Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh THPT trong luyện tập chạy bền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.42 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài................................................................................Trang 3
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài..........................................................Trang 3
1.3. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................Trang 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài................................................... Trang 3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm...........................................Trang 4
2.1.1. Cơ sở sinh lý để phất triển sức bền tốc độ.......................................Trang 4
2.1.2. Nguyên lý kỹ thuật của môn chạy....................................................Trang 4
2.1.3. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT.................................Trang 5
2.2. Thực trạng của đề tài...........................................................................Trang 6
2.2.1. Thực trạng của việc học bộ môn thể dục của học sinh ở
trường THPT Nguyễn Hoàng ................................................................Trang 6
2.2.1.1. Thuận lợi.......................................................................................Trang 6
2.2.1.2. Khó khăn.......................................................................................Trang 7
2.2.1.3. Thái độ của học sinh trong học tập môn thể dục.Bảng.................Trang 8
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên dạy môn thể dục................................Trang 8
2.3. Biện pháp, giải pháp ........................................................................Trang 9
2.3.1. Phương pháp thực nghiệm...............................................................Trang 9
2.3.1.1. Chọn Trường , lớp thực nghiệm....................................................Trang 9
2.3.1.2. Bố trí thực nghiệm.........................................................................Trang 9
2.3.1.3. Kiểm tra đánh giá..........................................................................Trang 9
2.3.1.4. Phương pháp phân tích kết quả thực nghiệm...............................Trang 10
2.3.2. Những nội dung dạy học chạy bền cho h/s THPT.........................Trang 10
2.3.3. Những biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh
trong luyện tập chạy bền ..........................................................................Trang 11
2.3.4. Để nâng cao tính tích cực của h/s trong tập luyện chạy bền người
GV cần quan tâm .....................................................................................Trang 14
2.3.4.1. Lựa chọ và chuẩn bị đường tập chạy chu đáo trước buổi tập......Trang 14
2.3.4.2. Phối hợp các hình thức tập luyện khác nhau ..............................Trang 14


2.3.4.3. Truyền thụ kiến thức xen kẽ giữa các biện pháp và ...................Trang 15
2.3.4.4. Những lưu ý mà GV cần thực hiện .............................................Trang 15
2.4 . Kết quả nghiên cứu ..........................................................................Trang 16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận..............................................................................................Trang 19
2. Đề xuất..................................................................................................Trang 19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết giáo dục thể chất đối với con người có một tầm quan
trọng rất lớn. Đó là một mặt của nền giáo dục tiến bộ, là nhu cầu tất yếu khách
quan của sự tồn tại và phát triển đối với một xã hội.
Giáo dục thể chất nó tác động mạnh mẽ đến tất cả các mặt giáo dục khác
như đức dục, trí dục, lao động và thẩm mỹ. Đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn thì
giáo dục thể chất là việc dạy các kỹ thuật động tác, các bài tập phát triển thể lực
nhằm phát triển bốn tố chất cơ bản trong mỗi con người đó là: Nhanh, mạnh,
bền, khéo léo và mềm dẻo. Thông qua đó hoàn thiện thể chất con người, đáp ứng
mọi yêu cầu của xã hội [1].
Đất nước ta đã phải trải qua liên tục hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Nó đã cướp đi không ít sức người, sức của, ảnh hưởng nặng nề đến
thể chất và tinh thần của cả một dân tộc. Ngày nay,chúng ta được sống trong hoà
bình dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Đảng và Nhà nước đã quan tâm rất nhiều
đến vấn đề giáo dục thể chất cho toàn dân nhất là đối với thế hệ trẻ, xem đây là
một trong những mục tiêu chiến lược để bắt kịp bước tiến của thời đại và để đáp
ứng với công cuộc đổi mới đất nước. Song vẫn là chưa đủ khi nhìn một cách
tổng quát về thể lực của thế hệ trẻ hiện nay, nhất là thế hệ học sinh trung học cơ
sở còn phải cố gắng rèn luyện rất nhiều thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước [2].Thế hệ trẻ hiện nay chủ yếu là học
sinh ở các trường trung học phổ thông ở các cấp. Đối với cấp tiểu học và trung
học cơ sở, do các em còn chưa phát triển đầy đủ các yếu tố về thể chất nên việc
giáo dục rèn luyện chỉ là để giúp các em phát triển một các hoàn chỉnh và tạo
tiền đề để cho các em tiếp tục phát triển ở các cấp học sau. Đối với cấp trung
học phổ thông là tuổi mà các em đã bước đầu hoàn thiện về mặt thể chất, tâm
sinh lý. Vì vậy đây là lứa tuổi mà các em cần phải được rèn luyện để phát triển
hết các yếu tố chất thể lực của bản thân [3]. Xuất phát từ mục tiêu trên với
cương vị là một giáo viên chuyên trách bộ môn thể dục, tôi nghĩ mình phải có
trách nhiệm làm sao để nâng cao được thể lực của các em.Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài này với mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm của bản thân, để thế hệ
học sinh trường trung học phổ thông có một hành trang tốt về mặt thể lực đóng
góp được nhiều hơn cho đất nước, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Năm học 2017- 2018 là năm học thứ 13 thực hiện giảng dạy chương trình
theo SGK mới. Trong bối cảnh hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại.
Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên THPT là phải đổi mới
cách dạy: Giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo điều khiển học sinh đi tìm
2


kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy học sinh
phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi, phát hiện các kiến thức mới một cách
linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự dẫn dắt, điều khiển của
giáo viên trong tiết dạy [4]. Do vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho
phù hợp với kiểu bài và phát huy được sự yêu thích môn học đối với học sinh là
một vấn đề rất quan trọng, đó cũng là một thủ thuật sư phạm của người giáo
viên. Nhận thức được điều đó tôi mạnh dạn tìm hiểu và nghiên cứu sáng kiến
“Một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh THPT trong

