Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi giảng dạy địa lí 12 – THP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.51 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
-------------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC MỘT SỐ KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
KHI GIẢNG DẠY ĐỊA LÝ 12 - THPT

Người thực hiện: ĐÀO THANH TÂM
Chức vụ: Giáo viên
SKKN môn: Địa lý

THANH HÓA NĂM 2018


I. Më ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã bước sang ngưỡng của thế kỷ XXI, thế kỷ mà tri thức, kỹ
năng của con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển xã hội. Trong hòa
nhập với cộng đồng quốc tế, để có thể đứng vững và vươn lên được, chúng ta
không những đựơc học hỏi kinh nghiệm, áp dụng những thành tựu khoa học thế
giới mà còn phải sáng tạo, tìm những con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh
đất nước, con người Việt Nam.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và
đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực
chất là cách tiếp cận kỹ năng sống đó là: Học để biết, học để làm, học để tự


khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và
đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng
lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và
đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng
làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ
bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
trong các trường phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo chỉ đạo, tôi mạnh dạn đề
cập tới việc làm thế nào để “Giáo dục một số kĩ năng sống cho học sinh khi
giảng dạy Địa lí 12 – THPT”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với chương trình học phổ thông, môn Địa lí có nhiều ưu điểm áp dụng
các phương pháp đổi mới trong giảng dạy vừa cung cấp kiến thức vừa hình
thành năng lực cho học sinh, đặc biệt năng lực gắn bó chặt chẽ giữa lí thuyết và
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đào tạo những lao động không chỉ
có kiến thức mà còn có năng lực thực hành. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trong dạy học Địa lí Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn, đảm
bảo học đi đôi với hành. Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất
nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm
tới. Nếu không có kỹ năng sống các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm
đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.

1


Đồng thời cũng giúp cho giáo viên lựa chọn được phương pháp giảng dạy
bộ môn Địa lí có hiệu quả gắn lý thuyết với thực hành, đổi mới phương pháp
giảng dạy đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp lớp 12 trường THPT Nguyễn Trãi năm học 2017-2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã vận dụng phối hợp các phương pháp,
trong đó có các phương pháp chủ yếu sau:
- Thao giảng, dạy thử nghiệm về đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo
nghiên cứu bài học, dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm.
- Hướng dẫn học sinh tự học bằng cách: sưu tầm tranh ảnh minh họa…

2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định "Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá,
dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân". Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc
hết sức trọng đại.
Trước nhu cầu tất yếu của xã hội, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông nói chung, môn Địa lí nói riêng là rất cần thiết nhằm đảm bảo
mục tiêu, nội dung dạy học hiện nay theo hướng tích cực hóa hoạt động nhằm
chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần
thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang
được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động

đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh.
2.1.2. Cơ sở khoa học của đổi mới phương pháp dạy học giáo dục một số kĩ
năng sống cho học sinh THPT.
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm kỹ năng sống (KNS). Tuy nhiên, có thể
tiếp cận khái niệm KNS qua 4 trụ cột của giáo dục theo UNESCO: Học để biết
(learning to know), học để khẳng định bản thân (learning to be), học để chung
sống (learning to live together) và học để làm việc (learning to do).Tiếp cận theo
4 trụ cột trên thì KNS có thể hiểu là: kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân,
kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc.Tuy nhiên, kỹ
năng sống (life skills) có thể hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người,
khả năng ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội và khả năng ứng
phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.Có thể nói kỹ năng sống chính
là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen
tích cực, lành mạnh.
Hiện nay, ở nước ta nội dung giáo dục kĩ năng sống là nội dung mới thực
hiện thông qua nhiều chương trình, dự án như “Giáo dục bảo vệ môi trường,
giáo dục phòng chống ma tuý..”.
_______________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 1, 2 và số 7

3


Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, giáo dục phổ thông đã và
đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI, mà thực
chất là cách tiếp cận kỹ năng sống đó là: Học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định mình và học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã
và đang đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một
trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông do Bộ giáo dục và đào tạo
chỉ đạo.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi
Nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được tích hợp trong một số môn học
và giáo dục có tiềm năng trong trường phổ thông trong đó môn Địa lí có nhiều
khả năng để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, bởi:
+ Mục tiêu của bộ môn đã tạo cơ hội tốt cho việc giáo dục kỹ năng sống.
+ Nội dung môn địa lý cung cấp cho học sinh một số vấn đề của thế giới
đương đại cả những mặt tích cực và tiêu cực; một số vấn đề về tự nhiên và xã
hội Việt Nam, thông qua những nội dung này có thể giáo dục cho các em một số
kỹ năng sống như: Kỹ năng ứng phó và tự bảo vệ trước những thiên tai, những
hiểm họa trong xã hội có nguy cơ ảnh hưởng tới cuộc sống lành mạnh và an toàn
của các em; đồng thời cũng hình thành ở các em kỹ năng cảm thông, chia sẻ với
những con người sống ở mọi nơi; kỹ năng tư duy khi phân tích, so sánh, phán
đoán; tìm kiếm và xử lý thông tin về các sự vật hiện tượng địa lí.
+ Một số phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn có nhiều khả năng
hình thành và rèn luyện kỹ năng tư duy cho học sinh. Việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa người học, với các phương
pháp dạy học tích cực như: Phương pháp dạy học nhóm, giải quyết vấn đề… tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết
vấn đề…
Chương trình lớp 12 gồm bốn phần: Địa lí Tự nhiên, Địa lí Dân cư, Địa lí
Kinh tế, Địa lí Địa phương với những đặc trưng của Địa lí Việt Nam có ưu thế
giáo dục một số kĩ năng sống như: kĩ năng cảm thông, chia sẻ; kĩ năng tìm kiếm
và xử lý thông tin; kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp…
2.2. Khó khăn
Một là, cơ sở vật chất của nhà trường mới đáp ứng được cơ bản của nhu
cầu dạy và học.
Hai là, quan niệm chưa đúng về bộ môn của học sinh coi Địa lí là môn

phụ. Vì vậy, thời gian cho học bộ môn chưa nhiều nên công tác giáo dục kĩ
năng sống qua các bài học Địa lí trở nên khó thực hiện.
4


