cũng cho phép phân biệt
4


văn hóa như sản phẩm của một quá trình tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh

như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra sự phát triển của từng giai đoạn.
* Tính giá trị
Văn hóa theo nghĩa đen là “trở thành đẹp, thành có giá trị”, văn hóa phải
là những sản phẩm có giá trị mang lại lợi ích cho con người.
- Culture (tiếng Anh): Vun trồng tâm hồn con người
- Văn hóa: “văn” = vẻ đẹp. “hóa” = trở thành, biến thành, đem cái đã
được đúc kết ấy hóa thân trở lại cuộc sống, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ
nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia
thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ
cho nhu cầu tinh thần); theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo
đức và giá trị thẩm mỹ; theo thời gian có thể phân biệt giá trị vĩnh cửu và giá trị
nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn
biện chứng và khách quan trong việc đánh giá lại tính giá trị của sự vật hiện
tượng, tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán
dương hết lời. Vì vậy mà về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị
nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một
hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan
giữa các mức độ giá trị và phi giá trị của nó. Về mặt lịch đại, cùng một hiện
tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng
giai đoạn lịch sử. Ví dụ, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo,
các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn...ở Việt Nam.
Muốn xác định được giá trị văn hóa còn cần phải dựa vào bộ công cụ là
hệ tọa độ 3 chiều mà trong đó văn hóa tồn tại: Con người - Chủ thể văn hóa;
Môi trường tự nhiên và xã hội - Không gian văn hóa; Quá trình hoạt động –
Thời gian văn hóa. Việc cụ thể hóa 3 thông số này giúp ta định vị được giá trị
của các nền văn hóa, vùng văn hóa và những biến thể văn hóa khác nhau. Trong
hệ tọa độ gốc thì một sản phẩm văn hóa do con người tạo ra chắc chắn có giá trị,
5



nhưng khi dịch chuyển một trong 3 thông số trong hệ tọa độ (C - K - T) thì sản
phẩm văn hóa đó có khi trở thành phi giá trị. Do vậy, muốn xác định giá trị của
một hiện tượng văn hóa phải xem xét trong hệ tọa độ C - K - T. Ví dụ tục ăn trầu
là nét đẹp của người Việt truyền thống nhưng lại là phi giá trị đối với người châu
Âu.
- Một là trục nhận thức: tức là trình độ nhận thức và thế giới quan của
con người trong cộng đồng ấy. Nhận thức là những tri thức được thể hiện qua
những kinh nghiệm, những lý thuyết mà con người ở đó đúc kết.
- Hai là trục giá trị: ở đây cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và xem xét xem
cái gì đã hấp dẫn con người ở đó khiến họ hành động, hướng tới, tiền bạc hay
đạo đức, thẩm mĩ v.v...
- Ba là hệ điều tiết, được thể hiện qua những mệnh lệnh, luật pháp, chế
định... khiến con người ở đây phải làm cái này mà không được làm cái khác.
* Tính hệ thống
Văn hóa là một cấu trúc gồm nhiều thành phần. Mọi hiện tượng, sự kiện
thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau, xâm nhập vào nhau,
làm nền tảng, cơ sở cho nhau chứ không phải là sự lắp ghép. Tính hệ thống giúp
phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc một
nền văn hóa, phát hiện những đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển
của nó.

6


Câu 3: Phân tích tác động của điều kiện tự nhiên lên văn hoá Việt
Nam. Liên hệ với địa phương anh/chị.
* Không gian văn hóa Việt Nam
- Văn hoá của một cộng đồng bao giờ cũng sinh ra, tồn tại,vận động và
phát triển trong một không gian, thời gian xác định với tất cả tính thống nhất

trong sự đa dạng, phức tạp của nó. Cái không - thời gian ấy chính là môi trường.
Chữ môi trường được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau, với nhiều cấp độ
khác nhau. Với nghĩa phổ quát nhất, người ta chia môi trường ra làm hai loại:
Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Muốn xem xét một thực thể, một
hiện tượng văn hoá phải đặt vào hai toạ độ ấy mới thấy hết được quá trình cũng
như bản chất, quy luật, đặc điểm, tính chất của chúng.
- Không gian văn hóa liên quan đến lãnh thổ nhưng không đồng nhất với
không gian lãnh thổ. Nó bao quát tất thảy những vùng lãnh thổ mà ở đó dân tộc
đã tồn tại qua các thời đại. Do vậy không gian văn hóa bao giờ cũng rộng hơn
không gian lãnh thổ; không gian văn hóa của hai dân tộc ở cạnh nhau thường có
phần chồng lên nhau, có miền giáp ranh.
-Trong phạm vi hẹp, không gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu
vực cư trú của người Bách Việt. Có thể hình dung nó như một hình tam giác với
cạnh đáy ở sông Dương Tử, và đỉnh là Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đây là cái nôi
của nghề nông nghiệp trồng lúa nước, của nghệ thuật đúc đồng với những trống
đồng Đông Sơn nổi tiếng. Đây cũng là bờ cõi đất nước của họ Hồng Bàng theo
truyền thuyết. Ở một phạm vi rộng hơn, không gian văn hóa Việt Nam nằm
trong khu vực cư trú của người Indonésien lục địa. Có thể hình dung nó như một
tam giác với cạnh đáy vẫn là sông Dương Tử, còn đỉnh là vùng đồng bằng sông
Mê Kông ở phía Nam. Đây là khu vực được tạo nên bởi hai con sông lớn cùng
bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng: Dương Tử Giang và Mê Kông. Như vậy, xét
từ trong cội nguồn, không gian văn hóa VN vốn được định hình trên nền của
không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á. Vì vậy đã tạo nên sự thống nhất cao
độ của vùng văn hóa Đông Nam Á. Do vị trí đặc biệt của mình, Việt Nam là nơi
7


hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hóa khu vực, được các nhà
Đông Nam Á học ví như một Đông Nam Á thu nhỏ.
Vùng Đông Nam Á theo cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (GS. Trần Quốc

Vượng chủ biên, Nxb Giáo dục, HN, 1998) nó rộng hơn nhiều so với vùng Đông
Nam Á theo quan niệm của các nhà địa lý hiện đại. Bởi lẽ hiện tại vùng Đông
Nam Á có 10 nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, Malaixia,
Inđônêxia, Philippin, Brunây, Xinhgapo. Nhưng ở vào thời tiền sử, vùng Đông
Nam Á là vùng đất có ranh giới phía bắc tới bờ sông Dương Tử (Trung Quốc),
phía nam đến tận quần đảo Nam Dương (Inđônêxia), phía tây đến tận quần đảo
Át Xam của Ấn Độ, phía đông là cả một thế giới bán đảo và đảo nằm cạnh châu
Đại Dương. Dựa vào cứ liệu của các ngành nhân loại học, dân tộc học, ngôn
ngữ học, ngành khoa học nhân văn đã xác định được vùng Đông Nam Á có một
cơ tầng văn hóa riêng biệt, phi Hoa, phi Ấn.
* Vị trí địa lý
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực ĐNA.
Điều này làm cho văn hóa VN mang những nét đặc trưng nhất của văn hóa Đông
Nam Á, một Đông Nam Á thu nhỏ: Nền văn hóa lúa nước, thuần hóa trâu bò
làm sức kéo, giao thông bằng đường thủy với phương tiện chủ yếu là thuyền bè,
ở nhà sàn, ăn cơm, thờ nhiều vị thần (tín ngưỡng đa thần). Đây cũng là vị trí
giao điểm của các nền văn hóa lớn, “là ngã tư đường của các cư dân và các nền
văn minh” (Olov Janse) khiến cho văn hóa VN chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của
một số nền văn hóa đứng ở bậc nhất thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ).
* Địa hình
Địa hình Việt Nam trải dài (khoảng 15 vĩ độ), đồi núi chiếm 3/4 diện tích.
Sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp. Đồng bằng nhỏ hẹp, chỉ chiếm một tỉ lệ
khiêm tốn (chưa đến 1/4 diện tích). Bao quanh hướng Đông và Nam là bờ biển
dài (khoảng 3.260km), kéo ra suốt dọc chiều đất nước. Có thể khái quát địa hình
Việt Nam dài Bắc - Nam, hẹp Tây - Đông; đi từ Tây sang Đông có núi - đồi -

8


thung - châu thổ - ven biển - biển và hải đảo. Đi từ Bắc vào Nam là các đèo cắt

ngang Tây Đông.
Chính yếu tố địa hình này tạo cho VHVN trở nên rất đa dạng, có đầy đủ
yếu tố văn hóa của rừng, núi, đồng bằng, sông nước và biển đảo, đồng thời lại
phân thành các tiểu vùng văn hóa, mỗi vùng có những đặc trưng văn hóa riêng.
* Khí hậu
Việt Nam có lượng bức xạ mặt trời rất lớn với số giờ nắng từ 1.400 3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000 mm. Độ ẩm
không khí trên dưới 80%. Do ảnh hưởng gió mùa và sự phức tạp về địa hình nên
Việt Nam thường gặp bất lợi về thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán. Miền Bắc có 4
mùa xuân, hạ, thu, đông. Miền Nam có 2 mùa: mùa khô và mùa mưa.
Vì vậy đã tác động mạnh đến văn hóa VN:
- Hình thành và phát triển hệ sinh thái thực vật phồn tạp với số giống loài
và số cá thể rất cao, thực vật phát triển hơn động vật (động vật dễ bị dịch bệnh
do nhiệt ẩm, gió mùa). Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho một nền nông nghiệp
nguyên thủy từ rất sớm dẫn đến nền nông nghiệp lúa nước.
- Hình thành một chu kỳ sản xuất theo mùa vụ, làm lối sống của người
dân cũng được thiết kế quay vòng theo chu kỳ này.
- Khí hậu của Việt Nam thất thường, thường xuyên xảy ra thiên tai như
bão lụt, hạn hán tạo cho người Việt Nam tinh thần đoàn kết cao và tính cộng
đồng rất mạnh để phòng chống thiên tai (đắp đê phòng lũ, đào mương dẫn nước
tưới tiêu, chống hạn). Khí hậu cũng góp phần làm cho người Việt đúc rút được
những kinh nghiệm ứng phó, quan sát dự báo thời tiết (thể hiện qua nhiều câu
tục ngữ, ca dao) phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt, mặt khác sớm hình thành tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên, và có tâm lý trông chờ, ỷ lại, phụ thuộc vào tự nhiên.
- Khí hậu còn tác động mạnh đến việc bố trí nhà cửa, ăn, mặc của con
người ở từng vùng khác nhau làm cho con người từng vùng đều có những
phương thức ứng xử riêng, tạo ra những đặc trưng văn hóa riêng.
* Tài nguyên động thực vật và đất đai
9



