Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.3 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.2.1. Nguyên nhân
2.2.2. Đánh giá thực trạng
2.3. Một số giải pháp.
2.3.1. Đánh giá học sinh thường xuyên.
2.3.2. Luyện cho học sinh thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.
2.3.3. Giúp học sinh sử dụng các thuật ngữ toán học để viết lời giải
chính xác, khoa học.
2.3.4. Hướng dẫn giải toán có lời văn.
2.3.5. Rèn luyện kĩ năng học tập:

8
9
12

2.3.6.Thiết kế dạng bài tập vừa sức, phù hợp với học sinh chưa đạt
chuẩn kiến thức, kĩ năng.

12



2.3.7. Xây dựng phong trào giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
2.3.8. Kịp thời khuyến khích, khen thưởng sự cố gắng, tiến bộ của
học sinh chậm tiếp thu sau mỗi tuần.
2.3.9. Phối kết hợp với nhà trường và phụ huynh để có những biện
pháp rèn học sinh đạt kết quả cao hơn.
2.4. Hiệu quả
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1
1
2
2
2
2
3
3
5
5
5

13
14
14
15
15
16



1.

PHẦN MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài :
- Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không”
mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn
hiện nay. Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng
trong phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học, do thiếu kinh nghiệm và thực
hiện không đúng quy trình, hoặc quá nôn nóng muốn có ngay kết quả, nên
thường thất bại hoặc đạt kết quả không cao.
- Nhằm tập hợp kinh nghiệm, xây dựng quy trình phụ đạo, giúp giáo viên
có định hướng và giải pháp phụ đạo tốt hơn, có hiệu quả hơn. Nhằm chia sẽ các
kinh nghiệm giáo dục HS chưa hoàn thành các môn học với quý đồng nghiệp và
tổng hợp nhiều hơn các giải pháp có thể áp dụng vào giảng dạy, tháo gở khó
khăn trong công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học trong giai đoạn
hiện nay.
Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người Giáo viên
không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo
khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy
móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì
việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ
không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các
em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với
những đổi mới diễn ra hàng ngày. . Trong thực tế hiện nay đòi hỏi phải nâng
cao chất lượng học tập cho học sinh nhất là bậc tiểu học, bởi vì tiểu học là bậc
học nền móng. Là một giáo viên tiểu học tôi nhận thấy trách nhiệm của mình là
rất lớn, phải làm gì để nâng cao chất lượng học tập cho các em học sinh, đặc

biệt là môn toán lớp 3 nói riêng và các môn học khác nói chung mà tôi đang
tiến hành giảng dạy. Từ suy nghĩ ấy cùng với tình hình thực tế của lớp, tôi đã
đúc rút được một vài kinh nghiệm trong quá trình giúp học sinh chưa hoàn
thành môn toán của lớp. Đó là: “Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa
hoàn thành môn toán lớp 3”, tôi xin đưa ra nhằm khắc phục những hạn chế
của học sinh khi giảng giải bài toán có lời văn, bài toán tìm thành phần chưa
biết… Trên cơ sở tìm hiểu nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần cho tôi định
hướng giảng dạy tốt các môn nói chung và môn toán nói riêng. Qua giảng dạy
rèn luyện tôi hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển trí tuệ và
năng lực của học sinh. Trong đó việc học tốt môn toán là cơ sở giúp các em học
tốt các môn khác, bước lên lớp trên một cách thuận lợi hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Như đã nêu trên, mục đích nghiên cứu là mong muốn tập hợp nhiều ý
kiến, nhiều giải pháp và kinh nghiệm, để chia sẻ, trao đổi nhằm thực hiện có
chất lượng hơn công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành các môn học ; Giúp giáo
viên dễ dàng áp dụng mang lại hiệu quả cao hơn trong giáo dục HS chưa hoàn
thành các môn học . Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2


Thực hiện tốt “Nói không với học sinh ngồi nhầm lớp”, thực hiện đúng
mục tiêu giáo dục đã đề ra. Tôi luôn xác định cho mình nhiệm vụ quan trọng
trong việc giảng dạy các môn học nói chung và môn toán lớp 3 nói riêng. Làm
thế nào để nâng cao chất lượng môn toán cho các em từ chưa hoàn thành lên
hoàn thành, từ hoàn thành lên hoàn thành tốt, từ hoàn thành tốt lên hoàn thành
xuất sắc. Để đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay, học sinh phải nắm được
một hệ thống kiến thức toán học cơ bản hiện đại và các kĩ năng cơ bản sau:
Vận dụng kiến thức, thực hành, suy luận, phát triển các năng lực nhận
thức, trí tuệ, tư duy độc lập sáng tạo, có tư tưởng, tình cảm và thái độ đúng đắn
với sự kiện, hiện tượng thực tiễn, chống hiện tượng học sinh lưu ban, học sinh

