Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.37 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP. THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC RÈN CHỮ VIẾT ĐẸP CHO
HỌC SINH LỚP 2 TRONG GIỜ TẬP VIẾT VÀ CHÍNH TẢ

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lĩnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Vệ 1
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2018


1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
- Hiện nay công tác dạy học được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong các nhà
trường. Bởi vì “Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức
và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực
hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ
năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả
năng giải quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của
mỗi người”
- Trong dạy học ở bậc Tiểu học người giáo viên phải luôn coi trọng việc
rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã từng nhận xét: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học
sinh viết đúng, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự
trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”.
- Việc rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp là vô cùng cần thiết. Nếu


có ý thức giữ gìn sách vở, nắn nót chữ viết thì luôn có tính cẩn thận, kiên trì, có
tinh thần học tập, có phẩm chất đạo đức tốt. Là một giáo viên dạy tiểu học tôi
xác định rõ được vị trí, tầm quan trọng của việc viết đúng, viết đẹp ở cấp Tiểu
học, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, đi sâu vào việc giúp học sinh viết đúng, viết
chữ đẹp và có những bộ vở sạch sẽ.
- Trong dạy học tôi nhận thấy nếu các em viết đẹp, viết đúng mẫu, đúng
tốc độ thì có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy mà việc học tập đạt kết quả cao.
Ngược lại, những em viết xấu, tốc độ chậm, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả dẫn tới
chất lượng học tập không cao. Hiện nay, việc có bộ vở sạch, đẹp là không ít
xong còn nhiều em vẫn xem nhẹ vấn đề này. Nhiều em còn ý nghĩ lệch lạc chỉ
cần học giỏi các môn Toán, Tiếng Việt còn chữ viết chỉ cần đọc được chứ không
cần đẹp. Tình trạng bị điểm thấp do chữ xấu, trình bày tuỳ tiện, cẩu thả chiếm tỷ
lệ không nhỏ. Có những học sinh khi viết xong quyền vở nhầu nát, quăn mép,
bìa sách xộc xệch.
- Từ lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm về việc rèn
chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” để nghiên cứu.
Mục đích liên tục rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Là nền móng rèn
cho các em phát triển thành một con người toàn diện để có đủ tư cách bước tiếp
lên các cấp học cao hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Dạy học và nghiên cứu kinh nghiệm để nâng cao kĩ năng sư phạm cho
bản thân.
- Tìm ra những vướng mắc khi dạy Tập viết và viết Chính tả ở lớp 2,
nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cũng như chất lượng vở sạch chữ đẹp.
- Tự đặt mình vào các tình huống dạy học Tập viết ở lớp 2 để suy nghĩ, đề
xuất cách giải quyết, hình thành kĩ năng rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 nói
riêng và học sinh Tiểu học nói chung.
- Giúp học sinh viết đẹp, đúng chữ mẫu, có độ liền nét giữa các con chữ,
nét chữ mềm mại, tốc độ nhanh.
- Giúp cho học sinh biết các trình bày vở một cách khoa học đẹp mắt.

2


- Rèn học sinh tính cẩn thận, óc sáng tạo, tinh thần kỷ luật và khiếu thẩm
mỹ.
- Tăng chất lượng dạy học cho học sinh lớp 2B tại trường Tiểu học Đông
Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: “Một số kinh nghiệm về việc
rèn chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả”.
- Đề tài được ứng dụng trực tiếp trong năm học 2017 – 2018 cho học sinh
lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các phương pháp: Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin,
thống kê, xử lí số liệu....
- Nghiên cứu tài liệu về công tác rèn luyện chữ viết cho học sinh tiểu học
để chọn lựa những thông tin phù hợp với học sinh.
- Đánh giá kết quả ứng dụng của đề tài qua hoạt động thực tiễn dạy học
cho học sinh lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Môn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình hình thành
ngôn ngữ của học sinh. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con người. Khả năng
sử dụng ngôn ngữ là biểu hiện trình độ văn hoá của con người. Dạy ngôn ngữ
tiếng Việt là dạy kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Dạy tiếng Việt là yêu cầu không
thể thiếu trong bậc học phổ thông, nhất là bậc Tiểu học.
Dạy viết là một trong bốn kĩ năng dạy học Tiếng Việt mà giáo dục Tiểu
học phải có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh. Chữ viết là một hệ thống tín hiệu
bằng ghi hình có chức năng giao tiếp và quy định thống nhất trong quá trình lịch
sử, chữ viết có nhiều biến đổi khác nhau. Trong trường Tiểu học mẫu chữ được