- Hệ đất đai đa dạng phong phú cộng với nền khí hậu nhiệt đới ẩm tạo cho
văn hóa VN có đặc trưng là văn hóa nông nghiệp thiên về trồng trọt (cốt lõi là
cây lúa nước), quy mô nhỏ hẹp với mô hình sản xuất đặc trưng là mô hình gia
đình tiểu nông (Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi
bừa - Ca dao).
- Mỗi vùng miền có chất đất, thổ nhưỡng khác nhau tạo cho Việt Nam có
những loài cây đặc trưng cho mỗi vùng khác nhau. Ví dụ cây tre ở miền Bắc,
cây dừa ở miền Nam, cây nhã lồng ở Hưng Yên, cay vải thiều ở Thanh Hà (Hải
Dương), cây cà phê, cao su ở các tỉnh Tây Nguyên.
* Sự đa dạng của môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên là yếu tố góp phần
tạo nên sự đa dạng văn hóa. Trong vô vàn yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày
của con người từ góc độ tự nhiên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước hầu như
đều nêu bật hai tính trội của văn hóa Việt Nam truyền thống: sông nước và thực
vật. Ví dụ mái đình của người Việt có hình dáng cong mềm mại chính là mô phỏng
con thuyền úp ngược, hoặc trong đám tang của người Việt có điệu chèo đò đưa
linh, một đặc điểm của cư dân sông nước. Người Việt giỏi thủy chiến, có những
chiến thắng vang dội trên sông nước (chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và thời nhà
Trần thế kỷ XIII), yếu tố nước còn được thể hiện trong cách ứng xử linh hoạt, mềm
dẻo của người Việt; người Việt còn gọi quốc gia của mình là nước. Về thực vật
được thể hiện rất rõ trong cơ cấu bữa ăn, các nguyên liệu để làm nhà cửa và các
vật dụng trong sinh hoạt, sản xuất, chiến đấu, tín ngưỡng thờ cây...
* Quy luật tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên: được biểu
qua qua các mặt: tận dụng tự nhiên, ứng phó với tự nhiên, thích nghi và biến đổi tự
nhiên, ứng xử với tự nhiên. Văn hóa suy cho cùng là sự ứng xử của con người với
môi trường tự nhiên, là thiên nhiên thứ hai được sáng tạo bởi con người. Trước
những điều kiện tự nhiên khác nhau, con người đều có những phương thức ứng xử
khác nhau để thích nghi, mưu sinh, tồn tại. Chính điều kiện tự nhiên đã làm nên sự
khác biệt giữa các nền văn hóa.

10



Câu 4: Phân tích tác động của đặc điểm tư duy và tâm linh lên văn
hóa Việt Nam.
* Đặc điểm tư duy
- Người Việt có lối tư duy cảm tính, duy tình, (khác với Ấn Độ là duy
linh, Trung Hoa duy chí, Phương Tây duy lý), tổng hợp biện chứng nhưng đơn
giản, thiếu đầu óc tư duy phân tích, thiếu tầm nhìn xa mang tính chiến lược. Vì
vậy trong văn hóa Việt Nam cổ truyền không có các phát minh khoa học lớn, các
trường phái triết học, nhà triết học. Bù lại, người Việt có một nền văn học dân
gian với số lượng ca dao, tục ngữ rất phong phú, đúc kết những kinh nghiệm của
con người trong quan sát tự nhiên, trong sản xuất, sinh hoạt và ứng xử xã hội.
+ Kinh nghiệm nhận biết các hiện tượng tự nhiên: “Chớp đông nhay nháy,
gà gáy thì mưa”, “Được mùa lúa úa mùa cau, được mùa cau đau mùa lúa”, “Ong
về mần nhiều, liệu chiều kiếm củi”, “Ong vàng làm thấp, bão sấp bão
ngửa”(trung du, miền núi)
+ Kinh nghiệm sản xuất: trồng trọt (“Chiêm cập cợi, mùa đợi nhau”, “Một
gầu nước tát không bằng một bát nước mưa”, “Phân gio không bằng no nước”,
“Công bón phân là công bỏ, công làm cỏ là công ăn”...); kinh nghiệm chăn nuôi
(vd chọn trâu “Mắt bánh rán, trán bánh chưng, lưng tôm càng”, “Chó giống cha,
gà giống mẹ”, “Lợn thả, gà nhốt” “Trâu gầy cũng tày bò giống”, “Đuốm đầu,
đượm đuôi, không nuôi cũng nậy (lớn). “Lông thưa, môi thừa, nuôi vừa cũng
tốt”, “Heo đực, chuộng phệ, heo sề chuộng chỗm”. (Chọn giống lợn)
Kinh nghiệm đánh bắt thủy sản: (Vd “Tôm chạng vạng, cá rạng đông”)
+ Ứng xử xã hội: kinh nghiệm nhận biết con người “Nhìn mặt mà bắt hình
dong/Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon”; nhận biết các mối quan hệ xã hội: “Rút
dây động rừng”…
- Tư duy ứng xử duy tình dẫn đến hệ quả giải quyết mâu thuẫn không triệt để,
tâm lý “bằng mặt không bằng lòng”.
* Đặc điểm về tâm linh

