MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU………..………………………………………………….……..…02
1. Lý do chọn đề tài…………………...…………………………......................02
2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................03
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... .03
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................03
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM...............................................03
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm……...…….....................................03
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…...……..........04
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề….............................................05
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm…………..….........................................17
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………..……………............................19
1. Kết luận...........................................................................................................19
2. Kiến nghị.........................................................................................................20
1
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng hiểu rõ câu nói: “Trẻ em hôm nay, thế
giới ngày mai”. Đúng vậy trẻ em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là
búp măng non đang từng ngày, từng ngày lớn lên mang theo những phẩm chất,
trí tuệ, đạo đức của con người Việt Nam. Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi luôn luôn
được xã hội quan tâm cũng như tạo điều kiện để phát triển nhân cách một cách
toàn diện.
Để đạt dược điều đó thì việc chăm sóc, giáo dục trẻ phải có sự chung tay
góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để
quan tâm đến con cái bên cạnh đó cũng có một số phụ huynh thường bao bọc,
nuông chiều trẻ một cách thái quá, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỉ, không quan
tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế, gây khó khăn
cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra. Vì vậy, một số trẻ vẫn rất hạn
chế trong các kỹ năng sống cơ bản hàng ngày. Một số trẻ rất thụ động khi có
những tình huống xảy ra. Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là một việc
làm hết sức cần thiết giúp trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống.
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho các cháu rất
nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các cháu sớm
có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức
và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng
đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho cộng đồng. Giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mầm non có ý nghĩa hết sức quan trọng cho cả cuộc đời.
Xã hội hiện nay đã và đang làm thay đổi cuộc sống của con người, nhiều
vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh những tác động tích cực, còn có
những tác động tiêu cực, gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Nếu
mỗi người trong đó có trẻ em không có những kiến thức cần thiết để biết lựa
chọn những giá trị sống tích cực, không có những năng lực để ứng phó, để vượt
qua những thách thức mà hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro
trong cuộc sống. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được tiến hành trong toàn bộ
các hoạt động hằng ngày như: vui chơi, học tập, lao động vừa sức, lễ hội, tham
quan…Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những kỹ năng sống cần
thiết với cuộc sống của trẻ. Để có được những kỹ năng sống, trẻ cần phải có thời
gian và quá trình tập luyện thường xuyên với sự hổ trợ của cô giáo, người lớn và
bạn bè.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có những kinh
nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp
trẻ biết hợp tác cùng bạn, xây dựng tính độc lập, kích thích óc tò mò, khả năng
sáng tạo; biết yêu thương, chia sẽ biết lắng nghe người khác nói, đồng thời biết
diễn đạt ý của mình trong nhóm bạn; ngoài ra còn xây dựng cho trẻ lòng tin, chủ
động và biết cách sử lý các tình huống trong cuộc sống khi tiếp nhận thử thách
2
mới, đặt nền tảng cho cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống
hài hòa trong tương lai.
Mục tiêu của việc rèn kỹ năng sống nhằm phát triển, nuôi dưỡng những giá
trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp cân
bằng cuộc sống trên các lĩnh vực nền tảng: thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh
thần. Xuất phát từ những lý do trên là giáo viên trực tiếp đứng lớp 4 - 5 tuổi.
Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu, nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai
trò quan trọng của các kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên việc
giáo dục kỹ năng sống chưa trở thành một môn với một giáo trình chuẩn, được
áp dụng trong nhà trường. Với trái tim là người mẹ thứ hai của trẻ trong năm
học 2017-2018 đã thôi thúc tôi lựa chọn “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Hàm Rồng”, với mong
muốn được góp một phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tôi nghiên cứu: Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5
tuổi nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin
trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ nhằm củng cố rèn luyện cho trẻ
những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động học, chơi, ăn, ngủ của trẻ
nhằm thúc đấy, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường nói riêng và nâng
cao chất lượng đổi mới giáo dục nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi tại
trường mầm non Hàm Rồng.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra là giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các giác
quan để chi giác có mục đích đối với các đối tượng trong tự nhiên và xã hội mà
không cần sự can thiệp vào các quá trình diễn biến của hiện tượng hoặc sự vật
đó.
- Phương pháp quan sát là khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng
nhằm phát triển những quy luật phân bố trình độ phát triển, những đặc điểm về
mặt định tính và định lượng của các đối tượng cần nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp dùng lời động viên khích lệ,
phương pháp thực hành trải nghiệm.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận:
Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo “điểm khởi đầu” của
quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
là quan trọng và rất cần thiết. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có
nhân cách phát triển toàn diện và bền vững. Có nhiều công trình khoa học đã
chứng minh rằng: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá
thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ.
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có kỹ
năng cuộc sống và biết sử dụng linh hoạt những kỹ năng này thì không đảm bảo
cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có mối
3
quan hệ tốt với mọi người. Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lí xã hội để đáp
ứng và đối phó những yêu cầu, thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Kỹ năng sống của trẻ mầm non bao gồm những kỹ năng cơ bản sau: Kỹ
năng giải quyết tình huống có vấn đề; kỹ năng thích nghi; kỹ năng khám phá thế
giới xung quanh; kỹ năng trong giao tiếp; kỹ năng tự chăm sóc bản thân; kỹ
năng tạo niềm vui; kỹ năng tự bảo vệ; kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ năng
nhận thức…Vì vậy dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh
nghiệm sống của người lớn nhằm giúp cho trẻ có những kỹ năng đương đầu với
những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của
mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Muốn như
vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành.
2. Thực trạng vấn đề của lớp trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Năm học 2017 - 2018 bản thân tôi được nhà trường phân công giảng dạy tại
lớp mẫu giáo nhỡ 4 - 5 tuổi: có tổng số 50 trẻ: trẻ học rất ngoan, có nề nếp học
tập, mỗi một hoạt động học tập trẻ rất tích cực. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ chăm sóc giáo dục trẻ có những thuận lợi và khó khăn như sau:
a. Thuận lợi
Cơ sở vật chất cũng như các trang thiết bị dạy học được nhà trường trang
bị và cấp phát tương đối đầy đủ, như các tài liệu chuyên môn, tập san để nghiên
cứu học tập mở rộng kiến thức, được bồi dưỡng về chuyên môn do Phòng Giáo
dục Đào tạo tổ chức, dự giờ, thao giảng, học tập lớp bạn, trường bạn.
Trẻ có nề nếp học tập, vui chơi và tích cực tham gia vào các hoạt động.
Được sự quan tâm của nhà trường đã đầu tư các trang thiết bị công nghệ
thông tin cho lớp và cấp phát đầy đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết cho công tác dạy
và học trên lớp.
Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức về việc học tập của con mình, sẵn
sàng hỗ trợ, phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ cũng
như việc tìm kiếm nguyên vật liệu ủng hộ giáo viên trong việc làm đồ dùng, đồ
chơi phục vụ cho viêc dạy và học của cô và trẻ trên lớp.
b. Khó khăn
Từ những thuận lợi cơ bản trên, song bản thân tôi còn gặp khó những khăn
như:
Do tác động ngoại cảm một số trẻ được ba, mẹ nuông chiều quá mức nên có
những biểu hiện không đúng trong lễ giáo với mọi người trong gia đình và bạn
bè, trẻ không có được kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng giao tiếp, dẫn đến
tính ỷ lại và một số trẻ lại nhút nhát quá không dám tham gia vào các hoạt động
của trường, lớp, phụ huynh thường làm thay trẻ làm tất cả mọi việc không cho
trẻ có cơ hội để thực hành. Vẫn còn một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng
của giáo dục kỹ năng sống cho con em ở lứa tuổi mẫu giáo mà chỉ quan tâm đến
việc ăn uống của các cháu, có tâm lý thờ ơ nên không có sự tác động giáo dục
cho trẻ khi trẻ về với gia đình.
Điều kiện cơ sở vật chất để dạy trẻ thực hành hành vi lễ giáo, liên hệ thực
tế cũng còn nhiều khuyết điểm nên việc giáo dục chỉ dừng lại ở cung cấp kiến
thức. Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói
leo, trả lời không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp.
4
Trong lớp định biên số trẻ quá đông so với chỉ tiêu của nghành học nên cũng gây
rất nhiều tới việc chăm sóc giáo dục và rèn kỹ năng sống cho trẻ. Từ những
thuận lợi và khó khăn trên tôi luôn trăn trở một suy nghĩ rằng mình phải có biện
pháp như thế nào để hình thành nề nếp rèn kỹ năng sống tốt nhất cho trẻ .
3. Một số biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Muốn giáo dục trẻ tốt trước hết ta phải hiểu được tâm, sinh lý trẻ, trẻ đang
cần gì, muốn gì? Qua đó chúng ta đưa ra được những biện pháp giáo dục hiệu
quả. Để nắm được tình hình, khả năng của trẻ ngay đầu năm học tôi đã tiến hành
xây dựng các tiêu chí đánh giá kỹ năng sống phù hợp với trẻ lớp tôi.
Như sau:
Nội dung
Số
Tốt
Khá
TB
Yếu
trẻ
SL
ks
50
5/50
10%
10/50
20%
25/50 50% 10/50
20%
Kỹ năng hợp
50
4/50
8%
10/50
20%
26/50 52% 10/50
20%
tác
Kỹ năng
50
3/50
6%
12/50
24%
28/50 56%
7/50
14%
giao tiếp
Sự tò mò và
50
3/50
6%
10/50
20%
25/50 50% 12/50
24%
50
5/50
10%
10/50
20%
20/50 40% 15/50
30%
Tính tự tin
%
SL
%
SL
%
SL
%
khả năng
sáng tạo
Kỹ năng tự
phục vụ
Với kết quả trên, quả là một điều đáng lo ngại và thiết nghĩ mình cần phải
tìm tòi sáng tạo thiết kế ra những biện pháp thực hiện tốt và thiết thực nhằm
nâng cao kỹ năng sống cho trẻ góp phần phát triển toàn diện con người trẻ.
Sau đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng trong quá trình thực nghiệm để
nâng cao kỹ năng sống cho trẻ lớp 4 - 5 tuổi:
Biện pháp 1. Xây dựng kế hoạch và tạo môi trường thuận lợi để dạy
kỹ năng sống cho trẻ
Bản thân tôi đã xây dựng các kế hoạch giáo dục theo năm, tháng, tuần;
theo từng chủ đề có sự phê duyệt và kiểm tra của Ban giám hiệu. Xây dựng kế
hoạch tổ chức hoạt động học có chủ định theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm theo Thông tư 28 của BGD&ĐT.
Bước 1: Xác định mục tiêu theo đúng độ tuổi, nắm được trong việc thực
hành các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dựa vào các tiêu chí và chỉ số
dành cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.
Bước 2: Xây dựng bộ ngân hàng mục tiêu dựa vào từng chủ đề phù hợp.
5
Bước 3: Xây dựng kế hoạch chủ đề, mục tiêu của chủ đề phải dựa trên
ngân hàng mục tiêu đã lên.
Bước 4: Lập kế hoạch thực hiện chủ đề tích hợp dạy trẻ kỹ năng sống
trong mọi hoạt động trong ngày.
Bước 5: Thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải dựa
vào nhu cầu và hiểu biết của trẻ theo từng độ tuổi, từng cá nhân.
Bước 6: Đánh giá sự phát triển của trẻ theo ngân hàng mục tiêu đã lên.
- Lựa chọn nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ theo độ tuổi, nội dung từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Xây
dựng các ngân hàng mục tiêu, chỉ số phải căn cứ vào đặc điểm nhận thức của trẻ
theo từng chủ đề. Giáo viên căn cứ vào mục tiêu cần đạt và khả năng của trẻ để
xác định phương pháp hoạt động, nội dung các bài tập rèn kỹ năng cho trẻ, phù
hợp cho cả lớp, phù hợp với từng cá nhân trẻ (cá nhân trẻ đặc biệt), đảm bảo tính
phù hợp, hài hòa theo từng độ tuổi, chủ động sắp xếp trình tự hoạt động theo chủ
định của mình và mức độ hứng thú của trẻ.
- Xây dựng, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng ngày từng chi tiết về
sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi chép những kỹ năng trẻ
đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi,
cuối giai đoạn phát triển của trẻ. Cũng từ biện pháp này, tôi có dữ liệu, sản phẩm
để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục
từng trẻ vì mỗi trẻ rất khác nhau và giúp trẻ sớm hình thành các kỹ năng sống.
- Các bài tập và nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải tự lập, tự phục
vụ.
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ. Có môi
trường vật chất và môi trường xã hội. Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt
cho trẻ đạt hiệu quả ngay từ đầu năm tôi đã phối hợp với giáo viên trên nhóm
lớp trang trí nhóm lớp theo chủ đề; tạo không khí, môi trường phù hợp với từng
chủ đề đồng thời lồng ghép các hoạt động giáo dục tạo tình huống để trẻ rèn các
kỹ năng.
+ Ví dụ:
* Ở chủ đề: “Trường mầm non”: Rèn trẻ kỹ năng giao tiếp: Chào hỏi, tạm
biệt, cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện,
lắng nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, hòa thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần
thiết cùng bạn hoàn thành công việc.