bỏ học hay sợ học khi chưa hoàn thành môn học. Giúp các em trở nên ham học
hơn, nó sẽ là những công cụ cần thiết để các em học các môn học khác và tiếp
tục học lên các lớp trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các phương pháp dạy học Toán 3.
- Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3.
- HS lớp 3B Trường Tiểu học Đông Vệ 2 chưa hoàn thành môn Toán.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học
sinh lớp 3B.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp tổng hợp.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Năm học 2017-2018 là năm học tiếp tục thực hiện Thông tư 22 sửa đổi, bổ
sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo
thông tư số 30/2014/ TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của bộ trưởng bộ
giáo dục và đào tạo. Việc đánh giá học sinh về Năng lực ở các mức: Hoàn
thành tốt; Hoàn thành và chưa hoàn thành. Về phẩm chất: Tốt, Đạt và Cần cố
gắng, đã phần nào giúp học sinh tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp
tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Đối với giáo viên, việc điều
chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, ...kịp thời
phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện
những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ học
sinh, có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học
tập, rèn luyện của học sinh là vô cùng quan trọng.
2.2. Thực trạng:
- Năm học 2017 – 2018 tôi nhận giảng dạy lớp 3, lớp tôi phụ trách có 37

học sinh, một phần chất lượng chưa cao vì chủ yếu các em con nhà buôn bán ít
được bố mẹ quan tâm, tạo điều kiện trong học tập, vì vậy các em còn hạn chế về
nhiều mặt nhất là khả năng diễn đạt.
3


- Ở trong một lớp học, cùng lứa tuổi với nhau nhưng do sự chú ý, óc quan
sát, trí tưởng tượng một số em còn phát triển chậm. Khi phân tích, tổng hợp các
em chỉ dựa vào các dấu hiệu dễ thấy ở bên ngoài, kém linh hoạt, việc lĩnh hội
kiến thức trước đó không đầy đủ, thiếu vững chắc, thái độ học toán của các em
chưa tốt, thiếu siêng năng học tập. Hoạt động tư duy kém, sử dụng ngôn ngữ
toán học còn lúng túng, nhiều chỗ lẫn lộn, do hoàn cảnh gia đình khó khăn,
thiếu sự quan tâm của cha mẹ. Các em học yếu, tính chậm chủ yếu dựa vào trực
quan hay lời gợi ý của giáo viên mới tính được, nhớ bài một cách máy móc.
Chính vì vậy mà khả năng vận dụng để làm bài tập của các em rất hạn chế đặc
biệt là toán có lời văn. Việc viết lời giải đối với các em cũng gặp rất nhiều khó
khăn. Trong các đề kiểm tra của trường, phần giải toán có lời văn chiếm một số
điểm cũng khá cao. Một bài giải hoàn chỉnh phải bao gồm lời giải và phép tính,
nếu viết câu lời giải sai thì xem như hỏng cả bài toán. Do đó, để giúp những em
chưa hoàn thành môn toán ham thích và học được toán đặc biệt là ghi nhớ được
bảng nhân, chia và làm tốt bài toán có lời văn là một việc làm hết sức quan
trọng và cần thiết
- Nhìn chung lớp tôi chủ nhiệm có nhiều em thực hiện chưa tốt các phép
tính nhân, chia trong chương trình toán 3 vì các em chưa thật sự thuộc bảng
nhân, chia đã học một cách trôi chảy. Về toán có lời văn đa số các em còn chưa
hoàn thành đặc biệt là khâu viết câu lời giải các em còn nhiều lúng túng.
2.2.1 Nguyên nhân
- Qua thực tế giảng dạy và dự giờ tôi thấy biện pháp tổ chức cho học sinh
tự khám phá kiến thức khi dạy học môn toán chưa cao.
- Học sinh chưa nắm chắc cách đặt tính và thực hiện phép tính cũng như