11


Tính đa dạng trong đời sống tâm linh
Người Việt Nam có một đời sống tâm linh hết sức đa dạng, phong phú,
có nhiều tín ngưỡng khác nhau và thờ nhiều vị thần khác nhau - tín ngưỡng đa
thần. Một trong những nguyên nhân xuất hiện nhiều tín ngưỡng và các vị thần
linh là do con người chịu tác động của nhiều hiện tượng tự nhiên và phải đối phó
với các hiện tượng tự nhiên đó dẫn đến sự sùng bái tự nhiên. Mặt khác, Việt
Nam là một quốc gia đa tộc người, mỗi tộc người lại thờ những vị thần linh khác
nhau. Trong quá trình giao lưu văn hóa, Việt Nam cũng tiếp thu được nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài. Điều đó làm cho bức tranh tâm
linh của Việt Nam rất đa dạng phong phú.
Các tín ngưỡng dân gian tiêu biểu
* Tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống mà con người tin vào để giải
thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và mọi người trong cộng
đồng. Tín ngưỡng dân gian là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu
nhiên, coi vạn vật hữu thần, thần thánh có sức mạnh siêu phàm, thống trị cuộc
sống con người, có liên quan đến tôn giáo nguyên thủy nhưng không phải là
tôn giáo.
Tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian, tín ngưỡng có tổ chức không
chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín
ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn
giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ
thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời
rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo.
Cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con
người vào những cái “siêu nhiên” hay gọi là “cái thiêng” cái đối lập với cái “trần
tục”, cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào “cái
thiêng” thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con

người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con

12


người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời
sống tình cảm...
* Các tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của người Việt
- Tín ngưỡng phồn thực: (phồn = nhiều; thực = nảy nở). Bản chất của tín
ngưỡng phồn thực là khát vọng cầu mong về sự sinh sôi nảy nở của con người
và tạo vật, một đặc trưng văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Biểu
hiện của tín ngưỡng phồn thực:
+ Thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí. Đây là hình
thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực, nó phổ biến ở các nền văn hóa nông
nghiệp.
+Thờ hành vi giao phối: Hình 4 đôi nam nữ giao phối trên nắp thạp đồng
Đào Thịnh (Yên Bái). Hình chim, thú, cóc giao phối được tìm thấy ở khắp nơi.
Trong nghệ thuật tranh dân gian có hai bức tranh phảng phất hình bóng của tín
ngưỡng phồn thực là bức hứng dừa và bức đánh nghen. Điêu khắc đình làng của
một số ngôi đình như đình Đông Viên (Ba Vì, Hà Nội), đình Phùng (Đan
Phượng, Hà Nội), đình Thổ Tang (Phú Thọ), đình Đệ Tứ (Nam Định) còn chạm
hình nam nữ đùa giỡn nhau khi tắm ở hồ sen, hay đùa giỡn nhau với cơ thể trần,
đầy gợi cảm. Ngoài ra còn có thể kể đến các nghi thức và lễ hội mang tính chất
phồn thực: điệu múa “tùng dí” ở, trò bắt trạch trong chum, trò múa phủ gà ở làng
Văn Trưng (Vĩnh Phúc), trò đánh đu, tục giã cối đón dâu v.v...
Ngày nay, qua biến thiên của lịch sử, tín ngưỡng phồn thực đã trở thành
thứ trầm tích văn hóa trong văn hóa Việt Nam.
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
- Tín ngưỡng thờ Mẫu
- Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng

- Tín ngưỡng thờ tổ nghề
* Các tôn giáo du nhập
- Định nghĩa: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình,
mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại
13


một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới
bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ
lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn
giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của
từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.(xem bảng so sánh tín ngưỡng và tôn
giáo)
- Trong quá trình giao lưu với các nền văn hóa trên thế giới, VHVN còn
tiếp thu nhiều tôn giáo: Phật giáo và Bàlamôn(Hinđu), tiếp thu Đạo giáo, Cơ đốc
giáo. Trên nền tảng tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo du nhập, người Việt còn
sáng tạo ra những tôn giáo mới: Cao Đài, Hòa Hảo (Tây Ninh)
Ở Việt Nam hiện có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi
giáo, Cao Đài, Hoà Hảo.
Câu 5: Phân tích vai trò của tín ngưỡng thờ thành hoàng làng trong
đời sống tâm linh người Việt.
Thành hoàng làng (Thành hoàng) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ
trong một làng xã Việt Nam. Giống như Táo công và Thổ công, Thành hoàng cai
quản và quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ở đình làng. Do
vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi thị thành) đều lập đình (hoặc đền,
miếu) thờ vị Thành hoàng của làng hay phường hội. Thành hoàng là người có
công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của
nghề).
Tục thờ thành hoàng hay thần hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn
hóa Trung Hoa truyền sang từ thời Đường. Tuy nhiên theo Phan Kế Bính thì

trước đó nhân dân ta cũng đã có những tín ngưỡng dân gian rồi. Sau khi du nhập
vào làng xã Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông
dân Việt, trở nên hết sức đa dạng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Tôn thờ Thành hoàng làng chính là một nhu cầu tâm lý, người dân thờ Thành
hoàng làng để phục vụ cho hiện thực cuộc sống, là chỗ dựa tinh thần không thể
thiếu được, là phương tiện, là động lực thúc đẩy sản xuất và ổn định cuộc sống.
14


Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh
thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất. Họ là vị thần tối linh,
có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho
dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho
cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng. Thành hoàng
cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng
thờ một thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng thờ
một vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.Đó có
thể là một vị thần như Phù đổng Thiên vương, thần núi như Tản Viên Sơn thần,
thần có công với dân với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu,
Dã Tượng... lại có khi là các yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng,
nhiều khi có vẻ vô lý. Đã là thành hoàng làng thì đại bộ phận có một lý lịch ghi
thành văn bản gọi là thần tích hoặc thần phả, ngọc phả, phả lục v.v.. Những thần
tich đó vừa là bằng chứng của tín ngưỡng dân gian, vừa là một thành phần của
nền văn hoá dân gian. Nói cách khác, thần tích mà hiện nay còn lại chính là một
sở hữu đồng thời một sáng tạo văn hoá phi vật thể của dải đất ngàn năm văn vật.
Nó là tâm hồn, tư duy, là trí tưởng tượng, là quan niệm về vũ trụ và nhân sinh
của bao thế hệ cư dân .
Đại đa số sự tích về Thành hoàng làng đều là những truyền thuyết, sau
này những truyền thuyết ấy được các địa phương chú trọng và trở thành văn bản
chính thức được Nhà nước công nhận, từ đó đã ra đời các Thần tích, Thần phả,

Sắc phong. Thành hoàng làng có nhiều nguồn gốc, có thể là nhân thần, có thể là
nhiên thần, nhưng tựu trung lại là các vị thần đã được lịch sử hóa hay huyền
thoại hóa.
Nhưng có khi Thành hoàng chỉ là một người dân mà theo quan niệm, là
người được các vị thần ban cho sứ mệnh để sau này thay họ cai quản làng xã,
được gọi là Thành hoàng sống.
Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến
cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ
15


Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn
kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất nề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các
hương chức cũng như các gia đình trong làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ
chức việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trước. Dường như sự
ngưỡng mộ thành hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối với tổ
tiên của họ.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng thường được thể hiện trong các lễ hội
xuân hoặc Tết cổ truyền. Vào mùa xuân, mùa bắt đầu của một năm mới, khi mưa
bụi dát lên những nụ đào, nụ mận lớp áo mỏng manh óng ánh màu xanh bạc
cũng là lúc mùa lễ hội diễn ra. Lễ hội, nhất là lễ hội thờ Thành hoàng làng thực
chất là chiếc cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, là sự giao lưu văn hoá giữa các
làng xóm với nhau, là nét văn hoá đặc trưng trong sinh hoạt văn hoá làng, là sự
kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể-thờ Thành
hoàng làng trong tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của người dân.
Đình làng là nơi thờ phụng thành hoàng và trở thành một biểu tượng văn
hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có đình, có khi mỗi
thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ thành hoàng nhưng đồng thời cũng trở
thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng
làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của thành

hoàng.
Trong tâm thức người dân quê Việt, Đức thành hoàng là vị thần tối linh,
có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho
dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng
thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của
một làng qua những cơn chìm nổi.
Có thể cho rằng, thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã
không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất
của dân làng. Cho nên sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng
luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng.
16


Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và nở rộ ở khắp nơi. Tục
thờ cúng thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang được phục hồi, vì
có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với làng.
Hàng năm, ngày giỗ Thành hoàng là ngày hội đông vui nhất của làng, của
phố. Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ
như diễn lại sự tích về Thành hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ,
chọi gà, thổi cơm thi, bơi chải, đánh đu, đánh cờ người, hát chèo, diễn tuồng...
Không khí vui vẻ cả ngày lẫn đêm (có nơi hai, ba ngày), từ các lão ông, lão bà
đến mỗi cháu bé, và chờ đợi nhất, vui nhất là những trai gái đương lứa, đây là
dịp để gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đem
lại cho người dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng những biểu
hiện sinh hoạt văn hoá truyền thống. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá
là trách nhiệm của mỗi người và cũng là để góp phần xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở
thành một chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn

chìm nổi.