Ba là, thời lượng học môn Địa lí lớp 12 mỗi tuần từ 1 – 2 tiết (học kì một
là 1 tiết/tuần; học kì hai là 2 tiết/tuần). Thời lượng mỗi tiết chỉ có 45 phút, nên
hạn chế thời gian hoạt động của HS. Để giáo dục kĩ năng sống tốt cần cho các
em rèn luyện, trao đổi nhiều. Thời gian trên lớp sẽ không có nhiều, mà thời gian
tự học ở nhà HS còn phải phân bố cho các môn học khác nên khó có nhiều thời
gian để học và rèn luyện các kĩ năng sống. Bên cạnh đó, lớp học được bố trí bàn
ngồi nhìn về một phía hướng lên thầy cô, điều này sẽ gây khó khăn khi hoạt
động nhóm so với ngồi bàn tròn – bàn tròn để các em luôn trong trạng thái
ngang tầm nhau không ai gần trung tâm hơn, HS được ở vị trí gần thầy cô hơn
và dễ dàng cho việc nhận xét, trao đổi lẫn nhau, giáo dục kĩ năng sống tốt hơn.
Bốn là, GV chưa áp dụng các PP mới để DH và không nhằm vào giáo dục
kĩ năng sống cho HS. Nhiều GV còn ngại thay đổi cách dạy truyền thống nên
không phát huy được tinh thần học tập chủ động, tích cực của HS.
Năm là, đối tượng HS lớp 12 ở THPT không phải đều giống nhau về tâm
sinh lí và nhận thức, khả năng học tập, hoạt động... Khi GV phân công nhiệm vụ
chuẩn bị tìm tòi tài liệu ở nhà, nhiều em hạn chế khả năng và năng lực sẽ không
hoàn thành được nhiệm vụ. Mặc dù có được sự hỗ trợ từ GV, tuy nhiên nhiều
em nhút nhát sẽ ngại hoạt động, nhất là hoạt động nhóm với các bạn khác. Một
số HS không hợp tác với GV, ỷ lại các bạn khi hoạt động nhóm. Vì thế không
thể hoàn thành tốt quá trình học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Một số kĩ năng sống cần khai thác để giáo dục cho học sinh khi dạy
học Địa lí Việt Nam lớp 12 – THPT.
a. Kĩ năng tự học, tự nhận thức.
Tự học là chủ động học tập, tự tìm kiếm tài liệu thông tin mình cần, đưa

ra những cách giải quyết khi gặp phải nội dung khó nào đó để rút kinh nghiệm
và thu thập nhiều kiến thức. Phương pháp tự học giúp phát triển tiềm năng sáng
tạo. Chính điều này cũng tạo động lực thôi thúc con người sáng tạo thêm nữa.
Vai trò của giáo viên(GV) vẫn tồn tại trong quá trình học sinh(HS) tiến
hành tự học, quá trình học cần có GV hướng dẫn, định hướng cho HS. “Tự học
là một vấn đề quan trọng. Bởi vì, đó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng
học tập, còn hoạt động dạy là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích,
điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học.”.
______________________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 1, 2 và số 8

Ngày nay kiến thức của loài người tăng theo cấp số nhân, quá trình học
trên lớp với SGK và bài giảng của GV chưa đủ. Vậy vấn đề đặt ra là học để biết
cách học để khi cần tìm kiếm kiến thức là chủ động tìm kiếm được.
5


Kĩ năng tự học, tự nhận thức rất quan trọng, giúp các em chủ động làm
chủ kiến thức và học tập tốt hơn. Có kĩ năng tự học giúp HS rèn luyện tính tự
giác của bản thân, luôn có ý thức tự giác trong học tập, chủ động làm chủ kiến
thức, chủ động nghiên cứu tìm tòi, không bị phụ thuộc.
Ví dụ: Bài 8 SGK Địa lí 12 – THPT: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu
sắc của biển. HS có kĩ năng tự học là có sự chuẩn bị trước ở nhà, khi biết nội
dung trước bài học: đặc điểm tự nhiên cơ bản nhất của biển Đông, ảnh hưởng
mạnh mẽ biển Đông đến thiên nhiên đất liền làm cho thiên nhiên nước ta có sự
thống nhất giữa đất liền và vùng biển. Học sinh tự tra cứu những thuận lợi và
khó khăn của biển Đông mang lại trong phát triển kinh tế-xã hội và trong đời
sống, đồng thời đưa ra được những giải pháp khắc phục, giải quyết những khó
khăn…Thông qua quá trình đó, HS lần lượt đặt ra vấn đề để tìm hiểu và làm