quy đinh qua phân môn Tập viết ở lớp 1, 2, 3 và chữ viết đúng mẫu, đều nét,
đúng chính tả qua phân môn Chính tả.
Việc rèn chữ đẹp cho học sinh chính là giúp các em rèn luyện óc thẩm
mỹ, yêu thích quyển vở có chữ viết đẹp, rõ ràng, trình bày khoa học. Viết chữ
đúng, đẹp là nhằm luyện những phẩm chất đạo đức tốt, thói quen cẩn thận, tỉ mỉ,
làm việc ngăn nắp, khoa học. Việc viết đúng, rõ ràng, sạch và đẹp các bài viết để
thuận lợi cho quá trình đọc bài, học bài, ôn bài… là cơ sở để học các môn học
khác.
Rèn viết chữ đẹp chính là luyện tính cách con người mới, cảm nhận được
vẻ đẹp tinh tế qua từng nét chữ, yêu quý, hiểu rõ hơn các kiểu chữ viết tiếng
Việt, để khi viết thể hiện rõ “ nét chữ, nết người ”.
2.2. Thực trạng về việc rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 2B - Trường
Tiểu học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
- Qua nhiều năm dạy Tiểu học, khi luyện viết cho học sinh kết hợp với
kinh nghiệm học luyện viết chữ đẹp của bản thân tôi nhận thấy: Nét chữ của
giáo viên chính là kiểu chữ mẫu gần gũi, sinh động, có ảnh hưởng lớn nhất tới
chữ viết của học sinh. Động cơ thúc đẩy học viết, luyện để viết đẹp chính là lòng
say mê, tinh thần quyết tâm luyện chữ viết của người học. Vì vậy, người giáo
3


viên rất cần thiết phải bồi dưỡng cho học sinh tinh thần này. Một yếu tố rất quan
trọng để viết đẹp đó chính là cách cầm bút, tư thế ngồi viết của người viết. Đây
cũng là một yếu tố mà giáo viên nên chú trọng để sửa và rèn cho học sinh. Một
phương pháp thực sự cần thiết mà giáo viên cần phải lưu ý đó là quy trình, kỹ
thuật viết của học sinh. Tôi nghĩ rằng tất cả những yếu tố trên sẽ giúp học sinh
tiến bộ nhanh và hiệu quả trong quá trình học và luyện viết đẹp.
* Quy định của Thông tư 22 về chuẩn kiến thức, kĩ năng phù hợp với
học sinh lớp 2 các mức như sau:
- Viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ.

- Viết đúng chính tả.
- Viết tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút.
- Trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp.
*Thực tế của lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1 – Năm học:
2017- 2018:
– Việc viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ: Từ khi nhận lớp qua quan sát chữ viết
của học sinh, tôi thấy khả năng nắm các nét cấu tạo nên chữ cái, nhất là chữ cáí
viết hoa còn lơ mơ, dẫn đến một số em viết chưa đúng mẫu, cỡ chữ quy định
như em Huyền Thương; Ngọc Hà, Hà Trang….
Nhiều em viết chưa chữ thường gẫy nét, các nét khuyết trên, khuyết dưới
thường chưa đúng ly, các nét chữ không đều. Trong một bài có nét nghiêng, nét
đứng, các con chữ viết rời rạc chưa có sự kết nối liền mạch, khoảng cách giữa
các chữ chưa đều như em Bảo, Tuấn Tú, Thảo Nguyên, Hồng Quân,…..
– Việc viết đúng chính tả: Trong một bài chính tả, một số học sinh còn
sai nhiều lỗi chính tả vì nắm cấu tạo âm, vần, từ, câu chưa chắc như em Tuấn
Anh, Hoàng Đức, Trọng…. Hơn nữa trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2
có mẫu chữ hoa, loại chữ hoa kiểu 2 bay bổng, mềm mại có nhiều nét uốn lượn
rất khó viết.
- Việc viết tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút: Trong lớp, số ít học sinh
viết còn chậm so với các bạn khác, chưa đúng theo quy định tốc độ tối thiểu 30
chữ / 15 phút đối với học sinh lớp 2 như em Hồng Quân, Vũ Tuấn Anh….
– Việc trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp: Cách trình bày trong
một bài chính tả chưa sạch, đẹp do sai lỗi chính tả và chữ chưa đúng kích cỡ,
nên các em tẩy xoá rất bẩn như em Mạnh Hoàn, Đức Thịnh, Tuấn Anh….
- Trước tình hình đó tôi đã tiến hành chấm vở sạch chữ đẹp và kiểm tra
việc sử dụng bút, thước của học sinh. Phân loại nhằm biết điểm yếu của từng em
về chữ viết để tiện giúp đỡ rèn luyện.
Qua tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng, kết quả đạt được ở đợt chấm
Vở sạch chữ đẹp giữa kỳ 1 như sau: Tổng số học sinh: 46 em
Xếp loại chung giữa học kỳ I năm học 2017 - 2018

Xếp loại
A
B
C
Số học sinh
16 em
29 em
1 em
Tỉ lệ %
34,8 %
63,1 %
2,1 %
Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong dạy học, tôi xin đề xuất một số
biện pháp nhỏ: Giúp học sinh nắm vững các nét cấu tạo chữ; viết đúng mẫu cỡ

4


chữ; viết chữ đếu nét, liền mạch các con chữ trong một chữ; chú ý đến cấu
tạo âm, vần, dấu thanh, tiếng, từ, câu khi viết chính tả; cách trình bày bài sạch
đẹp… nhằm nâng cao chất lượng, đưa chữ viết của học sinh ngày một tiến bộ.
2.3. Các giải pháp thực hiện “Một số kinh nghiệm về việc rèn chữ viết
đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” tại lớp 2B trường Tiểu
học Đông Vệ 1, Thành phố Thanh Hóa.
2.3.1. Giải pháp 1: Đề cao sự gương mẫu về chữ viết của giáo viên.
Đặc điểm của học sinh tiểu học là hay bắt chước, nếu chữ viết của giáo
viên mà đẹp thì hàng ngày được quan sát, tiếp xúc học sinh sẽ có ý thức viết đẹp
hơn. Chữ viết có đẹp thì khi viết mẫu cho học sinh mới đẹp được. Vì vậy theo
tôi vấn đề đầu tiên và vô cùng quan trọng đó là bản thân giáo viên phải có ý thức
rèn luyện chữ viết của mình.