luyện tập chạy bền” mà tôi đã áp dụng và theo dõi nhiều năm tại Trường THPT
Nguyễn Hoàng.
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu với mục đích: lựa chọn, sắp xếp các bài tập bổ trợ cùng
phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tốt năng lực thể chất cho học sinh, nâng
cao hiệu quả môn học chạy bền ở trưòng THPT.
- Thông qua quá trình điều tra sư phạm, áp dụng các bài tập bổ trợ vào đối
tượng nghiên cứu và với kết quả của đề tài này, chúng tôi mong được đóng góp
vào sự nghiệp khoa học, làm phong phú thêm phương tiện giáo dục thể chất giúp
cho quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh đạt kết quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình chạy bền cho học sinh lớp 10 Trường THPT Nguyễn Hoàng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để giải quyết các nhiệm vụ trên, các phương pháp sau được đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu các tài liệu trong nước và
nước ngoài có liên quan tới kĩ thuật luyện tập chạy bền trong dạy học.
- Phương pháp quan sát và điều tra sư phạm: Dự giờ, trao đổi ý kiến với GV;
Xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng của việc
luyện tập chạy bền trong giảng môn thể dục lớp 10 ở trường THPT hiện nay.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm có đối chứng song song.
- Phương pháp thống kê toán học: Xử lí các số liệu thống kê bằng phần mềm
Microsoft Excel, nhằm tăng độ chính xác cũng như sức thuyết phục của kết
luận.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nhìn chung năng lực tốc độ của con người mang tính chất chuyên biệt khá

rõ rệt, việc chuyển hoá của sức bền chỉ diễn ra trong tác động tác tương tự vệ
tính chất hoạt động, có thể chuyển hoá ở giai đoạn đầu của người mới tập, còn ở
những nơi có trình độ tập luyện cao hầu như việc chuyển hoá sức nhanh không
diễn ra. Vì vậy, mà việc phát triển sức bền phải rất cụ thể với từng năng lực tốc
độ.
Để phát triển sức bền tốc độ (tần số động tác) người ta sử dụng các bài tập
phát huy được tốc độ tối đa các bài tập có chu kỳ. Phương pháp sử dụng ngắn
chủ yếu vẫn là phương pháp lặp lại, tăng và biến đổi cự li. Cần lựa chọn sao cho
tốc độ không giảm đi vào giai đoạn cuối của bài tập.
Ở lứa tuổi THPT việc phát triển tốc độ và sức mạnh tốc độ đã phổ biến,
bên cạnh đó còn sử dụng đến sức bền, mềm dẻo và sự khéo léo, chúng cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến môn chạy nói chung và chạy cự li ngắn nói riêng. Vì vậy sự
kết hợp hài hoà giữa các tố chất kể trên với kỹ thuật tác động là một vấn đề cơ
bản để nâng cao thành tích.
2.1.1. Cơ sở sinh lý để phát triển sức bền tốc độ:
+ Tăng cường độ linh hoạt và tốc độ dẫn chuyền của hưng phấn ở trung ương
thần kinh và bộ máy vận động.
+ Tăng cường phối hợp giữa các sợi cơ và các cơ, nâng cao tốc độ thả lỏng.
Bởi vậy để phát triển sức bền tốc độ cần phải áp dụng các bài tập có trong lượng
nhỏ, tốc độ tần số cao thời gian ngắn. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp lặp lại
và biến đổi thì sẽ cải thiện được tốc độ của người tập.
2.1.2. Nguyên lý kỹ thuật của môn chạy:
Theo cơ học một vật chuyển động tịnh tiến hợp với mặt phẳng nằm ngang
thì quãng đường (S) được tính theo công thức:
S = V.t
(1)
Trong đó S: là quãng đường (cự li) đơn vị tính bằng (m)
V: là vận tốc chuyển động đơn vị tính bằng (m/s)
t: là thời gian chuyển động của vật tính bằng (s)
Từ công thức này áp dụng vào thực tế có chu kỳ, trong đó thành tích của

chạy được tính bằng thời gian (s) hoạt động trên một cự li nhất định, cho nên từ
(1) ta có:
t=

S
(2)
V

Từ (2) ta thấy (t) và (s) luôn có mối tương quan tỷ lệ thuận với nhau, còn (t) và
(V) thì luôn có mối tương quan tỷ lệ nghịch với nhau mà trong chay (t) càng nhỏ

4


thì thành tích càng tốt, vì vậy để có thành tích tối ưu trong chạy thì tốc độ phải
lớn (Vmax)
Theo cơ học áp dụng vào thực tế môn chạy thì vận tốc của chạy được tính theo
công thức: V = T.L (3)
Trong đó: V: là vận tốc chạy
T: là tần số bước chạy
L: Là độ dài bước chạy
Từ (3) ta thấy, nếu vận tốc cùng với tần số và độ dài bước chạy có mối tương
quan tỷ lệ thuận với nhau, tần số và độ dài bước chạy càng lớn thì tốc độ càng
lớn từ đó sẽ rút ngắn được thời gian chạy làm cho thành tích được nâng cao. Cho
nên trong huấn luyện và giảng dạy môn chạy cần phải lựa chọn các bài tập bổ
trợ nhằm nâng cao phát triển tần số và độ dài bước chạy, có vậy mới đem lại
thành tích tối ưu, cho nên sử dụng phương pháp tập luyện lập lại, các bài tập có
chu kỳ tốc độ cao thời gian và cự li ngắn, chú ý thực hiện tăng lên về số lần và
giảm thời gian.
2.1.3. Đặc điểm sinh lý của lứa tuối học sinh THPT:

Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đầu thanh niên là thời đạt được sự trưởng
thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát trỉen cơ
thể của người lớn, có nghĩa ở lứa tuổi này cơ thể các em đang phát triển mạnh,
khả năng hoạt động của các cơ quan và các bộ phận cơ thể được nâng cao cụ thể
là:
* Hệ vận động:
- Hệ xương: ở lứa tuổi này cơ thể các em phát triển một các đột ngột về chiều
dài, chiều dày, hàm lượng các chất hữu cơ trong xương giảm do hàm lượng
Magic, Photpho, Canxi trong xương tăng. Quá trình cốt hoá xương ở các bộ
phận chưa hoàn tất. Chỉ xuất hiện sự cốt hoá ở một số bộ phận như mặt (cốt
xương sống). Các tổ chức sụn được thay thế bằng mô xương nên cùng với sự
phát triển chiều dài của xương cột sống không giảm trái lại tăng lên có xu
hướng cong vẹo. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy cần tránh cho học sinh tập
luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các hoạt động gây chấn động quá
mạnh.
- Hệ cơ: Ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh để đi đến
hoàn thiện, nhưng phát triển không đều và chậm hơn so với hệ xương. Cơ to
phát triển nhanh hơn cơ nhỏ, cơ chi phát triển nhanh hơn cơ dưới, khối lượng cơ
tăng lên rất nhanh, đàn tích cơ tăng không đều, chủ yếu là nhỏ và dài. Do vậy
khi cơ hoạt động chóng dẫn đến mệt mỏi. Vì vậy khi tập luyện giáo viên giảng
dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các em.