* Ở chủ đề “Gia đình”: Dạy trẻ những khả năng ứng xử phù hợp với những
người gần gũi xung quanh: Lễ phép với người lớn, quan tâm nhường nhịn em
nhỏ, giúp đỡ bố mẹ những công việc vừa sức, biết trò chuyện lễ phép, thân mật
chơi vui vẻ với bạn, không quậy phá làm ồn biết thể hiện cảm xúc, chia sẻ đồng
cảm.
* Ở chủ đề “Bản thân”: Rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ: Tự mặc cởi quần áo,
cách sử dụng vệ sinh đúng cách, vệ sinh cá nhân, trong ăn uống cách mặc quần
áo phù hợp với thời tiết biết bảo vệ bản thân trước những tình huống nguy hiểm,
biết một số thông tin về bản thân…
* Ở chủ đề “Nghề nghiệp”: Lồng ghép các bài thơ câu đố để trẻ hiểu ý nghĩa
của các nghề từ đó trẻ biết tuân thủ sự phân công phối hợp với bạn bè để hoàn
6
thành công việc chung, khả năng sáng tạo, diễn tả ý tưởng, kỹ năng sử lý tình
huống.
* Chủ đề “Thế giới thực vật”: Dạy trẻ kỹ năng biết yêu thiên nhiên, trồng và
chăm sóc cây xanh, bảo vệ môi trường.
* Chủ đề “Phương tiện giao thông”: Dạy trẻ kỹ năng tuân thủ một số quy
định giao thông khi đi trên đường, những hành vi văn hóa nơi công cộng như: Đi
nhẹ, nói khẻ, không chen lấn xô đẩy nhau…
* Chủ đề “Quê hương đất nước – Bác Hồ” dạy trẻ kính yêu Bác Hồ, quan
tâm đến những di tích lịch sử, địa danh, cảnh đẹp, lễ hội của quê hương đất nước
giữ gìn và bảo vệ môi trường.
Với công tác xây dựng tốt môi trường giáo dục trong trường mầm non như
vậy đó chính là phương tiện, là điều kiện để giúp trẻ lớp tôi phát triển toàn diện
về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, khả năng thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã
hội, tạo tiền đề vững chắc cho trẻ bước vào các cấp học sau này. Vì thế để thực
hiện được việc rèn kỹ năng sống cho trẻ thì không thể thiếu đi cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống, hình thành thói quen sống, nề nếp
sinh hoạt tới các bậc cha me và cộng đồngvề kế hoạch thực hiện chuyên đề kỹ
năng sống cho trẻ có sự phối hợp, hỗ trợ kinh phí để xây dựng môi trường, mua
sắm trang thiết bị đồ dùng đồ chơi đủ theo thông tư 02/2010/TT – BGDDT của
Bộ GD&ĐT nhằm đảm bảo trong quá trình triển khai và thực hiện.
Bên cạnh việc trang trí sắp đặt môi trường trong lớp rất quan trọng. Tôi đã
sưu tầm rất nhiều video, tranh ảnh về việc trang trí các góc, lớp học xung quanh
mục đích cho trẻ hiểu biết về cách sống, các mối quan hệ xã hội. Song song với
việc đó cùng với những đồ dùng, đồ chơi sẵn có của nhà trường. Bản thân tôi
khi được là giáo viên phụ trách lớp 4 – 5 tuổi, tôi đã cùng với đồng nghiệp, phụ
huynh thường xuyên sưu tầm những vật dụng đã qua sử dụng như: rơm rạ, chai
nước, các hộp nhựa, hộp sữa, vỏ kẹo, đĩa CD đã hỏng, lá cây rụng, cành khô,
giấy báo, tạp chí, lịch cũ…Những vật liệu được thu gom và vệ sinh sạch sẽ, kết
hợp với việc vận dụng những nguyên vật liệu phế thải đã gắn ghép chúng với
nhau để mô tả các vật trong cuộc sống xung quanh trẻ, tạo hình khối và bỏ vào
các thùng, hộp phân loại để trẻ hoạt động ngay trên các mảng tường trang trí với
nội dung và các bài tập rèn kỹ năng sống cho trẻ. Chuẩn bị tốt các điều kiện đồ
dùng đồ chơi, vật liệu chơi, các góc chơi phù hợp với từng chủ đề nhằm đáp ứng
nhu cầu hứng thú chơi của trẻ đảm bảo đủ đồ dùng, đồ chơi cho cô và trẻ tổ
chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục theo chương trình.
Ví dụ: Ở chủ đề “Bản thân”, nhánh là “Tôi là ai?”. Để thực hiện việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ. Giáo viên đưa ra các bài tập được làm thành tranh ảnh về cơ
thể bé, cách gấp quần áo, quy trình đánh răng, rữa mặt, rữa tay. Giáo viên trang
trí tranh ảnh đó leencacs mảng tường, tạo góc mở để trẻ khám phá, thực hành.
Trẻ có thể hoạt động bằng cách sắp xếp các quy trình theo đúng thứ tự cô giáo
yêu cầu.
Biện pháp 2: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp xã hội để hình
thành thói quen nhân cách cho trẻ.
7
Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn
rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ kỹ năng giao tiếp là một kỹ
năng nền tảng giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống. Vì thế
cần quan tâm và giúp trẻ một cách tự nhiên từng bước một trong suốt chiều dài
phát triển nhân cách của trẻ.
* Kỹ năng giao tiếp với bạn bè:
Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi
đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo
viên có thể dạy trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở
thích, những mối quan tâm chung của nhau.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo ra môi trường
cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra
mục tiêu, các chỉ số yêu cầu trẻ thực hiện: Không tranh giành đồ chơi với bạn,
trong chỉ số này tôi lên kế hoạch rèn kỹ năng giao tiếp cho cả lớp nói chung,
vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho cả lớp nhận xét xem
trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó không được cắm cờ,
cuối tuần bạn nào nhiều cờ sẽ được tặng bé ngoan, ngoài ra các giờ chơi, giờ
đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho
trẻ, việc làm đó rất tốt cho trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm, điều gì không nên
làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục.
Giúp trẻ thấy các nhân vật trong chuyện, bài thơ khi giao tiếp với nhau như thế
nào? bài thơ:
Lời chào
Đi về con chào mẹ!
Ra vườn cháu chào bà
Ông làm việc trên nhà
Cháu lên chào ông ạ!
Lời chào thân thương quá.
Làm mát ruột cả nhà
Đẹp hơn mọi bông hoa
Cháu kính yêu trao tặng
Chỉ những người đi vắng
Cháu không được tặng chào!