Giáo viên cũng phải thực sự chuẩn mẫu khi viết trên bảng, khi nhận xét
vào vở, ghi học bạ. Lời nhận xét của cô giáo phải có tác dụng chỉ bảo, khuyến
khích học sinh vươn lên trong học tập và chứa đựng tình cảm đối với học sinh.
Ví dụ: Nếu học sinh viết xấu, giáo viên chỉ nên ghi nhận xét: “Chữ em
viết chưa đẹp, cần phải luyện viết nhiều hơn” giáo viên không nên nhận xét:
“Chữ em viết quá xấu”.
Khi chấm bài nếu phát hiện thấy nét chữ viết chưa được đẹp, giáo viên
cần nắn nót viết mẫu sang lề vở để các em có ý thức sửa và yêu cầu luyện viết
thêm mỗi chữ một dòng.
Giáo viên cho học sinh mỗi em một tấm bìa kê tay có bảng chữ mẫu (cả
chữ thường và chữ hoa) hàng ngày để trong cặp. Học sinh sẽ sử dụng miếng bìa
này luyện viết khi ở nhà hoặc trong các giờ luyện viết ở lớp.
Giáo viên cũng cần chú ý đến chữ viết và cách trình bày của bản thân.
Qua chữ viết của cô giáo mà học sinh hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa quan trọng
của chữ viết đẹp. Phải là người gương mẫu tiên phong về chữ viết cho các em.
Trình bày bảng đẹp sẽ giúp học sinh rất nhiều trong việc luyện viết chữ đẹp.
Rèn luyện để có chữ viết đẹp là một yêu cầu cấp thiết của người giáo viên
tiểu học khi đứng trên bục giảng để rèn chữ viết cho học sinh.
2.3.2. Giải pháp 2: Nắm vững các nét cấu tạo chữ viết tiếng Việt và
viết đúng cỡ chữ.
Việc luyện chữ là việc cần làm nhưng không thể nóng vội, cần phải kết
hợp cả sự tỉ mỉ, lòng kiên trì và tình yêu thương học sinh thì mới tiến tới thành
công được. Qua dạy học tôi đã đúc rút cho mình được một số kinh nghiệm. Cần
phải phân loại chữ viết theo từng nhóm chữ. Bởi vì, số lượng thì rất nhiều (29
chữ) thời gian dành cho riêng môn tập viết cũng không nhiều. Việc phân loại
chữ viết theo từng nhóm là vô cùng cần thiết. Khi rèn chữ viết tôi đã chú trọng
vấn đề rèn dứt điểm từng loại chữ. Học sinh viết đúng, viết đẹp loại chữ này mới
chuyển sang loại khác. Ngay đầu năm học cần có kế hoạch cụ thể cho từng tuần,
tháng, học kỳ, năm học.
Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mối quan hệ về cách viết các chữ cái

tôi chia ra các nhóm chữ sau:
Nhóm 1: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong

5


Tôi thấy nhóm chữ này để viết được đúng, đẹp theo chữ mẫu là rất khó
khăn. Bởi vì, tất cả các chữ trong nhóm đều là những nét cong, nét lượn, viết
không đẹp chữ sẽ méo mó, tròn quá hoặc dài quá …
Đối với nhóm chữ này thì chữ cơ bản là chữ O, nếu chữ O viết đẹp thì
những chữ khác viết cũng sẽ đẹp. Tôi đã hướng dẫn học sinh viết chữ O như
sau:

Khi dạy chữ O thường kẻ khung hình chữ nhật đứng, chia khung hình
vuông đó làm 6 ô vuông bằng nhau. Đánh dấu 4 điểm giữa các cạnh của hình
chữ nhật, dùng phấn màu chấm thành hình chữ O sau đó tô lên dấu chấm. Vừa
viết vừa hướng dẫn cho học sinh quan sát chữ mẫu.
Sau đó, yêu cầu học sinh nêu lại kích cỡ chữ mẫu nhỏ: Chiều cao1ly, rộng
gần 1ly. Khi viết chữ O điểm đặt bút phải thấp hơn đường kẻ ngang, viết nét
cong chạm đường kẻ ngang trên rồi lượn sang trái vòng xuống chạm đường kẻ
ngang dưới, đưa nét bút cong lên điểm dừng bút ở tại điểm bắt đầu đặt bút. Lưu
ý phải có dấu nhấn với hai tác dụng: ghi dấu nét xuất phát là điểm thêm sau để
thành chữ O, điểm dừng để nối chữ khi viết nhanh.
- Nếu viết chữ Ơ chỉ cần thêm dấu “ ’ ” nhỏ phía bên phải trên đầu chữ O.
Chân dấu phụ này chạm điểm dừng bút.
Tương tự các con chữ c, e, ê, x cũng có các nét cong như vậy:

Nhóm 2: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét
móc (hoặc nét thẳng):


Đối với nhóm chữ này thì chữ cơ bản là chữ cái a. Khi viết chữ a tôi cũng
hướng dẫn tương tự như chữ O nhưng điểm đặt bút thấp hơn. Khi lượn nét cong
đến điểm dừng thì lia bút tới đường kẻ ngang giữa đưa nét bút thẳng xuống viết
nét móc phải. Khi viết nét móc phải tôi đã lưu ý học sinh viết nét thẳng cần phải
kéo quá nửa gần sát đến ly mới được viết nét đá hất, nếu viết nét đá hất sớm quá
6


thì dẫn đến chữ viết sẽ choạc còn nếu như viết nét thẳng sát xuống dòng kẻ mới
viết nét đá hất thì dẫn đến nét đá hất sẽ nhọn, chữ viết cứng, gẫy nét và rất xấu.
Các chữ ă, â viết tương tự, giáo viên chỉ cần lưu ý cách viết dấu mũ “ ^ ”.
Đối với dấu mũ từ phía trái trên đầu chữ a lia bút lên trên không viết một nét gấp
khúc từ trái qua phải, lưu ý hai chân dấu mũ không được chạm đầu chữ cái a.
Khi viết nét cong “ O ” cần phải lưu ý đáy nét cong không chạm vào đầu chữ a
như sau:

Đối với các chữ cái d, đ, q có chiều cao gấp đôi đơn vị chữ, chiều ngang
giống như chữ a, cách viết tương tự:

Nhóm 3: Nhóm các chữ cái có các nét cơ bản là nét móc:

Ở nhóm các chữ cái này trọng tâm rèn luyện là nét móc ngược, nét móc
xuôi và nét móc hai đầu, ở nét móc ngược và móc xuôi được quy định như sau:
1. Điểm đặt bút
2. Điểm uốn lượn.
3. Điểm kết thúc.
Đối với nét móc hai đầu
1. Điểm đặt bút.
2. Điểm tiếp giáp giữa hai nét móc.
3. Điểm kết thúc

Khi viết điểm uốn lượn giáo viên nên lưu ý như đã viết nét móc phải của
chữ a sau khi viết các nét móc thì việc kết hợp của từng nét ở từng con chữ cũng
có sự khác nhau.
Ví dụ: Đối với chữ n, m nét móc xuôi thứ nhất viết đến dòng kẻ đậm. Lia
bút lên nửa ô ly viết nét móc hai đầu rộng 1,5 ly, cao 1 ly. Điểm uốn lượn cần
lượn rộng và phải lượn tròn nếu quy định chữ n có độ rộng 1,5 ly thì điểm kết
thúc phải dừng lại ở độ rộng 1 li Cách viết chữ m tương tự như ở trên.

Khi viết chữ t giáo viên cần lưu ý học sinh chữ t có độ cao đặc biệt là 1,5
7


li, độ rộng nét móc ngược nửa ô ly nhưng học sinh cứ viết lên 2 ly, rộng 1 ly. Vì
thế trong khi chấm bài tôi phải chữa và viết mẫu cẩn thận như sau:

Qua dạy học tôi thấy nhiều học sinh viết chữ n, m, p rất xấu chữ viết
thường từ nét hoặc nhóm nét nhưng khi đã được tôi giúp một cách tỉ mỉ thì các
em đã sửa được rất nhanh và chữ viết đẹp.
Nhóm 4: Là nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét
cong phối hợp với nét móc):

Từ các nét cơ bản ở nhóm 3 nếu học sinh đã được luyện viết đều đẹp và
đẹp thì các em dễ dàng viết đẹp các chữ cái ở nhóm 4.
* Đối với nhóm chữ này tôi tập trung rèn luyện cho các em nét khuyết
trên và nét khuyết dưới chuẩn mẫu: Cao 2 ly rưỡi, rộng nửa ô ly

* Cách viết chữ k, h: Khi các em đã viết được nét sổ ngay ngắn tôi cho
viết nét khuyết, trước khi viết lưu ý nét khuyết xuôi cũng như nét khuyết ngược
đều có độ cao 2,5 ly (trong thực tế nhiều em chỉ viết hai ly)


- Nét khuyết xuôi
- Nét khuyết ngược
1. Điểm đặt bút
1. Điểm đặt bút
2. Điểm uốn lượn
2. Điểm uốn lượn
3. Điểm dừng bút
3. Điểm dừng bút
Khi viết nét khuyết tròn cần lưu ý học sinh nét khuyết cần thon và tròn
đầu, không viết nét khuyết quá to hay quá nhọn, điểm giao nhau giữa nét chéo
và nét sổ thẳng ở đường kẻ giữa.
Khi viết chữ b giáo viên lưu ý học sinh viết nét thắt không nên viết quá to
hay quá nhỏ viết nét cong cần phải lượn vào một chút trước khi viết nét thắt như
8


sau:

Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét thắt phối hợp với nét cong:

Ở nhóm chữ này các nét móc, nét cong, nét thắt các em đều đã được
luyện.
2.3.3. Giải pháp 3: Rèn cách viết các chữ cái viết hoa.
Căn cứ vào sự cấu tạo, nét giống nhau của các chữ tôi chia chữ hoa ra
thành các nhóm nhỏ như sau:

Khi dạy các chữ hoa cần giúp học sinh:
+ Bước đầu luyện viết vào vở ô ly, giáo viên viết mẫu các chữ lên bảng, từ
điểm bắt đầu, điểm uốn lượn và điểm kết thúc của từng chữ, học sinh được
luyện viết vào bảng con nhiều lần. Khi các em đã viết đẹp tôi cho viết vở có ô ly,

khi viết cũng phải tính toán cẩn thận xem xét thứ nhất bắt đầu từ hàng ly thứ
mấy và kết thúc vào điểm nào.
Ví dụ: Khi dạy viết chữ B giáo viên kẻ các ô vuông như hình bên, cho học
sinh quan sát chữ B và nhận xét.
Chữ B cao 5 ly (6 đường kẻ), rộng 4,5 ly

9


+ Gồm 2 nét: nét 1 giống móc ngược trái, nhưng phía trên hơn lượn sang
phải, đầu móc cong hơn, nét 2 là kết hợp của hai nét cơ bản: cong trên và cong
phải nối liền với nhau, tạo vòng xoắn nhỏ giữa thân chữ. Cụ thể cách đặt bút:
Nét 1: Đặt bút trên đường kẻ 6, dừng bút trên đường kẻ 2.
Nét 2: Từ điểm dừng bút của nét 1, lia bút lên đường kẻ 5, viết 2 nét cong
liền nhau, tạo vòng xoắn ở gần giữa thân chữ, dừng bút ở giữa đường kẻ 2 và
đường kẻ 3.
Song song với việc rèn chữ viết thì vấn đề giữ vở sạch là vô cùng cần
thiết.
2.3.4. Giải pháp 4: Nắm vững kỹ thuật viết liền mạch.
Để đảm bảo tốc độ viết, người ta không thể viết rời từng chữ mà phải di
chuyển dụng cụ viết đưa nét chữ liên tục theo kỹ thuật viết liền mạch. Viết xong
chữ cái đứng trước viết tiếp đến chữ cái đứng sau có như thế mới không rời rạc
và mới mềm mại được. Tôi đã chia kỹ thuật viết liền mạch thành các trường hợp
sau:
2.3.4.1. Trường hợp viết nối thuận lợi.
Khi viết các trường hợp này cho học sinh đưa tiếp nét bút từ điểm dừng
bút của chữ cái đứng trước nối sang điểm đặt bút của chữ cái đứng sau một cách
thuận lợi theo hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải.
Ví dụ:
u nối với ô; ô nối với n


2.3.4.2. Trường hợp viết nối không thuận lợi.
Trường hợp này chữ cái đứng trước không có liên kết với chữ cái đứng
sau. Vậy khi viết đặc biệt lưu ý cho học sinh không nhấc nét bút lên mà khi viết
đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước thì lia bút đến điểm bắt đầu của chữ
cái đứng sau.
Ví dụ: Viết các vần: an, am anh, en, ên, in, un…
Viết từ: cành chanh…

Đối với chữ có hai chữ cái đứng cạnh nhau đều không có nét liên kết, phải
hướng dẫn cho học sinh tạo nên nét liên kết để tránh việc nhấc nét bút lên.
Ví dụ: Víêt chữ ngh, ch, th, ph, kh, tr, gh, gi…

10


2.3.4.3. Chú ý khoảng cách giữa các con chữ, các chữ với nhau.
Ví dụ: nếu học sinh viết chữ “lá sen” mà khoảng cách các con chữ xa quá
sẽ không đẹp, dày quá cũng không đẹp.
Nếu học sinh viết khoảng cách giữa các chữ cái đều chữ sẽ đẹp

2.3.4.4. Kỹ thuật viết dấu phụ và dấu thanh
* Về dấu phụ: Lỗi này thường phổ biến nhiều ở học sinh nhưng vẫn có em
mắc phải.
Đối với các dấu phụ cần đặt ở vị trí phía trên đầu các chữ cái, không chạm
vào đầu các chữ cái. Với dấu “ ’ ” của chữ Ơ dấu hơi có điểm dừng bút chạm
vào điểm dừng bút của nét cong khép kín. Với dấu “ ’ ” của chữ ư có điểm dừng
bút chạm vào đầu của móc thứ hai.
Về dấu câu: Cần lưu ý viết dấu “ / ” và “ \ ”; (?); (~), (.) phải đặt đúng vị
trí cần đặt.