5


* Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh trung ương đã khá hoàn thiện, hoạt động
phân tích trên võ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn. Khả năng nhận hiểu
cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt động vận động được nâng cao. Ở lứa
tuổi này học sinh không chỉ học các phần động tác vận động đơn lẻ như trước

mà chủ yếu là từng bước hoàn thiện ghép những phần đã học trước thành các
liên hợp động tác tương đối hoàn chỉnh, ở điều kiện khác nhau, phù hợp với đặc
điểm của từng học sinh. Vì vậy khi giảng dạy cần phải thay đổi nhiều hình thức
tập luyện, vận dụng các hình thức trò chơi thi đấu để hoàn thành tốt những bài
tập đề ra.
* Hệ hô hấp:
Ở lứa tuổi này, phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều, khung ngực còn
nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và lâu không có sự ổn định của dung tích sống,
không khí, đó chính là nguyên nhân làm cho tần số hô hấp của các em tăng cao
khi hoạt động và gây nên hiện tượng thiếu ôxi, dẫn đến mệt mỏi.
* Hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi này, hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển để kịp thời phát triển toàn
thân, tim lớn hơn, khả năng co bóp của cơ tim phát triển mạnh, do đó nâng cao
khá rõ lưu lượng máu/phút. Mạch lúc bình thường chậm hơn (tiết kiệm hơn),
nhưng khi vận động căng thì tần số nhanh hơn. Phản ứng của tim đối với các
lượng vận động thể lực đã khá chính xác, tim trở nên hoạt động dẻo dai hơn.
Từ những đặc điểm tâm sinh lý mà ta lựa chọn một số các bài tập trên căn bản
khối lượng cường độ, vận động sao cho phù hợp với lứa tuổi học sinh trung học
phổ thông, đặc biệt khi áp dụng các bài tập căn cứ vào tình hình tiếp thu kỹ thuật
và đặc điểm thể lực phù hợp với tâm sinh lý học sinh để cho quá trình giảng đạy
dạt kết quả cao, giúp cho các em học sinh trở thành những con người phát triển
toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Đồng thời nâng cao kết quả học tập, lôi
cuốn các em hăng say tập luyện và thi đấu ở trường phổ thông.
2.2. Thực trạng của đề tài
2.2.1.Thực trạng của việc học bộ môn thể dục của học sinh ở trường THPT
Nguyễn Hoàng
2.2.1.1. Thuận lợi:
Vì đây là môn học khá quen thuộc với các em cho nên các em cảm thấy
khá tự tin và nhiệt tình trong khi học.Học sinh TrườngTHPT Nguyễn Hòang
phần lớn là con em dân làm nghề nông, hoàn cảnh gia đình khó khăn học sinh

phải lao động vất vả nên thể lực các em khá tốt, đây là điều kiện tối thiểu mà các
em cần phải có khi học thể dục nói riêng và các môn văn hoá nói chung.
Nội dung chương trình SGK Thể dục 10,11,12 bao gồm các nội dung gần
gũi với cuộc sống, sát thực với nhu cầu và hứng thú của các em. Vì vậy một số
6


học sinh rất yêu thích môn học và tự hình thành cho mình phương pháp học có
hiệu quả. Cụ thể các em thường sử dụng thời gian trong ngày để rèn luyện. Điều
này chứng tỏ các em đã ý thức được tầm quan trọng của bộ môn mình học .
Ngoài ra sách còn được thiết kế với nhiều tranh ảnh màu, rõ nét , sinh
động và phù hợp với nội dung của từng bài. Do đó khoảng 60% học sinh hứng
thú thích tập luyện. Hơn nữa, tranh ảnh minh hoạ còn thiết lập được tình huống
giao tiếp cho học sinh trong hoạt động học tập.
Có không ít học sinh đầu tư cho môn học, tự giáo học tập, tích cực tham
gia và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kỹ năng thu được vào thực hành.
2.2.1.2.Khó khăn:
+ Học sinh THPT bắt đầu và đang bước vào thời kỳ dậy thì nên cơ thể các em
phát triển với tốc độ rất nhanh cả về hình thái, tổ chất thể lực cũng như chức
phận của các hệ cơ quan trong cơ thể. Vì thế một số em đặc biệt là nữ thường e
thẹn, rụt rè khi luyện tập ảnh hưởng đến quá trình dạy - học.
+ Đặc biệt “chạy bền”là nội dung luyện tập tương đối đơn điệu mà lại đòi hỏi
người học phải vận động nhiều làm học sinh dề nhàm chán và đôi lúc không
đảm bảo lượng vận động cần thiết để phát triển sức bền.
+ Đa số các em còn coi nhẹ việc luyện tập đặc biệt là môn chạy bền.
+ Ở lứa tuổi này cơ thể các em yêu cầu một lượng vận động cao một yêu cầu
mang tính chất sinh học. Bởi vì vận động sẽ giúp cho quá trình trao đổi chất
trong đó đặc biệt là quá trình đồng hóa diễn ra trong cơ thể nhanh hơn, mạnh
hơn, mà đó chính là cơ sở để các em phát triển.
+ Đặc biệt tình trạng học sinh không đáp ứng được yêu cầu về thể lực ngày

càng tăng do ý thức yếu kém của các em trong luyện tập ở trường cũng như ở
nhà.
* Bảng 1: Kết quả điều tra giáo dục:
không thích
Bình
STT Nội dung
Thích tập
Khó tập
tập
thường
1
Phiếu hỏi ý kiến
15%
37,5%
22,25%
26,25%
2
3

Trò chuyện

38,75%

12,5%

33,75%

15%

Kiểm tra trắc nghiệm


43,75%

13,75%

22,5%

20%

7


* Bảng 2: Kết quả quan sát Sư phạm khi thực hiện bài tập :
Số
TT
1
2
3

Nội dung kiểm tra
Nhảy dây bền (số lần )