Biết cảm ơn xin lỗi
Cảm ơn xin lỗi
Ai giúp cho cái gì
Nhớ cảm ơn ngay đi
Lỡ làm điều sai trái
Dù với ai cũng phải
Xin lỗi cho đàng hoàng
Muốn trở thành bé ngoan
Phải biết làm như vậy
- Tính cách của mỗi trẻ khác nhau, có những trẻ hoạt bát, hiếu động
nhưng cũng có những đứa trẻ chậm chạp thụ động hay quá nóng nảy…Vì thế
giáo viên cần biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những
người bạn thích hợp nhằm tránh xảy ra va chạm về tính cách. Vì vậy trước khi
chơi tôi thường cho trẻ đọc bài thơ:
Giờ chơi của bé
Giờ chơi đến rồi
Chờ bạn cùng chơi
8
Bạn lấy đồ chơi
Cô thấy cô mừng
Tôi ra trước nhé
Cô khen ngoan thế!
Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân
thiện, tự nhiên dạy trẻ phải luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở nên
thật thoải mái thật chân thành khi tham ra các hoạt động vui chơi ở lớp.
Hình ảnh trẻ đang chơi với nhau vui vẻ
* Kỹ năng giao tiếp với người lớn tuổi
Như ở phần lí do chọn đề tài tôi đã đề cập các trẻ hầu như chưa có kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng chào hỏi…lý do phụ huynh đều là lao động tự do và
điều quan trọng là chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông
chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ còn nhỏ chưa biết gì, chiều con chút cũng
không sao. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của
trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi.
Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự
nhiên không quá màu mè và hình thức, không nói tự do. Điều này trẻ sẽ học
được một cách có hiệu quả thông qua cách giao tiếp ứng xử của bố mẹ, người
thân trong gia đình, cô giáo và những người xung quanh. Chúng ta sẽ không thể
kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói năng thô lỗ và không có hành vi
lịch sự tối thiểu. Trong xã hội ngày nay với công nghệ tiến tiến phát triển không
ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp, chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi.
Và tôi quyết định đưa ra biện pháp rèn kỹ năng chào hỏi, giao tiếp trong giờ
đón, trả trẻ.
Ví dụ : Thời gian đầu trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô với
bạn, tôi chủ động chào trẻ trước “Cô chào bạn Thảo Nguyên” thì lúc đó trẻ sẻ
biết đáp lại câu chào “con chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ chào bố, mẹ đi để vào lớp
hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “các con chào các cô,
các bác đi” cứ như thế dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố, mẹ, chào
9
khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với
cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về
những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ mạnh dạn hơn khi
tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn và mọi người.
Hình ảnh cô và trẻ chào hỏi nhau trong giờ đón trẻ
- Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ, những câu chuyện, bài hát có
nội dung giáo dục lễ giáo như: Bài hát “con chim vành khuyên”; Bài thơ “lời
chào”, “Phải là hai tay”, “Cảm ơn xin lỗi”…phô tô cho phụ huynh để phụ huynh
nắm được và giúp trẻ học thuộc và hiểu các bài thơ đó. Bên cạnh đó tôi còn cho
trẻ tham ra các trò chơi đóng vai để trải nghiệm kỹ năng chào hỏi và giao tiếp
tạo tình huống cụ thể giúp trẻ giải quyết, chọn cách giao tiếp với người lớn cho
phù hợp.
Biện pháp 3: Giáo dục kỹ năng sống qua các môn học và thông qua
các hoạt động trong ngày ở trường mầm non.
* Thông qua hoạt động học
Lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động giáo dục
trên lớp nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hóa cho trẻ.
Để việc giáo dục kỹ năng sống gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn cho trẻ tôi đã
tiến hành cụ thể với từng lĩnh vực.
- Lĩnh vực phát phát triển thể chất
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động như đi, chạy, nhảy, tung, ném, bắt,
bật; Trẻ biết thường xuyên rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập
không chen lấn, xô đẩy nhau, biết chờ khi đến lượt...Dạy trẻ sự tự tin một trong
những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Ví dụ: Trẻ lên thể hiện các vận động cơ bản “Bò chui qua cổng, ném bóng
bằng hai tay, chạy nhanh 10m…” Trẻ tự tin với các trò chơi vận động: chuyền
10
bóng, ném vòng cổ chai, ô tô vào bến. Vui vẻ thể hiện các trò chơi dân gian như:
Lộn cầu vồng, rồng rắn lên mây, thằn lằn cẳng dế…
- Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ:
- Giáo dục, bồi dưỡng nhân cách sống, lòng yêu thương con người cho trẻ
thông qua câu chuyện, bài ca dao, tục ngữ...
Một điều mà tôi luôn quan tâm đối với trẻ của lớp mình nữa là hình thành
nhân cách sống cho trẻ. Trẻ mầm non như một trang giấy trắng, mà cô giáo là
một trong những người đặt nét bút đầu tiên viết lên trang giấy ấy, chính vì vậy
việc tìm tòi những điều hay nhất, đẹp nhất, lựa chọn ngòi bút đầu tiên bằng các
câu ca dao, dân ca, tục ngữ, bài hát, các câu chuyện về tình thương yêu con
người, yêu quê hương, lòng nhân ái để làm nền tảng cho trẻ. Bởi vì tâm lí trẻ
thích học và học nhanh nhất qua những vần thơ. Tôi chọn lựa và vận dụng có
hiệu quả.
+ Trong hoạt động học làm quen văn học: Được nghe kể chuyện, với trẻ là
điều vô cùng thích thú thông qua các nội dung bài thơ, câu chuyện giúp trẻ có
được những kỹ năng sống quý báu.
Ví dụ: Qua câu chuyện: “Người bạn tốt”. Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết,
thương yêu giúp đỡ bạn bè, biết nói những lời cảm ơn chân tình khi được người
khác giúp đỡ mình. Trong câu chuyện: “Hai anh em”; Dạy trẻ học tập sự chăm
chỉ lao động
Chủ đề gia đình:
Để giáo dục trẻ về tình yêu thương biết ơn bố mẹ tôi chọn những câu ca dao:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Kể chuyện đọc thơ, ca dao cho trẻ cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp
mưa dầm thấm lâu là con đường ngắn nhất, đơn giản, hiệu quả nhất để giáo dục
nhân cách cho trẻ.
- Lĩnh vực phát triển tình cảm, kỹ năng xã hội:
+ Tham gia các trò chơi tập thể, thực hành các tình huống nhằm rèn luyện một
số kĩ năng tự bảo vệ bản thân biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy
không an toàn.