sáng tỏ. Càng hiểu vấn đề càng kích thích các em tìm tòi nhiều nội dung sâu
hơn, phát triển kĩ năng nhận thức, sáng tạo…
Cứ như vậy, khi được trang bị kĩ năng tự học HS sẽ yêu thích bộ môn hơn
và rèn luyện cho các em tính tự giác trong học tập, chủ động tiếp thu kiến thức.
b. Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
Học tập Địa lí là biết kết nối, phân tích những thuận lợi khó khăn của tự
nhiên, xã hội tác động đến thực trạng phát triển kinh tế., vì vậy những thông tin
về thực trạng phát triển kinh tế xã hội địa phương, vùng, đất nước, khu vực và
thế giới là những thông tin rất quan trọng. Thông tin có thể tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau, xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau. Chất lượng của thông tin
thường được đánh giá dựa trên các phương diện chủ yếu sau: + Tính cần thiết +
Tính chính xác + Độ tin cậy + Tính thời sự. Với học sinh, thông tin các em tiếp
cận thường qua bản đồ, Atlat, tranh ảnh, sách, tài liệu bằng văn bản, kênh truyền
thông như đài, báo, mạng internet, gần nhất đó là facebook… Để chọn lọc và
tích lũy kiến thức, HS cần có kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Để làm được
điều này GV cần hướng dẫn, định hướng cho HS thông qua quá trình dạy học,
GV có thể gợi ý tài liệu bước đầu và sau đó HS mở rộng tự tra cứu các tài liệu
liên quan, cách xử lí thông tin đúng đắn, xác định tài liệu nào chính thống có thể
tham khảo và tài liệu nào là sai lệch, tính chất không đúng đắn cần tránh đi. HS
được trang bị kĩ năng này sẽ rất thuận lợi cho các em học tập địa lí, hình thành
tư duy địa lí, biết phân tích đánh giá các hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội, các
em sẽ hứng thú, đồng thời kích thích khả năng tự học.
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là 3, 4 và 6.

Được giáo dục tốt kĩ năng sống này giúp các em có những kĩ năng xử lí
thông tin trong cuộc sống hàng ngày tốt hơn, luôn có thái độ bình tĩnh trước
thông tin nhận được, tiến hành xác minh thông tin trước khi đưa ra quyết định.
Giúp các em có nhiều quyết định đúng đắn trong cuộc sống, tránh những việc
đáng tiếc xảy ra.
6



c. Kĩ năng xác định mục tiêu và giải quyết vấn đề
Việc xác định mục tiêu đúng đắn, chính xác giúp định hướng cho việc học
tập được rõ ràng và tập trung. Trong cuộc sống cũng vậy, khi xác định được mục
tiêu công việc, hành động, sẽ có cở sở để làm việc, động lực hoàn thành công
việc. Từ việc xác định mục tiêu, ta bắt tay vào hành động và giải quyết vấn đề.
Từ đó, giúp HS có thể xây dựng những kĩ năng cần thiết: đưa ra được sự lựa
chọn tốt nhất trong bất kì hoàn cảnh nào mà các em gặp phải trong cuộc sống, và
tiến hành những bước cần thiết để thực hiện quyết định. GV hướng dẫn HS nhận
ra vấn đề, phân tích, tìm kiếm tài liệu và đối chiếu, đi tới kết luận, đưa ra biện
pháp giải quyết vấn đề một cách tối ưu.
Trên cơ sở HS được trang bị kĩ năng xác định mục tiêu, áp dụng vào cuộc
sống, các em học cách lên kế hoạch xác định rõ mục tiêu để thực hiện trước khi
hành động, hoạt động có mục đích luôn có tỉ lệ thành công cao hơn việc thiếu
suy nghĩ khi làm việc. Kĩ năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống là việc HS biết
đánh giá, liên kết sự việc để đưa ra kết luận: Thấy cảnh bạn bè cãi nhau, người
có năng lực giải quyết sẽ can ngăn trước và hỏi rõ nguyên nhân để giải quyết
trước khi bênh vực ai đó.
d. Kĩ năng ra quyết định và chịu trách nhiệm
Trong cuộc sống rất nhiều trường hợp cần sự quyết định của bản thân. Khi
đứng trước tình huống khác nhau, cần có thái độ khác nhau, nhiều người sẽ lúng
túng hoặc là lưỡng lự khi bị buộc đưa ra quyết định nên việc GD cho HS kĩ năng
này giúp các em rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều trường hợp các em
gặp phải, các em có thể tự giải quyết nhưng nhiều trường hợp các em không đủ
kĩ năng về vấn đề đó nên không biết xử lí ra sao. Thông qua các bài học địa lí để
cho HS thấy được tầm quan trọng của việc đưa ra quyết định đúng thời điểm.
Đồng thời, giáo dục HS kĩ năng đưa ra quyết định đúng, tích cực. Khi đã đưa ra
quyết định thì cần biết chịu trách nhiệm với quyết định của mình, nếu quyết định
đúng thì phát huy, nếu quyết định sai thì nhận lỗi và sửa chữa. Kĩ năng này đặc

biệt quan trọng trong quá trình hoạt động nhóm. HS phải đưa ra quyết định cá
nhân cho mỗi hoạt động trong nhóm và thống nhất ý kiến sau đó tiến hành hoạt
động và chịu trách nhiệm với nhiệm vụ cũng như sản phẩm của mình. Đây cũng
là một đức tính về mặt đạo đức trong xã hội mỗi người cần có.
Ví dụ: Bài 10 SGK Địa lí 12 – THPT: mục 3. Ảnh hưởng của thiên
nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa đến sản xuất và đời sống. Trong quá trình hoạt
động nhóm các thành viên phải nhận nhiệm vụ riêng để thực hiện sau đó tập hợp
kết quả chung. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhóm tiến hành thảo luận, các
thành viên tự thống nhất, đưa ra quyết định chọn lựa nội dung để trình bày trước
lớp (nhận xét kết quả của các thành viên, lựa chọn những nội dung làm tốt để
7