Yếu

T. Bình

Khá

Giỏi


HS

%

HS

%

HS

%

HS

%

22

13.1 83

49.4

60

35.7

3

1.8


14.9 77

45.8

65

38.7

1

0.6

19.6 85

50.6

50

29.8

0

0

Chạy theo đường gấp
25
khúc (s)
33
Chạy vòng số 8 (s)


Chạy lên dốc (xuống 35
20.8 82
48.8
49 29.2 2
1.2
dốc)-(s)
Tâng cầu nhiều lần(số 33
19.6 76
45.2
59 35.1 0
0
5
lần)
Chạy trên địa hình tự 46
27.4 85
50.6
37 22.0 0
0
6
nhiên(500m/s)
Kết quả cho thấy: vốn hiểu biết của các em về sức bền của một số lớn học sinh
THPT rất kém do các em không quan tâm đến luyện tập thể lực, đa số các em
không biết rằng sức bền kém sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến học tập cũng như sự
phát triển của cơ thể.
2.2.1.3. Thái độ của học sinh trong học tập môn thể dục.
Về thái độ của HS đối với môn học, tôi đã điều tra và kết quả được thể
hiện qua bảng 3
Bảng 3. Kết quả điều tra lí do học sinh thích học môn công nghệ
Lí do thích học môn thể dục
Số phiếu

Tỉ lệ (%)
- Thầy, cô dạy dễ hiểu, hấp dẫn.
69
49,64
- Được sử dụng graph trong học tập.
50
36,5
- Thầy (cô) vui tính, yêu quý HS.
9
6,57
- Lí do khác.
10
7,3
4

Qua bảng số liệu trên cho thấy, lí do hàng đầu khiến HS thích học môn thể
dục là phương pháp giảng dạy của GV và một lí do thứ hai khiến cho HS yêu
thích môn học đó là được thực hành nâng cao thể lực . Điều này một lần nữa
khẳng định vai trò quan trọng của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong
luyện tập chạy bền trong dạy học bộ môn thể dục ở trường THPT.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên dạy môn thể dục:
+ Việc áp dụng các phương pháp luyện tập chạy bền còn chậm.
+ Việc học tập thêm các phương pháp mới còn hạn chế.
+ Tài liệu hướng dẫn gần như không có.
2.3. Biện pháp, giải pháp

8


2.3.1. Phương pháp thực nghiệm

2.3.1.1. Chọn trường, lớp thực nghiệm
Tôi đã tiến hành thực nghiệm ở khối lớp 10 trường THPT Nguyễn Hoàng:
Dựa vào kết quả học tập, kết quả khảo sát và phân loại học sinh, tôi chọn 04 lớp
của khối 10 (02 lớp thực nghiệm là 10B5, 10B6 và 02 lớp đối chứng là 10B2,
10B4) tương đối đồng đều nhau về số lượng cũng như chất lượng HS.
Trong quá trình thực nghiệm tôi đã trao đổi với với GV bộ môn của
trường để thảo luận và thống nhất nội dung cũng như phương pháp dạy.
2.3.1.2. Bố trí thực nghiệm
Các lớp tham gia trong đợt thực nghiệm được chia thành 2 nhóm: các lớp
dạy thực nghiệm và các lớp đối chứng.
Ở các lớp dạy thực nghiệm, tôi sử dụng các giáo án được thiết kế theo
hướng cải tiến, phát huy tính tích cực của học sinh trong luyện tập chạy bền. Ở
các lớp đối chứng, chúng tôi sử dụng các giáo án được thiết kế theo đúng nội
dung và qui trình trong SGK.
Các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng đều do cùng một GV dạy, đảm
bảo sự đồng đều về các mặt: thời gian, nội dung kiến thức .
2.3.1.3. Kiểm tra đánh giá
Các lớp thực nghiệm và đối chứng đều được kiểm tra cùng một đề. Các
bài kiểm tra của lớp thực nghiệm và đối chứng đều được chấm theo thang điểm
10 và chấm cùng một biểu điểm.
Sau khi thực nghiệm chúng tôi đã kiểm tra độ bền kiến thức của HS bằng
02 bài báo cáo thu hoạch sau bài thực hành và 01 bài kiểm tra 20 phút bằng các
câu trắc nghiệm khách quan.
Để đánh giá chất lượng lĩnh hội, vận dụng tri thức, tôi tập trung quan tâm
tới 3 tiêu chí, tương ứng với các câu hỏi, bài tập trong các đề kiểm tra như sau:
- Tiêu chí cơ bản: Phản ánh mức độ nắm vững qui trình, các bước chạy bền.
Tiêu chí này xác định HS có đạt được yêu cầu nhận thức cốt lõi, phân biệt được
với các vấn đề tương tự hay không.
- Tiêu chí vận dụng: Đánh giá mức độ hiểu sâu, rộng, toàn diện kiến thức, biết
vận dụng linh hoạt, sáng tạo các tri thức học được để giải quyết vấn đề. Nếu đạt

được cả 2 tiêu chí trên, có thể đạt được 8 điểm.
- Tiêu chí nâng cao: Khả năng vận dụng kiến thức đã học giải thích các hiện
tượng tương tự trong tự nhiên, khả năng sử dụng các thực nghiệm để nghiên
cứu, tìm tòi sáng tạo và thiết kế các thực nghiệm tương tự. Tiêu chí này nhằm
phân loại HS có năng lực nhận thức cao. Đạt tiêu chí này, có nghĩa HS đã nắm
hoàn chỉnh vấn đề và đạt điểm 9 - 10.
2.3.1.4. Phương pháp phân tích kết quả thực nghiệm
9