Ví dụ: Dạy trẻ biết mạnh dạn chủ động chia sẻ thông tin với các bạn trong lớp,
người thân khi xảy ra hiện tượng bị dọa nạt, bị ức hiếp:
+ Xem tranh về một số việc làm tốt trong cuộc sống như tranh về sự lễ phép
tranh về hành động bé nên làm khi đến lớp, khi ở nhà, tranh bé làm việc giúp đỡ
bố mẹ…
+ Cô giáo cho trẻ chủ động để trẻ nói lên những điều cần làm khi hình thành
kỹ năng sống.
+ Cho trẻ tham gia trồng cây, bảo vệ vật nuôi, tham gia các hoạt động lao
động.
+ Dạy cho trẻ biết sử dụng điện nước tiết kiệm đúng cách: Rửa tay trước khi
ăn, sau khi đi vệ sinh, thực hiện ăn chín uống sôi, đi vệ sinh đúng nơi qui định,
sắp xếp đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ, gọn gàng, tham gia trực nhật lớp.
11
- Lĩnh vực phát triển triển thẩm mĩ
* Tạo hình
+ Đối với hoạt động tạo hình: “Vẽ, tô màu ngôi nhà của bé”
Cô rèn cho trẻ kỹ năng ngồi đúng tư thế, cầm bút, tô màu kín hình, tô từ
trong ra ngoài, không tô lem ra ngoài, giáo dục trẻ biết giữ gìn sản phẩm của
mình và của bạn, mạnh dạn nói ra ý tưởng của bản thân, biết mạnh dạn nhận xét
sản phẩm của mình và của bạn, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
+ Trong hoạt động giáo dục âm nhạc: Dạy hát bài “Rửa mặt như mèo”
Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
+ Qua dạy hát bài: Con chim vành khuyên tôi dạy trẻ học tập sự ngoan ngoãn
lể phép; bài hát “cả nhà thương nhau” giáo dục trẻ tình yêu gia đình…
Chủ đề quê hương đất nước – Bác Hồ: Tôi đưa các bài hát dân ca đặc trưng
ba miền phù hợp với trẻ vào hoạt động dạy trẻ: Lý Hoài Nam (Quảng Nam),
Lượn tròn, lượn khéo (Bắc Bộ)…Những bài hát về Bác như: “Như có Bác Hồ
trong ngày vui đại thắng”, “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi
đồng…”. Giáo dục trẻ biết yêu quý, kính trọng Bác Hồ. Mặt khác qua các hoạt
động này góp phần giáo dục trẻ giữ gìn bản sắc truyền thống của dân tộc ta.
- Lĩnh vực phát triển nhận thức
* Khám phá khoa học
+ Với hoạt động KPKH “Cây xanh và môi trường sống”. Cho trẻ xem một số
hình ảnh về cây xanh, sự phát triển của cây xanh, lợi ích của cây xanh. Cây lớn
lên nhờ những yếu tố nào? Vì sao phải trồng cây? Trồng cây để làm gì? Cây có
lợi ích gì cho môi trường cho cuộc sống?
Sau khi kết thúc giờ học, tôi cho trẻ thực hành trồng cây, chăm sóc cây. Trẻ
được thực hành, trải nghiệm sẻ giúp trẻ hiểu thêm công việc và ý nghĩa của việc
trồng cây. Từ đó trẻ cũng có kỹ năng chăm sóc bảo vệ cây và có ý thức cùng
tham gia bảo vệ môi trường.
+ Quan sát môi trường sống xung quanh trẻ để biết điều chỉnh các hành vi
đúng, sai của mình với môi trường…
* Hoạt động ngoài trời
Hoạt động ngoài trời là cũng là một hoạt động mà ở đó giáo viên có thể
lồng ghép tích hợp nhiều kỹ năng sống cần thiết. Ví dụ “nhìn ngắm hoa đẹp” trẻ
thể hiện cảm xúc vui vẻ, thoải mái, từ đó trẻ yêu thích cái đẹp, không được hái
hoa vì hoa làm đẹp cho thiên nhiên. Hoặc giáo viên sử dụng tình huống để trẻ
giải quyết “đang đi dạo chơi cùng trẻ thì bạn bị ngã”, lúc này giáo viên sẽ dựa
vào cách giải quyết của trẻ mà rèn cho trẻ “kỹ năng giúp đỡ chia sẻ”, phải biết
đỡ bạn bị ngã, không những vậy mà khi đi đâu nếu có gặp người lớn tuổi, em
nhỏ, người tàn tật thì giúp đỡ, cảm thông với hoàn cảnh của họ.
Trong chủ đề “nước - hiện tượng tự nhiên”, giáo viên cho trẻ dạo chơi sân
trường, tận dụng tình huống “cơn gió làm lá cây rơi xuống sân”, sân trường
không còn sạch đẹp. Vậy làm thế nào để sân trường sạch đẹp? (nhặt lá cây rơi,
nhặt rác bỏ vào thùng rác). Hình thành được kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ,
không những ở trường mà trẻ sẻ thực hiện việc giữ vệ sinh ở nhà, ở lớp, ở nơi
công cộng, trên xe buýt... Trong buổi dạo chơi ngoài trời, vừa quan sát trẻ chơi,
vừa hướng dẫn trẻ biết cách chơi an toàn như: Cách lên xuống cầu thang, cách
12
vịn, cầm chắc vào đồ chơi khi chơi xích đu và cách phòng tránh những nơi nguy
hiểm như không chơi cầu trượt khi có mưa ướt, hướng dẫn trẻ biết kiên nhẫn
chờ đến lượt, không đùa nghịch, xô đẩy hay dành đồ chơi của bạn, không chơi
với vật sắc nhọn, ổ điện…
* Hoạt động vui chơi :
Vui chơi là hoạt động mà trẻ đón nhận một cách hứng thú và tích cực nhất,
bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ, trong thế giới đồ vật trẻ được tha hồ vui
chơi và sáng tạo. Trẻ được tham gia hoạt động môi trường và hình thành nhân
cách, có sự hợp tác giúp đỡ nhau, có những cơ hội để phát triển trí tưởng tượng
của trẻ. Việc tổ chức các hoạt động vui chơi không những giúp trẻ kỹ năng mà
còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển những kỹ năng sống cho trẻ. Trong
hoạt động vui chơi trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều vai chơi khác nhau
phản ảnh trong cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng kỹ năng sống vào vui
chơi. Qua đó trẻ được giao tiếp với nhau bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ
phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay...luôn được thể hiện. Tôi
theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua
đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.
Ví dụ: Qua trò chơi bán hàng trẻ được làm người lớn đó là thế giới thu
nhỏ của trẻ, trẻ có cơ hội tái hiện những gì mà người lớn hay làm rèn kỹ năng
giao tiếp, thói quen chào hỏi lễ phép.
Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ? Người đi mua
hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân gạo, bao nhiêu vậy
cô? Người mua hàng nhận hàng và trả tiền. Cô thường xuyên cho trẻ chơi đóng
vai và cô trong vai người mua hàng vui vẻ giao tiếp với trẻ, trẻ tự nhiên bán
hàng và chào khách: “ cảm ơn bác đã mua hàng và hẹn gặp lại bác vào lần sau”.
Hình ảnh trẻ chơi bán hàng
- Nếu trẻ hoàn thành vai chơi tôi sẽ cho trẻ gắn một hoa để cuối buổi chiều
nêu gương biện pháp này trẻ lớp tôi rất thích và hăng hái trong khi chơi.
13
+ Trò chơi đóng vai Y tá; Bác sĩ: Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần,
“Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt lắm không?...” Y tá phát thuốc dặn dò bệnh
nhân uống thuốc.
Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá. Cô
còn có thể tận dụng những tình huống trong quá trình chơi của trẻ dạy trẻ kỹ
năng biết hợp tác, chia sẻ cùng bạn. Trẻ biết phân công nhiệm vụ trong quá trình
chơi với nhau, biết trao đổi ý kiến của mình với các bạn, biết tìm cách để giải
quyết mâu thuẫn, biết cảm thông và giúp đỡ bạn trong quá trình làm việc biết
hoàn thành công việc được giao.
Ví dụ: Trong khi chơi ở góc xây dựng bác thợ cả biết phân công như để công
trình của xây dựng doanh trại bộ đội được đẹp bác An đi trở vật liệu, bác Đức
lắp hàng rào, bác Bảo trồng cây xanh …
Trong quá trình trẻ chơi nếu chúng ta quan sát thật kỹ chúng ta sẽ thấy rất
nhiều tình huống có thể xảy ra vì vậy giáo viên nên quan sát trẻ trong khi trẻ
chơi để tìm ra những biện pháp kịp thời sử lý tình huống, điều chỉnh hành vi cho
trẻ giúp trẻ có thói quen tốt biết được cái nên làm và không nên làm. Lâu dần
những hành vi đó sẽ được tích lũy trong trẻ và dần trở thành kỹ năng.
- Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử,
chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.
- Qua góc “thư viện sách” trẻ nhập vai dê con nhanh trí không mở cửa cho
sói vào và biết nghe lời dặn của dê mẹ.
Với nhóm “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ thể hiện vai
của mình: bắc nồi lên bếp ga đặt đã đúng giữa bếp chưa nếu không sẽ dễ đổ và
xảy ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để không
bị bỏng.
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi, thông
qua các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các tình huống có
vấn đề, thực hành các ý tưởng.
- Kỹ năng tự phục vụ như: Khi chơi biết lấy đồ dùng nhẹ nhàng, chơi xong
biết cất đồ chơi đúng nơi quy định
Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài, có rất nhiều tình
huống xảy ra, giáo viên cần bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh hành vi,
giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm, cái nào không nên làm. Lâu
dần những thói quen tốt, những hành vi đẹp được tích lũy và trở thành kỹ năng
sống đối với trẻ.
Hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ ở trường.
Thông qua giờ chơi trẻ được tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong xã hội. Tất
cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua
hoạt động vui chơi và cô giáo là người hướng cho trẻ chơi một cách tích cực, sử
lí tình huống đúng đắn để trẻ học tập.
Ngoài ra tôi còn xây dựng kỹ năng sống cho trẻ thường xuyên như: cách
đóng mở cửa, lấy và uống nước, cách gấp bằng các loại kẹp, quét rác trên sàn,
cách rót nước bằng lọ miệng tròn to, cách sâu dây qua các đồ vật có khuyết nhỏ,
14
cách đan nong mốt, cách tự trải đầu cho mình, tết tóc cho bạn. Đây là cơ hội tốt
nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy tôi đã thường xuyên chức cho trẻ
chơi mang tính lành mạnh để trẻ được học tập và vui chơi.
- Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo dục
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất dày dép, ba lô đúng nơi quy định, ngoài ra tôi
còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói cảm ơn xin lỗi, không nói leo khi người khác
nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác.
Hình ảnh trẻ cất đồ dùng trong giờ đón trẻ
- Trong giờ vệ sinh tôi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ như rửa mặt, rửa tay bằng
xà phòng, rửa tay đúng cách, cách chải tóc, cách gấp quần áo, cách mặc quần áo,
rữa tay sau mỗi lần đi vệ sinh và đi vệ sinh đúng nơi quy định.
- Đối với giờ ăn: Tôi đã tập cho trẻ thành các thói quen vệ sinh ăn uống tự
phục vụ thường xuyên ngay từ ban đầu đến giờ, biết đi rửa tay, rữa mặt sạch sẽ
đúng cách trước khi ăn, và biết tự giác phụ cô chuẩn bị giờ ăn theo lịch phân
công của tổ nhóm và có thói quen văn minh trong ăn uống biết tự xúc cơm ăn
gọn gàng, ăn nhai kỹ không đùa giỡn, khi ăn ho ngáp, hắt hơi biết lấy tay che
miệng...
Thao tác này cô phải cho trẻ làm hàng ngày tạo thành một phản xạ tự nhiên
nếu cô ngày nào cũng cho trẻ thực hiện thì hình thành cho trẻ thói quen hành vi
văn minh trong ăn uống, theo tôi một việc tuy đơn giản nhưng nếu cô làm đúng
thì có nghĩa là cô đã hình thành cho trẻ một hành vi một thói quen trong việc
chăm sóc bản thân trẻ một tâm trang sạch sẽ, hồ hởi chào đón bữa ăn.
+ Hoạt động chiều
Giáo viên cần tổ chức các buổi văn nghệ, nêu gương một cách thiết thực,
khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ.
- Cho trẻ xem băng hình về những hành vi đẹp, những hành động đẹp để trẻ
học tập, bắt chước, những trẻ có hành vi ứng xử giao tiếp đẹp trong ngày sẽ
được nêu gương khen tặng trong giờ bình bầu hoa bé ngoan vào buổi chiều bằng
hình thức nêu gương khích lệ khẳng định cái tôi của trẻ sau một ngày sẽ giúp trẻ
15
tự tin vào bản thân mình hơn, có lối sống tích cực lành mạnh, và để các bạn khác
học tập cùng tiến bộ.
Biện pháp 4: Giáo viên là tấm gương sáng cho trẻ học tập và noi theo.