báo cáo kết quả nhóm). Sau khi đưa ra quyết định, mỗi thành viên phải có ý thức
chịu trách nhiệm trước phần nhiệm vụ của mình. Nếu kết quả tốt thì phát huy,
nếu kết quả chưa đúng, chưa đủ thì rút kinh nghiệm, không lảng tránh.
Liên hệ trong thực tiễn, khi có kĩ năng ra quyết định và chịu trách nhiệm,
HS sẽ sống tốt và có ý nghĩa hơn.
Ví dụ, sau khi kết thúc cấp THPT, một số HS quyết định đi học nghề và
học nghề mình yêu thích thay vì học lên Đại học. HS đó đã ra quyết định vào
thời điểm quan trọng của cuộc đời, để ra được quyết định đó HS đó đã phải tính
toán từ trước, nếu mình học nghề luôn thì tương lai ra sao? Liệu tiếp tục học Đại
học thì có đủ điều kiện, đam mê không?… Sau khi đưa ra quyết định, bản thân
chịu trách nhiệm trước việc mình chọn, chấp nhận thất bại nếu xảy ra và sửa đổi,
tuy nhiên phải luôn nỗ lực để làm tốt quyết định bản thân đưa ra.
e. Kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực
Lắng nghe ở đây là lắng nghe tích cực - là một phần quan trọng của kĩ
năng giao tiếp. Người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú
ý và thể hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác.
Lắng nghe tốt giúp các em điều hòa được cảm xúc nhất thời. Lứa tuổi

THPT thường hành động trước khi suy nghĩ nên sẽ dễ có nhiều xích mích với mọi
người. Giáo dục kĩ năng lắng nghe giúp hạn chế được kết quả không mong muốn.
Phản hồi tích cực là đối đáp, hay trả lời câu chuyện, hành động của người
khác một cách tích cực nhất, hòa dịu nhất. Phản hồi tích cực rèn luyện tính nhẫn
nại, tôn trọng bạn bè, góp ý khéo léo. Đây cũng là một phần của giao tiếp. Phản
hồi tích cực giúp HS học được nhiều điều tốt ở bạn bè để hoàn thiện bản thân,
nhận ra điều chưa tốt để rút kinh nghiệm.
Ví dụ: Sau khi học nội dung mục 2. Phát triển nền nông nghiệp hiện đại
sản xuất hàng hóa góp phần nâng cao hiệu quả của nông nghiệp nhiệt
đới(Bài 21. Đặc điểm nền nông nghiệp nước ta) GV tổ chức hoạt động tranh
luận để HS có cơ hội thể hiện quan điểm cá nhân.
Vấn đề tranh luận là: Có ý kiến cho rằng:Phát triển nông nghiệp hàng
hóa quá quan tâm đến lợi nhuận nên nông phẩm nước ta hiện nay tăng về số
lượng nhưng chất lượng chưa cao,còn nhiều nông phẩm bẩn. Hãy nhận xét ý
kiến trên.
________________________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo số 3, 4 và 5

HS sẽ đưa ra 2 ý kiến: đồng ý và không đồng ý. Sau đó mỗi cá nhân,
nhóm sẽ trình bày dẫn chứng để chứng minh cho quan điểm, suy nghĩ của bản
thân. HS sẽ học cách lắng nghe quan điểm của bạn một cách tích cực, xem xét
cái lí trong đó, tránh việc bảo thủ giữ ý kiến cá nhân, không quân tâm ý kiến
người khác.
8


Phản hổi tích cực thể hiện sau khi HS nghe ý kiến của bên bạn đối thủ, HS
ghi nhận thành tựu và phản hồi lại những vấn đề cho là chưa đúng với có thái độ
đóng góp, không phải phản bác khi đưa ra quan điểm đáp trả.

Trong cuộc sống, HS biết lắng nghe lời nhận xét, lời khuyên của bạn bè,
cha mẹ, thầy cô về tính cách của bản thân hay thái độ sống sẽ giúp các em hoàn
thiện bản thân hơn, biết cách phản hồi tích cực: cảm ơn lời nhận xét và sẽ sửa
đổi bản thân, tránh thái độ ghen ghét, cho là nói xấu và phản ứng lại mạnh mẽ
quá, gây rạn nứt mối quan hệ.
f. Kĩ năng giao tiếp, hợp tác
Đây là kĩ năng quan trọng và có mối quan hệ với các kĩ năng khác như:
lắng nghe và phản hồi tích cực, kiểm soát cảm xúc…
Kĩ năng giao tiếp giúp HS biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh
giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, nhưng không gây
tổn thương cho bạn bè, những người xung quanh. Kĩ năng này giúp HS có mối
quan hệ tích cực với người khác, biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè
mới. Kĩ năng giao tiếp hình thành trong quá trình dạy học thông qua các phương
pháp mà GV đưa ra để HS chủ động, có cơ hội giao tiếp qua đó uốn nắn, sửa
chữa cho các em. Giao tiếp tốt giúp các em diễn đạt ý tốt và người khác hiểu
được ý của các em sẽ dễ dàng hơn cho học tập và công việc sau này.
Ví dụ: Bài 32 SGK Địa lí 12.Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du và
miền núi Bắc Bộ, GV chia học sinh thành 4 nhóm.
Nhóm 1: Tìm hiểu về khai thác, chế biến khoáng sản và thủy điện.
Nhóm 2: Tìm hiểu về trồng và chế biến cây công nghiệp, cây dược liệu,
rau quả cận nhiệt và ôn đới.
Nhóm 3: Tìm hiểu về chăn nuôi gia súc.
Nhóm 4: Tìm hiểu về kinh tế biển.
Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (5).

Khi tham gia hoạt động nhóm sẽ giúp HS rèn luyện kĩ năng hợp tác làm
việc tập thể. HS được học cách phân công nhiệm vụ (bạn A tìm hiểu về điều kiện
phát triển, bạn B tìm hiểu về chủ trương của Đảng, bạn C tìm hiểu về diễn biến
chính, các bạn còn lại tìm hiểu về kết quả rồi cả nhóm cùng rút ra ý nghĩa của
chiến dịch).