Câu 6: Phân tích vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống tâm
linh người Việt.
Tín ngưỡng thờ Mẫu được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là dạng
hình thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ – Tứ phủ, hình thức thờ cúng
những vị Mẫu cai quản trong vũ trụ.
Khi xã hội phát triển toàn diện thì cuộc sống của nhân dân lao động cũng
không ngừng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt. Trong đó, tín ngưỡng cũng
trở nên không thể thiếu được đối với một bộ phận cư dân có nhu cầu trong đời

17


sống tâm linh của họ. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là một nhu cầu thuộc đời sống
tinh thần của một số người.
Từ việc nghiên cứu khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của tín
ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ đã cho thấy vai trò của phần “lễ” và phần
“hội” trong xã hội ngày nay là là rất to lớn. Ngoài việc chấn hưng nền văn hóa
dân tộc, nó còn lưu truyền những tinh hoa văn hóa giàu bản sắc địa phương, có
tính chất vùng miền…vốn có từ xa xưa do cha ông để lại cho con cháu sau này.
Nó giúp cho thế hệ con cháu đời sau nhớ về cội nguồn lịch sử dân tộc, ca ngợi
Mẹ khởi thủy, Mẹ dạy nghề. Bởi vì các Mẹ là anh hùng văn hóa, anh hùng dân
tộc. Ý thức về cộng đồng cũng được củng cố thêm trong lễ hội của tín ngưỡng
thờ Mẫu.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, cái đẹp của lễ hội là đề cao và khuyến khích
chính những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng được thể hiện qua các nhân vật
được cử lễ. Các hình tượng nhân vật trong tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh
hoa và thể hiện khát vọng của cộng đồng tích tụ lại trong đấy mà thôi.
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là chỗ dựa tâm

linh cho một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo thứ tín ngưỡng này. Ngoài ra,
lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn mang tính thiêng liêng, phản ánh tình cảm,
sự ngưỡng mộ về vai trò của người mẹ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp liên kết mọi người, thậm chí
vượt ra khỏi giới hạn của tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự cục bộ địa phương
để cùng hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất. Nó còn
phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong các mối quan hệ xã hội.
Biểu tượng của các Mẫu được thờ ở đồng bằng Bắc bộ bao giờ cũng mang
một ý chí kiên cường, sức mạnh tổng hợp để chiến thắng giặc ngoại xâm, thiên
tai nhằm xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây chính là nét đẹp truyền thống của
người Việt Nam. Vai trò và ảnh hưởng của tín ngưỡng và lễ hội trong tín ngưỡng
thờ Mẫu còn được thể hiện qua cách ứng xử, tấm lòng, tâm hồn thật đẹp của các

18


nhân vật được tôn thờ, nhất là những cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam là một
biểu tượng cần được đề cao và luôn ghi nhớ.
Thực tế, khi một ai đó bước chân vào những nơi thờ tự họ đều nghĩ rằng
đây là chốn linh thiêng. Cho nên, tín ngưỡng có thể khơi dậy tính lương thiện và
bản chất chân thành của con người vì họ muốn thể hiện sự tốt đẹp của mình
trước những vị thần linh.
Khi con người tin vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào đó thì người
ta tin rằng với không gian và thời gian linh thiêng đó, mọi lời cầu xin sẽ được
thiêng hóa vì đã có các thánh chứng giám. Họ tin vào điều đó, có thể đời họ
chưa thực hiện được, nhưng đời con cháu họ sẽ đạt được. Trong chiều sâu tâm
thức của con người, niềm tin đã đánh thức và thúc giục họ đến một nhu cầu hiện
thực hóa những đối tượng họ tin dưới dạng lý tưởng nhất. Mặt khác, người Việt
luôn tâm niệm rằng con cái được hưởng phúc từ người mẹ nên có câu “phúc đức
tại mẫu”. Vì vậy tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp một phần vào việc giáo dục và

hướng con người đến với Chân – Thiện – Mỹ.
Hình ảnh người Mẹ trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng là người Mẹ có công
sinh thành và nuôi dưỡng đàn con:
Một lòng thờ Mẹ, kính Cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Và tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là một loại hình tín ngưỡng
dân gian gắn liền với tập tục, truyền thống văn hóa đạo đức của người Việt Nam.
Câu 7: Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại
sinh trong giao lưu văn hóa.
Trong giao lưu văn hóa, yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh luôn tương
tác lẫn nhau và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nội sinh là yếu tố được sản
sinh ra, tồn tại trong lòng một nền văn hóa của một cộng đồng người nhất định
trước khi có tiếp xúc, tác động của các nền văn hóa khác từ bên ngoài tính đến
thời điểm giao lưu. Ngoại sinh là yếu tố văn hóa của một nền văn hóa khác du
19