Khi học viết các chữ cái và các dấu phụ, dấu thanh đẹp thì việc rèn viết
đẹp các chữ hoa là vô cùng cần thiết.
2. 3. 5. Giải pháp 5: Rèn cách viết chữ ghi âm tiết văn bản để đảm bảo
tốc độ viết.
- Khi viết ứng dụng, để đảm bảo tốc độ viết nhanh, có thể viết liền mạch
tất cả các con chữ trong một chữ rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ và dấu
thanh)
Ví dụ: Viết chữ "nâng", "tiếng"

...................................................................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................................................................................................

- Khi viết chữ " nâng", viết các nét từ trái sang phải, lia bút liền nét 1, 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8. viết liền mạch "nang" rồi đặt dấu ^ trên chữ a để thành "nâng"
- Khi viết chữ " tiếng" Viết từ trái sang phải, viết nét 1 lia bút viết nét 2, 3,
4, …, 8, sau đó nhấc bút viết nét 9, 10, 11. Viết liền mạch sau đó đặt dấu phụ
cho các con chữ t, i, ê rồi đánh dấu / để thành chữ " tiếng".
Với cơ sở này học sinh xác định quy trình viết các chữ âm tiết theo hướng
tối ưu nhất (Thực hiện viết liền mạch, lia rê bút) giảm tối đa các lần nhấc bút để
từ đó tốc độ viết được nâng lên và như vậy sẽ giúp cho việc tiếp thu văn bản,
hiểu văn bản được sâu sắc hơn. Trình tự các nét trong một chữ ghi âm tiết cũng
được khắc sâu hơn.
11


* Lưu ý: Khi dạy viết các chữ cái viết thường như sau:
+ Mỗi chữ cái viết hoa có thể do một hoặc nhiều nét tạo thành, giữa các
nét có sự tiếp giáp tại một điểm (điểm tiếp, điểm dính). Khi dạy chữ viết có từ

hai nét trở lên thì ngoài yêu cầu viết đúng mẫu các nét còn phải lưu ý sự chuyển
tiếp giữa các nét một cách tự nhiên không tạo chỗ gãy dẫn đến làm giảm vẻ đẹp
của chữ.
+ Ngoài việc xác định số nét của mỗi chữ cái viết hoa giáo viên giúp học
sinh xem mối quan hệ giữa các nét với nhau. Cụ thể là xem giữa các điểm kết
thúc của nét liền trước với điểm bắt đầu của nét liền sau có trùng hay không.
Nếu điểm của nét liền trước trùng với điểm bắt đầu của nét liền sau có nghĩa là
sau khi kết thúc nét liền trước ta chuyển sang nét tiếp theo. Trường hợp này gọi
là liên kết thực.
+ Nếu điểm kết thúc của nét liền trước không trùng với điểm bắt đầu của
nét liền sau thì xảy ra ba trường hợp:
- Một là: điểm bắt đầu của nét liền sau nằm trên một điểm bất kỳ của nét
liền trước (không phải là điểm kết thúc của nét liền trước) trường hợp này thì ta
rê bút và gọi là liên kết thực có lặp đoạn.
Ví dụ: Chữ "h" nét khuyết trên + liên kết thực có lặp đoạn + nét móc 2
đầu:

- Hai là: Điểm bắt đầu của nét liền sau nằm ngoài nét liền trước nhưng có
một điểm khác của nét liền sau nằm trên nét liền trước gọi là điểm tiếp giáp.
Ví dụ: Chữ a: Nét cong kín + Điểm tiếp giáp + nét móc ngược

- Ba là: Toàn bộ nét liền sau nằm ngoài nét liền trước. Trường hợp này ta
nhấc bút chạy một vòng tưởng tượng trên không rồi mới đến điểm bắt đầu của
nét liền sau. Đây ta quy ước là liên kết ảo không có tiếp điểm
2.3.6. Giải pháp 6: Sửa tư thế ngồi, cách cầm bút cho học sinh.
Qua dạy học tôi thấy việc học sinh ngồi chưa đúng tư thế trong khi viết
còn rất nhiều. Từ đầu năm tôi đã cho các em cách ngồi viết đúng tư thế, khi ngồi
viết phải ngồi đúng tư thế, lưng thẳng, không tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi,
hai mắt cách vở từ 25 - 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay
trái tỳ vào mép vở giữ không xê dịch khi viết. Thường xuyên nhắc sửa tư thế ở

tất cả các giờ học vì học sinh lứa tuổi này rất chóng quên.
Việc học sinh học cách cầm bút phải được thực hiện ngay từ lớp 1 xong
nhiều em đã thành có tật rất khó sửa, đối với những em này phải có lòng kiên trì
một cách tỉ mỉ. Phải cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa)
bàn tay phải với điểm tựa là mép cùi của bàn tay. Cầm bút phải thật tự nhiên,
12