Việc chia nhóm và thực hiện các nhiệm vụ cũng là một cách rèn luyện
tính hợp tác để hoàn thành công việc nhóm. Sau khi tiến hành hoạt động cá nhân
9


xong, các thành viên tiến hành thảo luận chung, lúc này kĩ năng giao tiếp tốt sẽ
giúp các em hiểu được ý kiến của bạn và chính bạn cũng hiểu được ý kiến của
mình.
g. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc và thể hiện sự chia sẻ, cảm thông
Kiểm soát cảm xúc và chia sẻ, cảm thông là một trong những kĩ năng xã
hội khi tương tác với người xung quanh. Kĩ năng này quan trọng với tất cả mọi
người và ở lứa tuổi THPT thì rất cần thiết khi các em tương tác với bạn bè rất
nhiều, khi nhận thức của các em dần hoàn thiện, các mối quan hệ được xây dựng
mang tính chất lâu dài. Kiểm soát cảm xúc là luôn giữ được thái độ tích cực nhất
khi lắng nghe ý kiến hay giải quyết vấn đề nào đó trong học tập cũng như công việc.
Kĩ năng này cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc biệt trong bối
cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông được dựa trên kĩ
năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị, đồng thời là yếu tố cần thiết trong
kĩ năng giao tiếp, giải quyết vấn đề, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, kiên
định và kiềm chế cảm xúc.
Ví dụ: Sau khi học bài 15 SGK Địa lí 12: Bảo vệ môi trường và phòng
chống thiên tai, ngoài việc học sinh hiểu được một số vấn đề về bảo vệ môi
trường ở nước ta, nắm được sự phân bố hoạt động của một số thiên tai chủ yếu
gây tác hại đến đời sống và kinh tế nước ta, biết cách phòng chống đối với mỗi
loại thiên tai. Đồng thời giáo dục học sinh có những cảm thông với những
người đang sống ở vùng chịu hậu quả thiên tai thường xuyên ở nước ta như
vùng ven biển Trung Bộ. Đồng thời, giáo dục HS biết cách sẻ chia cảm xúc đó
ra ngoài, thể hiện qua vẻ mặt, cử chỉ, thái độ.
Liên hệ với thực tiễn, kiểm soát được cảm xúc trược những tình huống
xảy ra giúp HS có thái độ bình tĩnh giải quyết sự việc. Cuộc sống còn nhiều

hoàn cảnh khó khăn hơn mình nên học cách chia sẻ là điều cần thiết, biết cảm
thông khi thấy bạn HS nghèo không có quần áo đẹp, cố gắng giúp đỡ bạn, chơi
cùng bạn thay vì khinh bỉ. Đây đồng thời thực hiện được giáo dục kĩ năng sống,
đồng thời giáo dục đạo đức cho HS.
__________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (5).

Có thể nhận thấy có rất nhiều kĩ năng sống để giáo dục cho HS THPT nói
chung và HS lớp 12 THPT nói riêng. Tuy nhiên, trong dạy học Địa lí không
phải bê nguyên si tất cả các kĩ năng sống vào mà cần chọn lọc, bổ sung để phù
hợp. Chính vì vậy, xuất phát từ thực tiễn của việc giáo dục kĩ năng sống cho HS
ở THPT hiện nay, sự cần thiết của việc trang bị kĩ năng sống giúp các em có các
khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc sống hàng ngày kết hợp với
việc nghiên cứu ưu thế của bộ môn Địa lí, trong khuôn khổ một chuyên đề
10


nghiên cứu tôi nhận thấy 7 kĩ năng trên đây là cần thiết và phù hợp để giáo dục
kĩ năng sống cho các em khi dạy học Địa lí Việt Nam lớp 12 – THPT.
2.3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh khi dạy học Địa lí Việt Nam lớp 12 – THPT.
a. Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống trong từng bài học Địa lí
Mỗi bài học Địa lí đều có một số kĩ năng sống cơ bản, GV cần căn cứ vào
mục tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ ở mỗi bài học để xác định, lựa
chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với HS để các em có khả năng trực tiếp
thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận. GV phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng
dẫn học sinh tự xác định các kĩ năng sống cần đạt.
Ví dụ: Mục tiêu cần đạt khi học Bài 2. Vị trí Địa lí, phạm vi lãnh thổ
1. Kiến thức:

- Xác định được vị trí Địa lí và hiểu được tính toàn vẹn của phạm vi lãnh
thổ nước ta
- Đánh giá được ý nghĩa của vị trí Địa lí với đặc điểm tự nhiên, sự phát
triển kinh tế- xã hội và vị thế của nước ta trên thế giới.
2. Kĩ năng
Xác định được trên bản đồ Việt nam hoặc bản đồ thế giới vị trí và phạm vi
lãnh thổ của nước ta.
3. Thái độ
Củng cố thêm lòng yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
b. Định hướng năng lực cần hình thành.
Năng lực chung:
- Năng lực tự học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực hợp
tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
__________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (5).