- Là một giáo viên mầm non chủ nhiệm lớp với mong muốn giúp trẻ lớp
mình có những nhận thức, hành vi, kỹ năng sống tốt. Ngoài việc giáo dục trẻ
kiến thức, hành vi thái độ mọi lúc, mọi nơi trong hoạt động một ngày của trẻ thì
giáo viên cũng phải là một tấm gương để cho trẻ học tập, bắt chước. Chính vì
vậy bản thân tôi đã không ngừng học tập, tự rèn luyện bản thân có những hành
động, tác phong chuẩn mực để cho trẻ lớp mình học tập và noi theo.
+ Cách làm: Trong mọi hành động của mình ở trường cũng như ở nhà tôi luôn
luôn thực hiện nguyên tắc sống lành mạnh, từng lời nói, xưng hô giao tiếp với
trẻ với đồng nghiệp và mọi người xung quanh thật văn hóa không chửi bới quát
mắng, văng tục trước mặt trẻ, ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng, tiết kiệm, chống lãng
phí, bảo vệ sức khỏe bản thân. Hàng ngày, tôi cùng các giáo viên của lớp mình
luôn vệ sinh, sắp xếp môi trường trong và ngoài lớp học gọn gàng, sạch sẽ. Đồ
đạc trong lớp sau khi sử dụng đều được vệ sinh sạch sẽ cất đúng nơi quy định.
Tôi luôn gương mẫu và nhắc nhở trẻ lớp mình từng lời ăn tiếng nói xưng hô với
cô, với bạn tránh văng tục, chửi bậy, chơi xong biết thu dọn sắp xếp đồ dùng đồ
chơi ngăn nắp gọn gàng, biết phòng tránh những cái xấu cái tiêu cực và đặc biệt
là phải biết tự mình làm những công việc vừa sức. Trang phục khi đi làm cũng
như ở nhà luôn gọn gàng, sạch sẽ, phù hợp thời tiết. Trong mọi hoạt động tôi
luôn có ý thức nhắc nhở và cùng trẻ thực hiện những hành động có ích góp phần
nâng cao kỹ năng sống cho trẻ. Từ đó trẻ lớp tôi rất yêu quý các cô giáo nên mọi
hành động việc làm gương mẫu của cô giáo trẻ đều học tập theo và nghe lời cô
dặn khi về nhà. Trẻ rất ngoan và lễ phép sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng và biết tự
chăm sóc bản thân.
Biện pháp 5: Tuyên truyền, phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối kết
hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để giáo
dục trẻ. Để tạo được sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của phụ huynh vào các
hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giáo viên cần biết lắng nghe ý kiến của
cha mẹ trẻ chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh tư vấn và tuyên
truyền các kiến thức về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vì gia đình giáo dục
tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ không có gì khi
không được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậygiáo dục kỹ năng sống trong
nhà trường sẽ xóa đi rào cản đó. Vì vậy giáo viên và phụ huynh đều phải tiến
hành giáo dục trẻ song song với nhau.
Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về
sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục
rèn luyện cho trẻ ở nhà. Giáo viên cần nói chuyện ngắn gọn, dễ hiểu mang tính
thuyết phục cao có thể bằng những câu chuyện vui hấp dẫn nhẹ nhàng. Thông
qua những câu chuyện đó phụ huynh sẽ tự thảo luận trao đổi và rút cho mình bài
học kinh nghiệm. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý hơn đó là trẻ có thể
lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay nghịch thì tôi luôn tranh thủ đến
tận nhà để trực tiếp gặp gia đình của cháu trao đổi về thực trạng của cháu và
16
cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp đỡ cho trẻ tốt hơn. Những cử chỉ và việc
làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tôi thường nêu ra và tuyên dương trẻ đó
trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học tập.
Cuối tháng, thông qua sổ bé ngoan của trẻ tôi đều ghi rất cụ thể những kỹ
năng của trẻ đã làm được để phụ huynh nắm bắt. Qua thời gian rèn luyện trẻ lớp
tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như: trẻ mạnh dạn, lịch sự trong giao tiếp, xưng hô lễ
phép thân thiện.
Cha mẹ nên tập cho trẻ nhớ số điện thoại của ba hoặc mẹ và các số điện
thoại cần thiết như công an, cứu hỏa…Hãy cho phép trẻ vui chơi và bày đồ chơi
theo ý thích đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng trẻ, cái mà trẻ học được ở đây
là trẻ sẽ biết cất dọn đồ chơi sau khi chơi song, trẻ sẽ thỏa sức sáng tạo với
những đồ chơi mà trẻ có.
Trong dịp lễ tết, các ngày nghỉ ba mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham
gia vào việc dọn dẹp nhà cửa và ba mẹ nên chọn những chương trình truyền
hình phù hợp để trẻ và cả nhà cùng xem. Để giúp trẻ có khả năng cảm xúc ba,
mẹ có thể cho trẻ tạo các mối quan hệ bạn bè tại gia đình, các bạn thân chung
quanh trẻ.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của
Ban giám hiệu nhà trường, sự góp ý của các bạn đồng nghiệp trong trường qua
các buổi thao giảng, dự giờ. Lớp học của tôi đã đạt được những kết quả như sau.
* Đối với bản thân
Nắm chắc nội dung, phương pháp tổ các hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện sự sáng tạo trong từng hoạt động giáo
dục, hoàn thiện nhân cách sống cho trẻ đúng với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm, phát huy được vai trò của người học. Bản thân tôi được trau dồi kiến
thức và có thêm những kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ, phấn khởi hơn khi
tổ chức các hoạt động trong ngày mà không cần lo lắng e dè mỗi khi có Ban
giám hiệu dự giờ hay đón đoàn thanh tra kiểm tra, được phụ huynh và các bạn
đồng nghiệp thương yêu, quý mến hơn.
* Đối với phụ huynh
Phụ huynh đã có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn tiếng
nói và quan tâm đến con của mình ngày càng nhiều hơn, có sự thay đổi nhìn
nhận về chăm sóc và giáo dục kỹ năng sống trong học tập và các hoạt động chơi
của con mình, nhận thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mầm non. Qua học hỏi và vận dụng kinh nghiệm thực tế tại trường lớp
đã giúp một số phụ huynh trước đây có sự giáo dục khập khiễng, trống đánh
xuôi kèn thổi ngược, không cho con làm những việc mà giáo viên giao cho trẻ
thực hiện khi về nhà nay đã nhận thức được vấn đề, họ đã rất nhiệt tình phối hợp
và rất yên tâm khi đưa con đến lớp.
* Đối với trẻ
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ trong
lớp tôi đang dạy, về kỹ năng sống trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ ngoan hơn, lễ
phép hơn, trẻ được hình thành những thói quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh
dạn với mọi người, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay,
17
biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ. Trẻ tham gia vào các hoạt động
một cách tự tin mạnh dạn giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô
giáo đạt kết quả tốt.