Kết quả thực nghiệm được phân tích để rút ra các kết luận khoa học mang
tính khách quan. Phân tích số liệu thu được từ thực nghiệm bằng phần mềm
Microsoft excel. Lập bảng phân phối thực nghiệm; Tính giá trị trung bình và
phương sai của mỗi mẫu. So sánh giá trị trung bình để đánh giá khả năng hiểu
bài và khả năng hệ thống hoá kiến thức của các lớp thực nghiệm so với các lớp
đối chứng, đồng thời phân tích phương sai để khẳng định nguồn ảnh hưởng đến
kết quả học tập ở các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Tính giá trị trung bình ( X ) và phương sai (S2)
Giá trị trung bình và phương sai của mỗi mẫu được tính một cách nhanh
chóng và chính xác bởi hàm fx trên thanh công cụ của phần mềm Excel. Các
bước thực hiện như sau :
1. Nhập điểm vào bảng số Excel.
2. Đặt con trỏ ở ô muốn ghi kết quả.
3. Gọi lệnh fx trên thanh công cụ.
4. Chọn lệnh tính trung bình (AVERAGE) để tính X , hoặc chọn lệnh tính
phương sai (VAR).
Với qui trình này, máy tính sẽ đưa ra bảng kết quả so sánh.
2.3.2. Những nội dung dạy học chạy bền cho HS THPT
Cự li thi đấu chaỵ bền trong 4 môn điền kinh phối hợp của thanh niên lứa
tuổi HS THPT là: nữ 800m, nam 1500m. Để rèn luyện sức bền cho HS và bồi

dưỡng những em có khả năng nội dung chạy bền được đưa vào chương trình dạy
học môn thể dục với tên gọi “Chạy cự li trung bình”. Đặc điểm của chạy cự li
trung bình là: người chạy phải chạy với tốc độ tương đối cao (dưới cực đại)
trong thời gian tương đối dài (6-12 phút). Do vậy , quá trình chạy cự li trung
bình có hiện tượng nợ ôxi, lượng axit lắc tích trong máu tăng, khiến người tăng ,
khiến người tập phải rèn luyện nhiều hơn mới có thể chạy nhanh, chạy hết cự li.
Nhiệm vụ dạy học chính trong chạy bền là: Rèn luyện kĩ thuật và rèn luyện sức
bền cho HS.
* Về kĩ thuật: Chủ yếu xây dựng kĩ thuật chạy hợp lí với việc tập luyện các
động tác bổ trợ:Chạy bước nhỏ , nâng cao gối, gót chạm mông, chạy đạp
sau.Tập kĩ thuật bổ trợ đánh tay.Tập kĩ thuật chạy giữa quãng: trên đường thẳng
và đường vòng. Ngoài ra còn phải dạy cho học sinh kĩ thuật xuất phát cao, chạy
tăng tốc sau xuất phát, chạy về đích và đánh đích.
* Về sức bền: Để nâng cao năng lực sức bền cho học sinh,giáo viên phải dùng
nhiều hình thức và các biện pháp tập luyện khác nhau,có như vậy nội dung
luyện tập sẽ bớt đơn điệu và gây hứng thú học tập cho học sinh.
Hình thức tổ chức vận động là một trong những hình thức đầu tiên có tác
dụng kích thích tập luyện và phù hợp với tâm-sinh lí lứa tuổi học sinh cần được
sử dụng nhiều. Tuy vậy hình thức này giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo
10


viên mà cần được nghiên cứu trong điều kiện cụ thể của trường để có nhiều trò
chơi hơn giúp cho buổi học thêm phong phú.
Đối với những trường không có đường chạy dài vì địa điểm chật hẹp nên
sử dụng hình thức chạy tại chỗ, chạy trong khu vực qui định ,chạy dích dắc,chạy
vòng số 8,
Với thời gian chạy tăng dần sau từng buổi tập.Các trường có cầu thang xa
lớp học cũngcó thể tận dụng những điều kiện luyện tập bằng hình thứcđi lên,
xuống cầu thang. Ở các trường có đường chạy dài (vòng quanh trường hoặc

vòng quanh một khu vực nào đó) có độ dài từ 200-400m nên sử dụng hình thức
chạy lặp lại nhiều lần. Chạy tốc độ trung bình 4-5 vòng, chạy biến tốc... cũng
giúp cho việc nâng cao sức bền rất tốt cho người tập. Tuy nhiên phải đảm bảo
nguyên tắc tăng dần cự li chạy sau từng buổi tập, không nên cho chạy dài ngay
từ những buổi đầu .
Hình thức tập chạy trên địa hình tự nhiên(chạy việt dã) là hình thức tập
luyện chủ yếu đối với tất cả các trường THPT. Tuy nhiên việc lựa chọn đường
chạy nên tận dụng các địa hình có sẵn như lên dốc, xuống dốc hố nước hoặc các
trướng ngại vật trên đường chạy để làm cho nội dung chạy thêm phong phú đỡ
nhàm chán.
Trong chương trình mới - chương trình chạy bền lấy việc phát triển sức
bền cho học sinh là nhiệm vụ hàng đầu. Do vậy việc rèn luyện chạy bền cho học
sinh THPT cần được GV xác định để lựa chọn nội dung, biện pháp luyện tập
phù hợp, lượng vận động hợp lí, giúp học sinh rèn luyện thường xuyên. Có như
vậy việc rèn luyện thể chất mới có hiệu quả và đảm bảo an toàn tuyệt đối trong
luyện tập và kiểm tra.
2.3.3. Những biện pháp phát huy tính tích cực của HS trong luyện tậpchạy
bền
Để làm được các nội dung trên tôi đã thực hiện những hoạt động sau:
Thứ nhất: Tôi sử dụng các trò chơi :
1/ Chạy xuôi và chạy ngược chiều theo tín hiệu : Hs chạy theo đội hình vòng
tròn, khi nghe 1 tiếng vỗ tay ( hoặc tiếng còi) thì chạy tiếp. Khi nghe 2 tiếng vỗ
tay ( hoặc tiếng còi) thì quay người chạy ngược lại.
2/ Chạy tiếp sức đối diện, chạy thoi với khoảng cách từ 30-50m cũng có tác
dụng tốt để phát triển sức bền tốc độ cho HS.
Thứ hai: Các động tác bổ trợ và rèn luyện kĩ thuật chạy:
Trong SGV các biện pháp bổ trợ chạy dạy cho HS là: Chạy bước nhỏ, chạy
nâng cao gối và chạy gót chạm mông. Theo tôi nên cho HS tập đủ các động tác
bổ trợ, cụ thể là thêm chạy đạp sau và bổ trợ kĩ thuật đánh tay.


11


Hình minh hoạ cho đi bước nhỏ

Hình minh hoạ cho nâng cao đùi và gót chạm
mông

H1
H2
H3
Ngoài ra, cần cho HS tập
thêm
các hoạ
biệncho
pháp:
Hình
minh
cho chạy đạp sau

H4

12


* Chạy tăng dần tốc độ từ 30 – 60m.
* Chạy nửa sức và 3/4 sức các đoạn 50 – 100m trên đường thẳng và đường
vòng nhằm xây dựng kĩ thuật chạy giữa quãng.
* Tập kĩ thuật xuất phát cao và chạy tăng tốc độ sau xuất phát.
* Tập kĩ thuật chạy về đích và đánh đích.