Năng lực chuyên biệt:
- Năng lực tư duy tổng hợp theo lãnh thổ ( đặc trưng nhất ở môn địa lí)
- Năng lực học tập ngoài thực địa
- Năng lực sử dụng bản đồ
- Năng lực sử dụng số liệu thống kê
- Năng lực sử dụng ảnh, hình vẽ, video, mô hình…
11


Trên cơ sở đó GV xác định các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong
bài học như sau:
- Kĩ năng nhận định vấn đề

- Kĩ năng suy đoán tình huống
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng rút ra kết luận, nhận xét,…
Nắm vững các kĩ năng sống trong mỗi bài học Địa lí cụ thể sẽ giúp GV
linh hoạt, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng HS và tùy
theo bài, GV tổ chức cho HS hoạt động ngay tại lớp với tình huống tương tự tìm
ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó HS tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để
giải quyết vấn đề đó.
Nếu không thể tổ chức thực hành được, GV hướng dẫn HS tự tìm hiểu các
tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi chép và
nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các bạn
nghe và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất.
c. Tăng cường tổ chức các hoạt động nhóm trong quá trình dạy học trên lớp.
Hình thành kĩ năng sống cho HS hiệu quả nhanh chóng nhất là thông qua
hoạt động nhóm, HS được phân chia làm các nhóm hoạt động với nhau sẽ giáo
dục được nhiều kĩ năng cùng lúc: giao tiếp, hợp tác, tư duy sáng tạo, lắng nghe,
phân tích, so sánh…
Mỗi một HS trong lớp có tư duy, trình độ nhận thức khác nhau, sức sáng
tạo của các em cũng khác nhau. Khi cho các em hoạt động nhóm thì các em sẽ
có cơ hội tiếp xúc với nhau nhiều hơn, trao đổi kiến thức, học hỏi điểm tốt từ
bạn và tự nhận thấy yếu điểm của bạn cũng như của mình và tự sửa đổi. Lượng
kiến thức ở cấp độ dễ, khó khác nhau nên hoạt động nhóm giúp chia sẻ công
việc và rút ngắn thời gian tìm hiểu, HS có nhiều thời gian để tìm hiểu sâu hơn
một vấn đề nào đó.
Hoạt động nhóm là cơ sở để các em vươn lên trong học tập. Các em tham
gia hoạt động nhóm giúp phát huy nỗ lực của bản thân, tương tác với các bạn
khác, giúp đỡ nhau trong học tập. Hoạt động nhóm kích thích hứng thú, say mê
của HS.
Về tổ chức hoạt động nhóm, GV hướng dẫn, điều khiển, quản lí lớp học.
Trong quá trình hoạt động nhóm, GV là người hỗ trợ khi các em cần giải đáp

thắc mắc. Qua hoạt động nhóm, HS khi bàn bạc thảo luận với nhau, các em sẽ
hiểu nhau hơn, thể hiện sự sáng tạo của bản thân, cơ hội phát biểu nói lên ý kiến
cá nhân sau đó bàn bạc với các bạn để tìm ra phương án tối ưu lúc này HS được
học cách lắng nghe, xử lí thông tin.
Hoạt động nhóm có thể diễn ra dưới nhiều hình thức: hoạt động nhóm
trên lớp (sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn, bể cá…), hoạt động nhóm ở nhà (dự án,
bài tập nhóm về nhà, hợp đồng…). Mỗi một hình thức đem lại hiệu quả khác
12


nhau cho HS nhưng đều hướng đến mục đích phát triển tư duy, kĩ năng, năng lực
HS, giáo dục kĩ năng sống cho HS.
d. Thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để HS được làm và được trải
nghiệm.
Trong quá trình DH, ngoài việc tổ chức các hoạt động nhóm, hoạt động cá
nhân GV phải thiết kế những câu hỏi phù hợp để đảm bảo tính khoa học và tính
giáo dục trong một bài học Địa lí, nhằm nâng cao tư duy và rèn luyện kĩ năng
sống cho các em.Muốn hình thành kĩ năng sống là phải làm và phải trải nghiệm
nên khi tìm hiểu nội dung các bài học, tôi thường thiết kế những câu hỏi có mục
đích giáo dục như vậy.
Ví dụ, khi dạy bài 42 SGK Địa lí 12. Vấn đề phát triển kinh tế,an ninh
quốc phòng ở biển Đông và các đảo, quần đảo, muốn HS hiểu được vai trò của
biển Đông , đảo và quần đảo trong chiến lược phát triển kinh tế biển và bảo vệ
chủ quyền vùng biển, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế nước ta, tôi đặt
những câu hỏi như sau:
Câu hỏi:
1- Xác định các nước láng giềng trên biển và vùng nội thủy nước ta?
2- Tại sao kinh tế biển có vai trò ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta?
3- Xác định trên bản đồ, Atlat các đảo và quần đảo sau: Đảo Cái Bầu,
quẩn đảo Cô Tô, đảo Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ, đảo Cồn Cỏ, đảo Lý Sơn, Côn

Đảo, Phú Quốc, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa?
4- Nêu ý nghĩa các đảo và quần đảo nước ta trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng?
5-Tại sao việc bảo vệ hòn đảo dù rất nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn trong
an ninh quốc phòng nước ta?
_______________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (6).

Bằng những câu hỏi có mục đích giáo dục như vậy, HS hình thành được
các kĩ năng sống như kĩ năng tư duy sáng tạo (Hiểu và phân tích được những
khó khăn của vùng biển nước ta với phát triển kinh tế…) Kĩ năng tự nhận
thức (Xác định trách nhiệm của bản thân công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc). Vì vậy, GV cần vận dụng linh hoạt để rèn các các kĩ năng sống cho HS.
e. Tích hợp với các môn học khác để giáo dục kĩ năng sống cho HS
13


Bộ môn Địa lí ở trường phổ thông không chỉ cung cấp cho HS những đặc
điểm tự nhiên, kinh tế xã hội với những số liệu mà nó còn cung cấp những tri
thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội địa phương, đất nước, khu vực hoặc thế giới. Chính vì vậy việc sử dụng các
kiến thức liên môn trong DH Địa lí có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho HS, thể hiện ở cả ba mặt: cung cấp kiến thức,
phát triển kĩ năng và hình thành tư tưởng, tình cảm.
Ví dụ : bài 9, Địa lí 12, khi dạy về hoạt động của gió mùa mùa Hạ, tôi kết
hợp bản đồ với hoạt động gió mùa mùa hạ với bài hát Sợi nhớ sợi thương để
tăng thêm tính thực tiễn cho học sinh dễ hiểu, đễ nhớ.