nếu cầm chặt quá sé khó vận động, còn lỏng quá sẽ không điều khiển được bút.
Lưu ý học sinh không cầm bút bằng cả bốn ngón tay hoặc cả năm ngón tay bởi
lúc này khi viết phải vận động cổ tay hoặc cả cánh tay làm cho các em mệt mỏi,
sức chú ý kém, tốc độ viết sẽ giảm và chữ viết cứng không thể mềm mại và đẹp
được.
2.3.7. Giải pháp7: Rèn cách trình bày bài viết sạch, đẹp.
Phần tiếp theo giáo viên cho học sinh trình bày vở. Giáo viên viết mẫu lên
bảng lớn để các em học tập. Vở chính tả yêu cầu các em trình bày như sau:
Thứ ngày viết lùi về bên phải ở dòng trên cùng một ô. Tiếp theo cách vào
5 ô ghi môn: Chính tả ở giữa có gạch chân. Đầu bài viết ở giữa trang lưu ý học
sinh cần phải cân đối đầu bài ngắn hay dài để viết vào giữa vở hay viết từ lề, các
đề mục đều phải gạch chân. Hết một bài dùng gạch ngắn.
Ví dụ: Nghe – viết: Ngày hôm qua đâu rồi? (Khổ thơ cuối) TV2- Tập1

Đây cũng là một yêu cầu hết sức quan trọng khi rèn chữ viết. Chữ viết đẹp
rồi nhưng lại bẩn, nhoè thì cũng mất đi ý nghĩa của việc luyện chữ. Giáo viên
cần nhắc nhở học sinh hàng ngày qua việc viết bài, cả việc viết trên bảng và
trình bày trên bảng lớp.
Ngay từ đầu năm tôi đã làm một quyển số để theo dõi về chữ viết của học
sinh. Từng tháng tôi chấm vở sạch chữ đẹp và xếp loại vở cho học sinh, khi xếp
loại tôi đã nhận xét kỹ những ưu điểm, khuyết điển của từng em và hướng khắc
phục. Giáo viên phải là người nắm chắc từng nét chữ qua chấm bài và theo dõi

học sinh viết hàng ngày phải biết được học sinh còn viết xấu những nét nào và
cách sửa nét đó như thế nào (cách sửa nét tôi đã nêu ở trên) hơn nữa giáo viên
phải đặt kế hoạch cụ thể cho từng tháng, từng kỳ và cả năm từ đó quyết tâm
phấn đấu theo kế hoạch đã đề ra.
2.3.8. Giải pháp 8: Bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê và tinh thần
13


quyết tâm rèn luyện chữ viết.
Để bồi dưỡng lòng say mê và tinh thần rèn luyện chữ viết của học sinh tôi
thường cho xem những bộ vở sạch chữ đẹp của các anh chị các năm trước, kể
cho các em nghe về những tấm gương chăm luyện chữ. Qua những mẩu chuyện,
qua thực tế được nhìn những trang vở của bạn các em sẽ thêm tin tưởng vào sự
thành công của bản thân và từ đó sẽ say mê rèn luyện chữ.
2.4. Hiệu quả cuả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục.
Thực tế khi nghiên cứu và áp dụng đề tài: “Một số kinh nghiệm về việc rèn
chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” tại lớp 2BTrường Tiểu học Đông Vệ 1- Năm học 2017 – 2018 đã thu được một số hiệu
quả:
* Thứ nhất: Trước khi thực hiện đề tài này bản thân tôi rất băn khoăn
trăn trở về việc đổi mới. Làm sao để cung cấp kiến thức cho học sinh đúng với
quy định của Thông tư 22 về chuẩn kiến thức, kĩ năng phù hợp với học sinh lớp
2; Đồng thời tạo sự tương tác giữa giáo viên với học sinh trong hoạt động dạy
học.
* Thứ hai: Khi bắt đầu áp dụng đề tài này, đối với bản thân tôi đã nâng
cao năng lực, đáp ứng yêu cầu hoạt động khi rèn chữ viết cho học sinh theo các
mức: Viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ; Viết đúng chính tả; Viết tốc độ tối thiểu 30 chữ
/15 phút; Trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp... Học sinh đã có sự chuyển
biến tích cực như:
– Việc viết đúng kiểu chữ, cỡ chữ: Một số em chưa nắm chắc các nét
cấu tạo chữ cái, chữ cáí viết hoa còn lơ mơ. Hiện nay đã viết đúng mẫu, cỡ chữ

quy định như em Huyền Thương; Ngọc Hà, Hà Trang….
Nhiều em viết chữ tròn nét, các nét khuyết trên, khuyết dưới đúng ly, các
nét chữ đều nhau. Trong bài viết các con chữ đã có sự kết nối liền mạch, khoảng
cách giữa các chữ chuẩn như em: Thảo Nguyên, Hồng Quân…..
– Việc viết đúng chính tả: Một số học sinh trước còn sai nhiều lỗi chính
tả vì nắm vững cấu tạo âm, vần, từ, câu thì nay đã có tiến bộ rõ rệt như em Tuấn
Anh, Hoàng Đức, Trọng….
- Việc viết tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút: Trong lớp, học sinh viết
đúng theo quy định tốc độ tối thiểu 30 chữ /15 phút đối với học sinh lớp 2.
– Việc trình bày đúng quy định; viết sạch, đẹp: Đa số các em đã khắc
phục được do sai lỗi chính tả và chữ đúng kích cỡ, nên bài viết sạch đẹp so với
đầu năm.
* Thứ ba: Kết quả cụ thể được khẳng định qua bảng thống kê hoạt động học
tập của học sinh ở lớp 2B qua hai thời kỳ:
- Trước khi áp dụng:
+ Ở giữa học kỳ I:
Xếp loại chung giữa học kỳ I năm học 2017 - 2018
Xếp loại
A
B
C
Số học sinh
16 em
29 em
1 em
Tỉ lệ %
34,8 %
63,1 %
2,1 %
- Sau khi áp dụng:


14


+ Ở cuối học kỳ I:
Xếp loại chung cuối học kỳ I năm học 2017 - 2018
Xếp loại
A
B
C
Số học sinh
20 em
26 em
0 em
Tỉ lệ %
43,5 %
56,5 %
0%
+ Ở giữa học kỳ II:
Xếp loại chung giữa học kỳ II năm học 2017 - 2018
Xếp loại
A
B
C
Số học sinh
30 em
16 em
0 em
Tỉ lệ %
65,2 %

34,8 %
0%
Nhìn chung: Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 2B tại
trường Tiểu học Đông Vệ 1 tôi đã thực hiện “Một số kinh nghiệm về việc rèn
chữ viết đẹp cho học sinh lớp 2 trong giờ tập viết và chính tả” đã mang lại
một số hiệu quả là: Trong năm qua chất lượng chữ viết cũng như việc giữ vở của
lớp tôi đã có nhiều thành công. Lớp 2B của tôi là lớp có chất lượng đạt vở sạch
chữ đẹp loại I. Từ kết quả khảo sát đầu năm và kết quả khảo sát ở các thời điểm
của năm học cho thấy chất lượng chữ viết của lớp tôi đã tăng lên rất nhiều.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
- Đề tài của bản thân tôi đã được thử nghiệm trong năm học 2017 – 2018.
Việc thử nghiệm và ứng dụng vào hoạt động dạy học đã nhận được sự ủng hộ
tích cực của Ban Giám hiệu, của tổ khối 1,2,3. Đặc biệt là sự ủng hộ của các em
học sinh lớp 2B trường Tiểu học Đông Vệ 1.
- Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học tại trường Tiểu học Đông
Vệ 1, trong đề tài này tôi đã đưa ra giải pháp để thực hiện một số vấn đề đó là:
1. Quy định với học sinh 100% vở viết ô ly (4 ô ly).
2. Quy định 100% vở viết học sinh dùng bút mực hoặc bút kim.
3. Có đầy đủ đồ dùng học tập.
4. Bàn ghế đúng quy cách, vừa tầm với học sinh.
5. Bồi dưỡng lòng say mê với tinh thần quyết tâm rèn luyện chữ viết.
6. Đề cao sự gương mẫu về chữ viết của giáo viên.
7. Chia chữ ra từng loại và rèn dứt điểm.
8. Rèn cho học sinh kỹ thuật viết liền mạch.
9. Giúp học sinh cách xử lý lỗi.
10. Giúp học sinh cách trình bày vở.
11. Giúp học sinh bảo quản sách vở.
12. Thường xuyên đánh giá xếp loại về vở của học sinh đúng theo thông
tư 30 và 22.

Để có được những kết quả trên đều xuất phát từ lòng yêu nghề, mến trẻ,
tính kiên trì của giáo viên. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của học sinh và sự quan
tâm của các bậc phụ huynh và ban giám hiệu nhà trường.
Để rèn cho học sinh viết chữ đẹp và có bộ vở sạch thì theo tôi cần phải
theo thứ tự mà gặp tình huống nào thì xử lý nó ngay lúc đó.

15


3.2. Kiến nghị:
Trong quá trình thực hiện tôi thấy vẫn còn một số vướng mắc. Chẳng hạn
bút viết của các em chưa đáp ứng nhu cầu, hỏng ngòi, tắc mực. Nhiều em bút
không hút được mực phải mang ống mực đến lớp dẫn đến chân tay còn rây mực
và làm bẩn vở của học sinh.
Để cho bộ vở của học sinh ngày một đẹp hơn tôi xin đề nghị một số điểm
như sau:
- Giáo viên tận tụy, yêu nghề, có tình cảm với học sinh, chăm chút cho
học sinh như chăm chút con mình.
- Học sinh cần phải có những quyển vở đẹp.
- Học sinh được phụ huynh quan tâm.
- Lớp học đủ ánh sáng.
- Những vấn đề được trình bày ở trên là những kinh nghiệm của bản thân
tôi rút ra từ thực tế giảng dạy. Với thời gian ngắn nên đề tài đưa ra không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong được sự góp ý chỉ bảo của các đồng nghiệp
để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG VỆ 1

Thanh Hóa, ngày 01 tháng 04 năm 2018


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết SKKN :

Nguyễn Thị Lĩnh

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách GV Tiếng Việt Tập 1, 2, lớp 1
2. Sách GK Tiếng Việt tập 1, 2, lớp 1
3. Sách GV Tiếng Việt Tập 1, 2, lớp 2
4. Sách GK Tiếng Việt tập 1, 2, lớp 2
5. Vở Tập viết lớp1
6. Vở Tập viết lớp 2
7. Vở Luyện viết đúng viết đẹp, quyển 2
8. Các loại vở viết của HS.

17



×