* Các hình thức tập chạy lên dốc, xuống dốc, chạy vượt chướng ngại vật
trong tự nhiên cũng có tác dụng tốt đối với việc hình thành kĩ thuật chạy việt dã
cho HS.
Song song với việc dạy kĩ thuật, kĩ năng trên, GV cần cung cấp các kiến
thức chuyên môn trong những thời gian nghỉ giữa các lần tập. Đó là: Kiến thức
về các giai đoạn kĩ thuật chạy, vấn đề phân phối sức trong chạy, xây dựng cảm
giác tốc độ chạy, giải thích các hiện tượng: đau sóc, hiện tượng cực điểm, hiện
tượng choáng trọng lực và cách khắc phục.
Thứ ba: Các biện pháp phát triển sức bền.
Theo tôi đây là nội dung chính để nâng cao sức bền cho HS, do vậy, các
biện pháp này cần được đưavào trong tất cả các bài tập chạy bền.Và cũng để
tránh nhàm chán, các biện pháp tập cần được thay đổi thường xuyên qua các
buổi tập. Mỗi khi đưa ra biện pháp tập luyện mới, GV cần hướng dẫn cụ thể từ
mục đích, yêu cầu đến cách tổ chức tập luyện cho HS ở trên lớp và tự rèn luyện
ở nhà, có như vậy HS mới chủ động và có ý thức rèn luyện thường xuyên.
Có thể tóm tắt một số biện pháp dạy học chính sau:
1/ Chạy tại chỗ hoặc chạy trong một khu vực nhất định trong một thời gian
quy định là hình thức tập chạy trong điều kiện không có đường chạy, địa điểm
tập chật hẹp. Với biện pháp này, cần yêu cầu HS chạy nhấc cao chân từ 10 –
20cm với tần số chậm (2 - 3 bước/ giây) . Thời gian có thể tăng dần sau mỗi
buổi tập (từ 1- 2 phút trong những buổi đầu và sau đó có thể tăng từ 5 hoặc 10
phút. Cách tập này có nhược điểm là đơn điệu, không gây hưng phấn tập đối với
HS. Do vậy nên hạn chế sử dụng hoặc cho tập như hình thức tập của biện pháp 2
hoặc 3). Nhưng có yêu cầu tăng dần thời gian chạy sau từng buổi tập.
2/ Chạy theo đường gấp khúc là hình thức thay đổi hướng chạy trên sân tập,
làm đường chạy dài hơn,nội dung chạy đỡ ức chế đối với người tập.Song sân tập
cần được chuẩn bị chu đáo ( kẻ vôi các đường gấp khúc).
3/ Chạy vòng số 8 là hình thức tập chạy đỡ chóng mặt khi chạy nhiều vòng.
Có thể sử dụng tốt đối với tất cả các trường.
4/ Chạy việt dã (chạy trên địa hình tự nhiên) đây là hình thức tập chạy trong

điều kiện đia hình có sẵn.Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả của biện pháp, người
GV cần nghiên cứu trước địa hình, cho kẻ vạch vôi, chăng dây hoặc cắm cờ để
xác định đường chạy cho HS. Hình thức tập chạy này khá phong phú, do vậy
cần được sử dụng nhiều trong các bài tập chạy bền đối với HS.
13


5/ Chạy theo địa hình quy định. Đường chạy được chuẩn bị như chạy việt dã
nhưng có thể bố trí thêm một số chướng ngại vật trên đường chạy.
6/ Đối với những trường có đường chạy dài khoảng 200 – 400m, GV có thể sử
dụng một số biện pháp sau:
* Chạy với đoạn đường được tăng dần độ dài qua các buổi tập.
* Chạy lặp lại các đoạn ( từ 200 – 400m).
* Chạy biến tốc(thay đổi tốc độ đoạn nhanh, đoạn chậm) với đoạn đường định
sẵn . Các biện pháp trình bày trên không có nghĩa là phải sử dụng hết đối với
HS, mà người GV cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của trường mình để lựa chọn,
xác định biện pháp tập luyện phù hợp. Tuy nhiên số lượng biện pháp càng nhiều
thì bài tập càng phong phú.
2.3.4. Để nâng cao tính tích cực của HS trong tập luyện chạy bền người GV
cần quan tâm:
2.3.4.1. Lựa chọn và chuẩn bị đường tập chạy thật chu đáo trước buổi tập:
* Tìm đường chạy đủ độ dài nếu đường vòng không nên quá ngắn (dưới
100m) làm HS ức chế khi phải chạy nhiều vòng.
* Đường chạy phải bằng phẳng để đảm bảo an toàn.
* Tận dụng việc chạy qua các địa hình tự nhiên như lên dốc,xuống dốc, vượt
qua hố nước . . . các dụng cụ tự làm vào kết hợp cho học sinh luyện tâp như: Sử
dụng các thanh chắn làm chướng ngại vật, dây cao su, vậy nặng buộc chân, ....
để nâng cao và tăng sức chịu đựng cho học sinh.
Cần hiểu rằng, hình thức tập chạy trên địa hình tự nhiên là hình thức được
sử dụng nhiều nhất trong trường THPT. Do vậy, việc lựa chọn được đường chạy

hợp lí sẽ làm phong phú và gây hứng thú cho học sinh.
2.3.4.2. Phối hợp các hình thức tập luyện khác nhau:
Trò chơi và các biện pháp phát triển thể lực. Luyện tập trên địa hình tự
nhiên và các phần chạy theo cự li quy định. Sự phong phú về hình thức và biện
pháp tập luyện sẽ hạn chế bớt những ức chế khi hiện động tác.
Tập sức bền bằng trò chơi vận động hoặc tập một số bài tập như: Nhảy
dây, tâng cầu tối đa, tập chạy phối hợp với thở “ Hai lần hít vào, hai lần thở ra’’
hoặc “Chạy vượt chướng ngại vật gặp trên đường chạy tự nhiên....Kết hợp chạy
với đi bộ và rút ngắn dần cự li hoặc thời gian đi bộ để tăng cự li hoặc thời gian
tập”.
Tập sức bền bằng đi bộ hoặc chạy trên địa hình tự nhiên theo sức khoẻ từ
300m nâng dần đến 500m, 600m, 700m , 800m.... hoặc tập theo thời gian từ 3
phút đến 8, 9 ,10, 12 , 20 .... phút.
Tập sức bền bằng các môn có tác dụng rèn luyện sức bền như: đi bộ thể
thao, chạy cự li trung bình, chạy cự li dài. Cũng có thể tập các môn cầu lông,
bóng rổ, bóng đá, bơi cự li trung bình hay dài....
14