nhập từ bên ngoài vào. Xét về mặt mặt logic yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại
sinh có các mối quan hệ sau đây:
- Yếu tố ngoại sinh từ bên ngoài du nhập vào và thay thế hoàn toàn yếu tố
nội sinh tương đương tạo ra sự thay đổi mới lạ trong nền văn hóa. Ví dụ: Tục
nhuộm răng đen của người Việt, khi tiếp xúc, giao lưu với văn hóa Pháp đã bị
mất đi, thay vào đó là việc để răng trắng. Trang phục áo the khăn xếp của nam
giới và áo tứ thân của phụ nữ cũng được thay thế thành những bộ Âu phục.
- Yếu tố ngoại sinh du nhập vào và được chấp nhận tồn tại song song với
yếu tố nội sinh tạo ra những biến đổi trong nền văn hóa, làm cho nền văn hóa
phong phú, đa dạng hơn.Ví dụ1: Trong từ vựng tiếng Việt tồn tại rất nhiều từ
Hán - Việt, vốn là các từ được du nhập từ nền văn hóa Trung Quốc, khi được
đưa vào sử dụng chúng vẫn song song tồn tại cùng với từ gốc bản địa như các từ
đồng nghĩa và chỉ phân biệt với nhau bằng văn phong.(Tân = mới; cố = cũ; thủy

= nước; thanh = xanh; hồng = đỏ, hải = biển, hằng = trăng v.v...). Ví dụ 2: Màu
trắng trong tang lễ truyền thống của người Việt và màu đen trong tang lễ của
phương Tây vẫn tồn tại song song trong tang lễ của người Việt.
- Yếu tố ngoại sinh du nhập vào cùng với yếu tố nội sinh tạo ra một yếu
tố văn hóa mới.Ví dụ 1: Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của người Việt kết hợp
với Phật giáo là yếu tố văn hóa ngoại sinh tạo ra tục thờ Tứ pháp. Ví dụ 2: Chữ
Nôm.
- Không có yếu tố nội sinh tương đương nhưng vẫn được chấp nhận tồn
tại như một yếu tố mới của nền văn hóa. Ví dụ: Các tôn giáo Phật Giáo, Nho
Giáo, Đạo Giáo được du nhập vào Việt Nam

20


Câu 8: Phân tích tác động của đặc điểm lịch sử đến văn hóa Việt
Nam.
Đặc điểm nổi bật của Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm
lược phương Bắc và mở rộng bờ cõi về phía Nam. Đặc biệt, chống xâm lược
luôn là yếu tố nổi lên hàng đầu. Tổng kết 20 thế kỷ thì Việt Nam đã có tới 12 thế
kỷ là thời gian chiến tranh chống giặc ngoại xâm (Giáo sư Trần Quốc Vượng
cho rằng người Việt có một đặc điểm nổi bật là dung hòa và chấp nhận mọi yếu
tố văn hóa bên ngoài, hay còn gọi là văn hóa không chối từ, chỉ có từ chối duy
nhất việc xâm lược của ngoại bang). Bên cạnh đó còn có nhiều cuộc xung đột,
chiến tranh với Chăm Pa, Ai Lao và Cao Miên. Về đối nội, cũng có những cuộc
nội chiến phân tranh, đáng kể nhất là những cuộc chiến tranh Lê - Mạc, Trịnh Nguyễn, Nguyễn Ánh - Tây Sơn. Rất nhiều cuộc bạo động và khởi nghĩa nông
dân cũng đã bùng nổ, lớn nhất là phong trào khởi nghĩa nông dân giữa thế kỷ
XVIII và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đặc điểm lịch sử đó đã tác động, chi phối
mạnh mẽ lên văn hóa Việt Nam trên nhiều khía cạnh văn hóa vật thể và phi
vật thể:
- Chiến tranh đã làm hao tổn quá nhiều thời gian và sức lực trong các cuộc

kháng chiến làm cho người Việt có quá ít thời gian tập trung vào việc xây dựng
hòa bình, xây dựng kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Vì vậy, trong tâm thức,
người Việt rất muốn có hòa bình, có tâm lý hiếu hòa và hòa giải xã hội. Mặt
khác những cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng rèn luyện, hun đúc và hình
thành nên lòng yêu nước nồng nàn, tính cộng đồng và tinh thần đoàn kết chặt
chẽ bên trong để chống lại kẻ thù bên ngoài. Nó cũng rèn luyện cho sự đề kháng
văn hóa, tạo nên một bản sắc và bản lĩnh văn hóa mạnh, bất khuất trước mọi thế
lực cường quyền.
- Trong tiến trình lịch sử và quá trình chống giặc ngoại xâm, người Việt đã
hình thành nên nghệ thuật chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích, đó vừa là
bài học, là kinh nghiệm lịch sử đồng thời là yếu tố văn hóa quân sự mang tính
bản sắc của Việt Nam, đảm bảo cho sự thắng lợi của các cuộc kháng chiến.
21