Trẻ lớp tôi có sự chuyển biến rõ nét về việc hình thành các kỹ năng sống:
giao tiếp, hợp tác làm việc theo nhóm, thể hiện tinh thần đồng đội, biết chia sẻ,
cư xử với nhau một cách thân thiện, biết giải quyết vấn đề, giải quyết xung
đột…Và phát triển những phẩm chất tốt đẹp như: tính kiên trì, tính trung thực,
biết nhường nhịn, biết cư xử đẹp khi thắng thua.
Trẻ tự tin tham gia vào các hoạt động của trường lớp. Điều này chứng
minh rằng việc vui chơi bằng các trò chơi, các hoạt động cho trẻ thực hành trải
nghiệm cùng với các phương thức sử dụng đa dạng, linh hoạt đã giúp trẻ tiếp
nhận kỹ năng sống một cách hiệu quả. Trẻ đã biết chuyển hóa từ hoạt động
thành ý thức, từ ý thức thành kỹ năng và những kỹ năng sống đó sẽ phát triển
bền vững theo trẻ đến suốt cuộc đời.
+ Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Nội dung
Số
Tốt
Khá
trẻ
SL
ks
50
25/50 50%
Kỹ năng hợp 50
tác
Kỹ năng
giao tiếp
Sự tò mò và
Tính tự tin
%
SL
%
TB
Yếu
SL
%
SL
%
20/50 40%
5/50
10%
0
%
20/50 40%
25/50 50%
5/50
10%
0
%
50
28/50 56%
18/50 36%
4/50
8%
0
%
50
35/50 70%
12/50 24%
3/50
6/%
0
%
50
38/50 76%
10/50 20%
2/50
4/%
0
%
khả năng
sáng tạo
Kỹ năng tự
phục vụ
- Điều đó có thể khẳng định rằng những biện pháp dạy trẻ kỹ năng sống mà
tôi đã đề ra và dạy trẻ đã mang lại hiệu quả cao trong quá trình hình thành kỹ
năng sống cho trẻ được nhà trường đánh giá và phụ huynh ghi nhận.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành
công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý
linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
Trong mỗi đứa trẻ đều có những tài năng tiềm ẩn. Sự chuẩn bị kỹ ngay từ
lúc đầu đời chính là chìa khoá thành công cho tương lai mỗi cháu. Chăm sóc,
18
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển
toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ là nền tảng cho quá trình học
tập suốt đời của trẻ. Người lớn hãy luôn khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia
các hoạt động, các trò chơi, cần biết cải tiến, sáng tạo các cách chơi và cố gắng
đạt mục đích, đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Bên cạnh đó người lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, không
nên ép trẻ lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận từng lứa tuổi của
trẻ. Cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu
bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ,
chia sẻ những cảm xúc với người khác bằng lời nói và hành động cụ thể.
Qua việc lập kế hoạch thực hiện một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Đối với lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa biết hành vi nào xấu, hành vi nào tốt
điều cần làm trứơc hết là cô giáo phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng,
đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Cần có kế hoạch thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng sống phù hợp với
độ tuổi mầm non, phù hợp theo chủ đề. Nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề,
cụ thể, rõ ràng. Từng hoạt động phải luôn hướng vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm.
Biết kích thích động cơ bên trong của trẻ, gây hứng thú cho trẻ; Khen, chê đúng
mức, động viên khích lệ kịp thời, nêu gương những trẻ có hành vi đẹp có văn
hóa nhằm khích lệ động viên trẻ trong ý thức và hành động.
- Nắm vững phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Kỹ năng
sống được lồng ghép thông qua các hoạt động có trong nhà trường và ở mọi lúc
mọi nơi, các hoạt động chuyên môn, lễ hội…
- Muốn cho trẻ có được kỹ năng sống tốt thì công tác phối kết hợp giữa nhà
trường, gia đình, giữa giáo viên chủ nhiệm với trẻ với phụ huynh thông qua các
giờ đón trả trẻ, các hoạt động giao lưu văn nghệ giữa giáo viên và phụ huynh,
các hoạt động lễ hội…Phải thực sự gắn kết và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
cùng nhau hướng về trẻ để giúp trẻ hoàn thiện mình và có kỹ năng sống trọn
vẹn.
- Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: Cô
giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện,
dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể
chuyện cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân
cách cho trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng vào các hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của lớp học và cũng có một số kinh nghiệm
rút ra từ thực tế của lớp học để áp dụng vào giờ hoạt động chăm sóc giáo dục
trẻ. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu
nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động cho trẻ theo chương trình hiện hành. Song
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong được sự góp ý của các
đồng chí giáo viên trong trường, Ban giám hiệu nhà trường và các cấp lãnh đạo
nghành để tôi có những biện pháp giáo dục tốt hơn qua các hoạt động giáo dục
nói chung và tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống nói riêng.
2. Kiến nghị:
19
Đề nghị Ban giám hiệu và Phòng giáo dục tiếp tục tạo điều kiện bổ sung
thêm tài liệu tham khảo, tư liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non đến
giáo viên để giáo viên tham khảo và nghiên cứu tổ chức các hoạt động ngày
càng phong phú, đa dạng hơn...
Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn tích hợp nội dung hình
thành kỹ năng sống vào những hoạt động học và chơi hàng ngày của trẻ để giáo
viên dự, học tập rút kinh nghiệm.
Trên đây là một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã triển
khai thực hiện và đã áp dụng thành công ở trường mầm non Hàm Rồng và thu
được kết quả tốt. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo,
chị em đồng nghiệp để đề tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn
trong năm học tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là của
mình viết. Không sao chép của người
khác.
Người viết
Lương Thị Thu Hường
XÁC NHẬN CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐTTP
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình, (2008), Giáo dục kĩ năng sống,Nxb ĐHSP.
2. Lê Bích Ngọc,(2013), Giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo, Nxb ĐHQG HN.
3. Huỳnh Văn Sơn, (2009), Nhập môn kĩ năng sống, Nxb Giáo dục.
21
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lương Thị Thu Hường
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường mầm non Hàm Rồng
Kết quả
Cấp đánh
đánh
Năm học
giá xếp loại giá xếp
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá xếp
(Phòng, Sở, loại (A,
loại
Tỉnh...)
B, hoặc
C)
1 Một số biện pháp giáo dục
Phòng
Loại C
2017 – 2018
GD&ĐT
kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi
TP- Thanh
tại trường MN Hàm Rồng
Hoá
22