Có thể tập cá nhân hoặc theo nhóm tại chỗ hoặc di chuyển theo vòng số 8
khi đi bộ, chạy.... thời gian tập thích hợp vào buổi sáng sớm (hoặc sau khi tập
bài thể dục sáng) hoặc vào chiều tối trước khi ăn cơm. Cũng có thể tập dưới hình
thức đi dạo trên quãng đường dài sau bữa ăn tối khoảng 1 giờ hoặc trước khi đi
ngủ.
2.3.4.3. Truyền thụ kiến thức xen kẽ giữa các biện pháp và các làn luyện tập
sẽ giúp HS nhanh hồi phục và nắm thêm các tri thức cần thiết.
Qua một số vấn đề ta có thể thấy thực chất việc giảng dạy thường xuyên
bị thói quen nói dài, giảng giải và làm mẫu quá sâu, quá kĩ trong khi thực chất
không cần đến thế. Bây giờ ta phải làm sao để đưa ra các phương pháp và hình
thức có thể khác nhau, sao cho giờ học đạt hiểu quả cao nhưng phong phú nội

dung hình thức tập luyện, đặc biệt để giờ học không quá căng thẳng mà vui tươi,
nhẹ nhàng, đạt hiểu quả cao về giáo dục, về rèn luyện sức khoẻ, thể lực học sinh.
Như vậy để học sinh có tích cực tập luyện nâng cao thể lực trong các giờ
dạy giáo viên cần chú ý những điểm cơ bản sau:
+ Giảm lí thuyết, giảng giải đến mức hợp lý, để tranh thủ thời gian cho học
sinh luyện tập.
+ Đổi mới cách tổ chức giờ học sao cho phù hợp với nội dung, điều kiện cụ
thể, giảm tối đa sự chờ đợi tập luyện, tạo điều kiện cho học sinh tự quản.
+ Tăng cường áp dụng các phương pháp trò chơi, thi đấu.
+ Tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá, tham gia đánh giá.
Không để giờ học căng thẳng, nặng nề, nên vui tươi, hấp dẫn, nhẹ nhàng nhưng
hiệu quả cao.
2.3.4.4.Những lưu ý mà GV cần thực hiện để đảm bảo an toàn:
Để đảm bảo an toàn trong tập luyện chạy bền, cần thực hiện những vấn đề sau:
* Phân nhóm sức khỏe HS để đưa ra lượng vận động phù hợp.
Thông thường GV chỉ phân biệt nam nữ để giao số lần hoặc cự ly luyện
tập. Nhưng như thế chưa đủ, cần phải phát hiện những trường hợp đặc biệt, sức
khoẻ yếu trong HS.Trong những trường hợp này cần miễn chạy bền cho những
HS có bệnh tim mạch.Giảm lượng vận động cho những HS sức khoẻ yếu (biểu
hiện trên sắc mặt, theo dõi mạch đập của tim . . .).
* Trong buổi tập chạy bền GV cần chú ý:
+ Hỏi tình hình sức khoẻ của HS trước khi vào buổi tập.
+ Không nên để lần chạy nào cũng bấm giờ trước mặt HS. Vì hình thức bấm
giờ sẽ làm HS cố gắng hết sức, nếu như việc tập luyện của HS chưa nhiều sự cố
gắng hết sức đôi lúc cũng làm các em không chịu đựng nổi.
+ Lượng vận động cần được tăng dần sau từng buổi tập.
+ Luôn cho HS theo dõi mạch đập trước trong và sau giờ tập để điều chỉnh
lượng vận động hợp lí.
15



+ Khi chạy với cự li dài 300 - 500m GV cần quan sát, phát hiện những HS mệt
mỏi quá sức để giảm bớt cự li, thậm chí cho ngừng chạy.
+ Khi chạy tới đích ( kết thúc cự li chạy) cần kiên quyết yêu cầu HS chạy
chậm thêm một đoạn không dưới 50m.
* Hướng dẫn tập ở nhà cần cụ thể để các em dễ thực hiện.
Điều kiện luyện tập ở nhà phụ thuộc nhiều vào địa điểm tập luyện. GV
nên đưa ra nhiều hình thức để HS lựa chọn.
- Ví dụ:
+ Đối với HS ở nhà không có đường chạy, nên hướng dẫn cho các em tập chạy
tại chỗ, chạy số 8 và tăng dần thời gian tập theo từng tuần: Tuần 1 mỗi ngày
chạy 1 phút, tuần 2 mỗi ngày chạy 1 phút rưỡi, tuần 3 mỗi ngày chạy 2 phút . . .
+ Đối với HS có đường chạy gần nhà, có thể thực hiện chạy tăng dần độ dài
theo từng tuần: Tuần 1 mỗi ngày chạy khoảng 200m , tuần 2 mỗi ngày chạy
250m , tuần 3 mỗi ngày chạy 300m . . .
+ Đối với HS gần nhà có đường chạy vòng quanh một khu vực nào đó ( với
đoạn đường dài 300m), nên hướng dẫn các em tập chạy lặp lại nhiều lần. Sau
mỗi lần cần để thời gian nghỉ phù hợp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi tiến hành thực nghiệm, tôi đã thu được kết quả sau:
Bảng 4: Bảng tần suất điểm kiểm tra của nhóm thực nghiệm và đối chứng
Lớp thực nghiệm
Điểm số Xi

ni

Tần suất
F%

Lớp đối chứng

ni

Tần suất F
%

4

0

0

3

3.19

5

4

4.12

7

7.45

6

10

10.31


16

17.02

7

12

12.37

27

28.72

8

39

40.21

21

22.34

9

21

21.65


20

21.28

10

11

11.34

Tổng số học sinh

97

94

Từ số liệu bảng 4, tôi có những kết luận sau:
+ Điểm kiểm tra của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng.
+ Ở nhóm thực nghiệm không có học sinh nào có điểm dưới trung bình nhưng
ở nhóm đối chứng có 3 học sinh đạt điểm dưới trung bình chiếm 3.19%.
16