_______________________________________


Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (6).

Ví dụ: bài 9, Địa lí 12, Kết hợp bản đồ và bản tin thời tiết ngày 1/1/2017,
hãy cho biết chế độ khí hậu 2 miền Nam, Bắc nước ta có điểm gì khác biệt?
Nguyên nhân của sự khác biệt đó?

14


Qua đó, hình thành cho các em một số kĩ năng sống như: kĩ năng tư duy sáng
tạo; kĩ năng vận dụng lí thuyết với thực hành, kĩ năng nhận xét đánh giá; kĩ
năng ứng phó, giải quyết vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
2.3 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Mục đích của đề tài vừa cung cấp kiến thức vừa hình thành năng lực cho
học sinh, đặc biệt là năng lực gắn bó chặt chẽ giữa lí thuyết và thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần đào tạo những lao động không chỉ có kiến thức
mà còn có năng lực thực hành; góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn, đảm bảo
học đi đôi với hành. Đồng thời cũng giúp cho giáo viên lựa chọn được phương
pháp giảng dạy bộ môn Địa lí có hiệu quả gắn lý thuyết với thực hành, đổi mới
phương pháp giảng dạy đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã
khắc phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Địa lý đối với học sinh và
ngay cả bản thân giáo viên.
_______________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (4), (6).

2.3.1. Thực nghiệm
a. Mục đích và đối tượng của thực nghiệm


15


- Xác nhận tính đúng đắn về cơ sở lí luận và khẳng định việc đổi mới
phương pháp DHĐL hiện nay cần có sự vận dụng giáo dục kĩ năng sống cho HS
trong DH Địa lí là rất cần thiết.
- Kiểm nghiệm tính hiệu quả, khả thi của các biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho HS trong DH Địa lí nói chung và DH Địa lí Việt Nam.
- Đối tượng thực nghiệm là HS lớp 12
b. Nội dung thực nghiệm và phương pháp thực nghiệm
* Nội dung thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm được tổ nhóm thống nhất trong cả quá trình
dạy học Địa lí Việt Nam. Cụ thể hơn với hai giáo án cho cùng một bài giảng:
Bài 32: Vấn đề khai thác thế mạnh ở Trung du và miền núi Bắc Bộ. Hai giáo
án này có cùng nội dung kiến thức nhưng về PP thực hiện thì khác nhau.
Giáo án 1: Soạn theo phương pháp thông thường, phản ánh tình hình thực
tiễn ở trường THPT, GV dựa vào kinh nghiệm của bản thân để tập hợp tài liệu,
soạn và giảng dạy bình thường.
Giáo án 2: Thực hiện bài học trên cơ sở tài liệu biên soạn và thiết kế DH
trên cơ sở các biện pháp mà chuyên đề đưa ra nhằm giáo dục kĩ năng sống cho
HS, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn địa lý ở trường THPT.
* Phương pháp thực nghiệm
Lớp thực nghiệm: Bài giảng được soạn chi tiết theo các biện pháp đề ra.
Lớp đối chứng: Bài giảng được giáo viên tiến hành theo cách thông thường.
Tiến hành 2 tiết dạy có sự tham gia dự giờ đánh giá của GV Tổ Sử Địa
Giáo dục công dân tại hai lớp 12C1 và 12C2. Kết thúc bài dạy, tôi trao đổi, thảo
luận với GV dự giờ và HS nhằm bổ sung, điều chỉnh tiến trình DH theo dự kiến.
2.3.2 Giáo án thực nghiệm. ( Xem phần phụ lục)

_______________________________________

Trong trang này, tác giả sử dụng tài liệu tham khảo là: (3), (4), (5), (6), (8)

2.4. Tổ chức và đánh giá kết quả thực nghiệm

16


Để kết quả thực nghiệm được khách quan, tôi đã lựa chọn hai lớp có trình
độ ngang nhau, cùng một GV dạy (lớp 12C1 là lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng là lớp 12C2, cả hai lớp có cùng sĩ số là 42).
Trong tiến trình thực nghiệm sư phạm, tôi nhận thấy, ở lớp thực nghiệm
HS có sự chuẩn bị bài rất chu đáo, khả năng tập hợp và xử lý các nguồn tài liệu
khá tốt. Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, thu hút được sự chú ý của HS. Các
em có nhiều cơ hội được thảo luận nhóm, trình bày ý kiến, quan điểm của cá
nhân, rèn luyện những kĩ năng bộ môn, kĩ năng sống: kĩ năng làm việc nhóm, kĩ
năng thuyết trình, kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực... Nhờ đó, giờ học đã
đạt mục tiêu đề ra trên cả ba mặt: về kiến thức, kỹ năng và thái độ, tình cảm.
Đồng thời, để có cơ sở đánh giá cuối bài (ở cả lớp thực nghiệm và đối
chứng), tôi tiến hành cho HS làm bài kiểm tra 10 phút vào cuối tiết học với nội
dung câu hỏi giống nhau để kiểm tra, đánh giá kết quả DH (Đề kiểm tra xem
phần phụ lục).
Kết quả thực nghiệm như sau:
Kết quả

Lớp
thực
nghiệm


<5

5->8

8 trở
lên

12C2
(42)

1
(2.38)

22
(52.38)

19
(45.24)