- Lịch sử chống giặc ngoại xâm cũng góp phần tạo ra tín ngưỡng thờ anh
hùng dân tộc của Việt Nam, những người có công lao đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Ví dụ Trần Hưng Đạo là danh tướng thời nhà Trần được nhân dân suy tôn là
Đức Thánh Trần và được thờ ở rất nhiều nơi.
- Lịch sử của Việt Nam cũng góp phần tạo ra một mảng đề tài chủ đạo của
văn học nghệ thuât: đề tài về chiến tranh và số phận con người trong chiến tranh.
Ví dụ truyện Chinh Phụ Ngâm, biểu tượng kiếm và bút lông trên các cuốn thư,
bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, tác phẩm Hịch tướng sĩ, Bình Ngô Đại Cáo, tục ngữ
ca dao “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” v.v...
Câu 9: Phân tích những đặc trưng cơ bản của văn hóa làng truyền
thống người Việt.
Với điều kiện địa lý nằm ở Đông Nam Châu Á, nên có thể nói Việt Nam
mang đầy đủ các đặc trưng chủ yếu của một nền văn hóa gốc nông nghiệp điển
hình…
Xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa gốc nông nghiệp

như ý thức tôn trọng và ước vọng hòa hợp cùng thiên nhiên, lối sống tư duy tổng
hợp mang tính chất của chủ nghĩa kinh nghiệm phong phú cho nên về mặt tổ
chức cộng đồng mạng xã hội, người Việt nam luôn sống và tổ chức lối sống theo
nguyên tắc trọng tình, sống cố định, ngại di chuyển và lấy gia tộc, họ hàng, láng
giềng, hàng xóm làm mối quan hệ giao tiếp, sinh hoạt hàng đầu trong cuộc sống
thường nhật.
Một nguyên tắc quan trọng hình thành nên làng là tính cộng đồng.
Tính cộng đồng có vai trò gắn kết các thành viên trong làng lại với nhau
thông qua các biểu tượng mang tính truyền thống như cây đa, bến nước, sân
đình. Hầu hết mọi làng của người Việt đều hội tụ cả ba biểu tượng này. Dù đi xa
đến đâu mõi khi về làng , hình ảnh mà người ta chờ được nhìn thấy đầu tiên là
cây đa đầu làng. Phải nói rằng, cây đa chính là nơi hội tụ giao tiếp của làng với
thế giới bên ngoài. Là chỗ nghỉ chân của lữ khách qua đường hay của những
22


người dân sau một ngày lao động vất vả nơi đồng ruộng. Nói tới cây đa, người ta
luôn dành cho biểu tượng này những lời thành kính, thậm chí là sợ hãi như Thần
cây đa, ma cây gạo hay sợ thần sợ cả cây đa. Bên cạnh cây đa, bến nước chính là
nơi tập chính là nơi tập trung cho sinh hoạt thường nhật của dân làng, đặc biệt là
những người phụ nữ. Bến nước có thể là một đoạn của con sông chảy qua làng
hay một hồ lớn của làng, thậm chí đôi khi chỉ là một giếng nước. Đây chính là
chỗ giao lưu, tâm sự, chuyện trò của chị em phụ nữ trong khi tắm cho con, vo
gạo, rửa rau… Nếu như bến nước là nơi tập trung của phụ nữ trong làng thì cánh
đàn ông trong làng thường tập trung ở sân đình. Sân đình chính là trung tâm
hành chính văn hóa, xã hội của làng. Tất cả các việc quan trọng của làng đều
diễn ra ở đây như hội họp việc làng, xét xử kiện tụng, đón rước quan trên, hội
hè, ăn uống, văn hóa, văn nghệ giải trí. Đình được xây rất kì công và xây tại
trung tâm của làng, thường là nơi thoáng đãng, cả sông nước hay ao hồ, thiên
nhiên phía trước mang ý nghĩa trị thủy mãn cho cả làng. Thường làng thờ thành

hoàng làng, đính có giá trị to lớn trong quyết định vận mệnh của cả làng. Ngự trị
trong làng là thành hoàng làng. Thành hoàng làng được tôn thờ, chủ tế cõi linh
thiêng của làng mang tính chất bản trợ cho làng.
Cùng với tính cộng đồng, tính tự trị cũng là một đặc trưng gốc rễ trong
văn hóa làng của người Việt. Tính tự trị nhấn mạnh đến sự khác biêt, là nền tảng
tạo nên tính độc lập cộng đồng. Đối với làng, biểu tượng của tính tự trị là lũy tre
làng, cổng làng. Lũy tre làng trở thành thành lũy kiên cố của làng bất khả xâm
phạm. Đối với người Việt bên ngoài lũy tre làng là cả một thế giới khác cho nên
có người cả đời không bước ra khỏi lũy tre làng. Do tính chất khép kín dẫn đến
làng người Việt luôn mang tính bảo thủ địa phương cục bộ như “trống làng nào
làng đấy đánh”, “Thánh làng nào làng ấy thờ”. Tính tự trị cũng tạo nên người
Việt tính gia trưởng tôn ti hay óc bè phái tư hữu ích kỷ. Bởi vậy trong làng,
người ta còn trọng họ to, họ nhỏ, con trưởng, con thứ…. Tư tưởng thứ bậc, thói
gia đình, chủ nghĩa.

23


×