+ Ở nhóm đối chứng không có học sinh nào đạt điểm 10 nhưng ở nhóm thực
nghiệm số học sinh đạt điểm 10 là 11 học sinh chiếm 11.34%.
+ Mod khác nhau ModTN = 8; ModĐC = 7.
Bảng 5: Bảng so sánh các tham số đặc trưng giữa các nhóm đối chứng và
thực nghiệm.
Phương án


n

X

X ±m

δ

Cv(%)

Thử nghiệm

97

8.0

8.0 ± 0.12

1.16

14.5

Đối chứng

94

7.23

7.23 ± 0.1

4

1.33

18.4

td
4.25

t(0.05) = 1.96
Từ số liệu bảng 5, chúng tôi kết luận là:
+ Điểm trung bình của nhóm TN cao hơn nhóm ĐC ( X TN = 8; X ĐC = 7.23).
+ Độ lệch chuẩn của nhóm TN thấp hơn nhóm ĐC ( δ TN = 1.16 ;ĐC = 1.33).
+ Hệ số biến thiên của nhóm TN thấp hơn nhóm ĐC (Cv(%)TN=14.5;
Cv(%)ĐC=18.4).
Từ các số liệu trên đây chúng ta có thể lập sơ đồ biểu diễn tần suất điểm của các
nhóm thí nghiệm và đối chứng.

Hình 1: Đồ thị biểu diễn tần suất điểm của nhóm đối chứng và đối chứng ở
bài kiểm tra số 1
Theo hình 1 ta thấy:
+ Tần suất điểm 8, 9, 10 của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng.
+ Tần suất điểm trung bình của nhóm đối chứng cao hơn nhóm thực
nghiệm.

17


Bảng 6: Kết quả thu được qua Đại hội TDTT lần thứ 8 Huyện Hà Trung
năm 2018

Số
TT
1
2
3
4

Họ và tên

Lớp

Môn

Kết quả

Bùi Văn Huấn
Nguyễn Thị Hoa
Trần Văn Mạnh
Đặng Thị Thu Hiền

10B5
10B6
10B4
10B4

Chạy 1500 m
Chạy 800m
Chạy 1500 m
Chạy 800m


Giải Ba Huyện
Giải nhất Huyện
Giải KK Huyện
Giải KK

Bảng 7: Kết quả thu được qua thi học sinh giỏi tỉnh năm học 2017- 2018
Số Họ và tên
Lớp
Môn
Kết quả
TT
1
Bùi Văn Huấn
10B5
Chạy 1500m
KK Tỉnh
2
Nguyễn Thị Hoa
10B6
Chạy 800m
Ba Tỉnh
Như vậy qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy số HS không thực hiện được kỹ
thuật và số học sinh thực hiện ở mức độ trung bình giảm đi; số HS thực hiện ở
mức độ khá giỏi được tăng lên.
Mặc dù chất lượng đạt được chưa cao song thông qua các giờ dạy tôi có
thể thấy học sinh đã có ý thức tích cực luyện tập không còn các biểu hiện chạy
cắt vòng, chạy bỏ vòng, chạy không hết cự li yêu cầu, khi chơi trò chơi phát
triển sức bền thì các em tham gia rất nhiệt tình.Việc được luyện tập bằng các
phương pháp khác nhau giữa các tiết học đã rèn cho học sinh ý chí quyết tâm và
nghị lực của bản thân.

Do đó ta có thể kết luận: Dạy học theo phương án thực nghiệm mang lại
kết quả cao hơn so với phương án bình thường và kết quả này có ý nghĩa.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận

18


Trên đây là phương pháp dạy học cùng với thực tế giảng dạy của bản thân
tôi, tôi thấy rằng trong quá trình dạy học, giáo viên cần cố gắng áp dụng các
phương pháp dạy một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung của bài và
phù hợp với đối tượng học sinh đồng thời kết hợp với các thủ thuật sư phạm
nhằm kích thích hứng thú học tập của các em và giúp cho các em học tập đạt kết
quả. Giáo viên cố gắng bám sát các bước cơ bản trong tiến trình bài dạy và phân
phối thời gian hợp lý. Tuy nhiên để vận dụng thành công được phương pháp trên
còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như (Nội dung, mục đích, … của bài). Vì vậy
tôi rất mong sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để phương pháp của tôi
hoàn thiện hơn.
3.2. Đề xuất
- Đề nghị nhà trường, Sở Giáo Dục tiếp tục đầu tư trang bị đầy đủ các thiết bị
dụng cụ hỗ trợ luyện tập.
- Mở các lớp chuyên đề bộ môn để giáo viên đi dự nâng cao chuyên môn.
- Mở các lớp bồi dưỡng học chuyên môn để có thể trao đổi các phương pháp
tập luyện giữa các giáo viên.
Trên đây là một số kiến nghị,đề nghị của bản thân tôi trong quá trình thực
hiện sáng kiến, kính mong các cấp lãnh đạo đặc biệt lưu tâm và đầu tư nhiều hơn
nữa trang thiết bị dạy học để đem lại hiệu quả cao trong công tác dạy-học ở các
trường THPT.


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hoá ; ngày 25 tháng 5 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

Lê Dũng

TT Tên sách

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tác giả

Nhà

Năm
19


1

2

3
4


luận
và Nguyên Toán

phương pháp giáo Phạm Danh Tốn
dục thể chất
Sách điền kinh
PGS.TS Dương Nghiệp Chí
PGS.TS Nguyễn Kim Minh
PGS.TS Phạm Khắc Học
TS.Võ Đức Phùng
TS. Nguyễn Đại Dương
GV. Nguyễn Văn Quảng
GV. Nguyễn Quang Hưng
Sinh lý học TDTT PGS. Lưu Quang Hiệp
Phương
pháp TS. Vũ Đào Hùng
nghiên cứu khoa
học TDTT

xuất bản
TDTT

xuất bản
1993

TDTT
Hà Nội

2000

TDTT
Giáo dục


1995
1998

20



×