Lớp
dối
chứng

Kết quả
<5

5->8

8 trở lên


12C1
(42)

8
(19.05)

30
(71.43)

4 (9.45)

- Qua thực tế cho thấy, tỉ lệ bài xếp loại khá, giỏi của lớp thực nghiệm cao
hơn lớp đối chứng, số bài bị điểm thấp không nhiều. Điều đó cho thấy ở lớp thực
nghiệm, khả năng tổng hợp, ghi nhớ kiến thức tốt hơn so với lớp đối chứng. Các
em có khả năng nhớ được những kiến thức lí thuyết một cách hệ thống, đây
chính là hiệu quả từ việc trong quá trình dạy – học các em đã ôn tập củng cố bài
bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm giúp các em hiểu bài, lĩnh hội kiến thức.
Thực tế áp dụng bản thân tôi nhận thấy củng cố bài học là bước quan
trọng để giúp học sinh nắm vững nội dung của bài. Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm
vào phần củng cố bài không chỉ tạo không khí học tập, dễ nhớ kiến thức của bài
học mà còn rèn luyện học sinh tiếp cận với cách làm bài thi trắc nghiệm khách
quan. Nhờ vậy tỉ lệ học sinh khá – giỏi ở các lớp tăng dần lên, tỉ lệ học sinh
trung bình- yếu ở các lớp giảm.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận.
17

Ghi
chú



Sự phát triển của kinh tế, du nhập các nền văn hóa mới đã có tác động
mạnh mẽ làm thay đổi lối sống, văn hóa, thậm chí là tính cách của con người.
Trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống bon chen, hối hả đó đã và đang tác
động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người trong đó đáng
chú ý là trẻ em ở mọi lứa tuổi. Các em đang ở giai đoạn hình thành và phát triển
nhân cách, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những đổi thay
không ngừng của xã hội. Vì vậy cần trang bị cho các em kĩ năng sống để thích
ứng với xã hội hiện đại.
Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường được thực hiện bằng nhiều con
đường và hình thức khác nhau. Một trong những con đường đó là giáo dục kĩ
năng sống thông qua dạy và học các môn văn hóa, trong đó có môn Địa lí. Với
chương trình học phổ thông, môn Địa lí Việt Nam có nhiều ưu điểm áp dụng các
phương pháp đổi mới trong giảng dạy vừa cung cấp kiến thức vừa hình thành
năng lực cho học sinh, đặc biệt năng lực gắn bó chặt chẽ giữa lí thuyết và thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đào tạo những lao động không chỉ có
kiến thức mà còn có năng lực thực hành.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy một số khó khăn khi tiến hành
lồng ghép các phương pháp, hình thức dạy học vào giáo dục kĩ năng sống cho
HS cấp THPT, tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị:
* Đối với nhà trường
Tổ chức các buổi tập huấn cụ thể chuyên sâu về kĩ năng sống cho các
GV, nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cũng như hiểu biết bản chất, sâu
về những nội dung liên quan đến kĩ năng sống.
Tăng cường điều kiện để hỗ trợ cho quá trình giáo dục kĩ năng sống cho
HS đạt hiệu quả tốt nhất: cơ sở vật chất, các giờ - buổi hoạt động ngoại khóa.
* Đối với GV:
Cần nhận thức đúng về vai trò của bộ môn Địa lí trong việc giáo dục kĩ

năng sống cho HS, hiểu về nội dung, các phương pháp nhằm trang bị cho HS
những kĩ năng cần thiết. GV phải tâm huyết, chịu khó tìm tòi, học hỏi, đổi mới
phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng tiết học, không ngừng hoàn thiện
bản thân, lấy bản thân là tấm gương để giáo dục HS.
Để giúp học sinh có hứng thú học tập, phát hiện ra kĩ năng cần có, người
GV phải xác định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trong môn học.
18


Tiếp đó, chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh để các em có
khả năng trực tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận. Giáo viên phải chuẩn bị
các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kĩ năng sống cần đạt.
Đồng thời, chuẩn bị một giáo án lồng ghép thật cẩn thận (có nêu ra cụ
thể các kỹ năng học sinh cần đạt sau khi học bài này; các kỹ thuật dạy học sử
dụng trong bài dạy; phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy…)
* Đối với HS
Nhận thức đúng vai trò của mình, tăng cường việc tự học ở nhà. Tích
cực tham gia vào quá trình học tập trên lớp, tự tìm tòi, nghiên cứu. Tăng cường
tham gia các hoạt động đoàn thể, xã hội. Mạnh dạn đề xuất ý kiến cá nhân để
hoàn thiện bản thân hơn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ, đề xuất một số biện pháp để giáo
dục kĩ năng sống cho HS THPT (lớp 12) nhằm trang bị cho các em kĩ năng cần
thiết để giải quyết các vấn đề thực tiễn, tình huống trong cuộc sống hàng ngày.
Các biện pháp đề xuất mới chỉ là bước đầu, còn rất nhiều thiếu xót và hạn chế.
Kính mong được sự tham khảo giúp đỡ của bạn đọc và các đồng nghiệp để đề tài
được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh Hoá, ngày

tháng năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác

Đào Thanh Tâm

19


tµI LIÖU THAM KH¶O

1) Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam UNESCO.
2) Lí luận dạy học địa lý, Nxb Đại học Sư phạm.
3) Sách giáo khoa Địa lý 12, Nxb Giáo dục Việt Nam.
4) Át lát Địa lý 12, Nxb Giáo dục Việt Nam.
5) Dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng môn Địa lý 12, Nxb Đại học Sư
phạm.
6) Một số trang web, giáo án điện tử, tài liệu Việt Nam.
7) Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11.
8) Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, Nxb Hà Nội.

20



×