giải toán có lời văn.
- Trong tiết dạy - học toán giáo viên ít tổ chức trò chơi trong học tập nên
tiết học gò bó, căng thẳng
2.2.2. Đánh giá thực trạng
* Thực trạng từ phía học sinh:
- Qua quá trình tìm hiểu và từ thực tế dạy học của mình, tôi thấy những
học sinh được xếp vào học lực chưa hoàn thành môn Toán 3, phần lớn có nhiều
lỗ hổng về kiến thức, kĩ năng. Có khá nhiều lí do dẫn đến học sinh có kết quả
môn Toán hạn chế như: chưa nắm chắc kiến thức ở lớp dưới (chưa thuộc bảng
nhân, bảng chia ,cộng trừ nhẩm còn chậm...; khả năng tiếp thu kiến thức, năng
lực tư duy yếu; khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, lười học tập,
suy nghĩ; việc chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền; một
số em lại học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức để thực hành tính, kĩ
năng giải toán; một số em cũng chưa được sự quan tâm của gia đình, người
thân, đi học thiếu sách vở, đồ dùng học tập do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc hoàn
cảnh gia đình đặc biệt.
- Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng các đối tượng học sinh chưa hoàn
thành môn Toán lớp 3 thường không thực hiện được kĩ năng tính, nhất là gặp rất
nhiều khó khăn khi nhân (chia) với (cho) số có nhiều chữ số, hay lẫn dạng và
4


chưa phân được cách giải các dạng toán có lời văn mới được dạy trong chương
trình (Toán Rút về đơn vị (dạng 1: có một phép nhân và một phép chia; dạng 2:
có hai phép chia), Toán về Tìm một phần mấy của một số ….), việc nhận dạng
các hình hình học hay kĩ năng chuyển đổi các đơn vị đo lường còn chậm...
- Học sinh chưa chú ý tập trung còn hay mất trật tự, làm việc riêng trong
giờ học. Không luyện tập thực hành khi giáo viên giao bài về nhà.
- Nhiều em tiếp thu bài chậm vì sự phát triển tư duy chưa cao, chủ yếu là
tư duy cụ thể, ghi nhớ máy móc, việc huy động vốn kiến thức thực tiễn của các

em chưa nhiều.
*Thực trạng từ phía giáo viên:
Đối với giáo viên dạy lớp 3: tôi thấy mình đã cố gắng rất nhiều. Tuy nhiên,
từ chính bản thân mình nói riêng và các đồng nghiệp dạy lớp 3 nói chung, tôi
thấy còn một số hạn chế như sau:
- Tôi thấy mình và đồng nghiệp chưa chú ý đúng mức đến đối tượng học
sinh tiếp thu chậm, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút
để giúp đỡ các em.
- Trong những năm qua, tôi đã có xây dựng các bài tập củng cố kiến thức
để phụ đạo và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành, tuy nhiên hệ thống bài tập mà
tôi xây dựng đang còn chung chung, chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong lớp, nhất là với đối tượng học sinh tiếp thu chậm.
- Giáo viên chưa chú trọng giải pháp tâm lí cũng như sự động viên, khuyến
khích, tuyên dương kịp thời những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt khi
các em tiến bộ.
* Thực trạng từ phía gia đình học sinh.
Từ thực tiễn dạy học của mình, ngoài những học sinh còn chưa đạt chuẩn
kiến thức kĩ năng Toán lớp 3 do trí tuệ, còn đa số các em còn lại đều rơi vào
những gia đình có hoàn cảnh rất khó khăn, không quan tâm đến việc học của
con, hoặc những gia đình quan tâm thì bố mẹ lại không có phương pháp sư
phạm, hoặc không nắm được cách giải Toán Tiểu học, hoặc không có kiến thức
để giúp hoặc hỗ trợ chợ con cho việc học ở nhà. Chính vì vậy, các đối tượng
học sinh này, có nâng bậc và tiến bộ được hay không, phụ thuộc hầu như hoàn
toàn vào cô giáo dạy trên lớp.
* Chất lượng khảo sát đầu năm học 2017 - 2018 môn Toán lớp 3B
Trường Tiểu học Đông Vệ 2 – TP Thanh Hoá như sau.
Hoàn thành Tốt

Hoàn thành


Chưa Hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

10

27,1%

18

48,6%

9

24,3%

* Dự giờ đồng nghiệp 2 tiết:
Bài: Cộng các số có ba chữ số(có nhớ 1 lần)
5



Bài: Phép trừ các số trong phạm vi 10 000
Qua khảo sát và dự giờ đồng nghiệp tôi rút ra một số nhận xét như sau:
Nhược điểm giờ dạy của đồng nghiệp:
- Học sinh còn chưa chủ động trong việc vận dụng cách đặt tính cộng có
nhớ các số có hai chữ số với số có hai chữ số ở lớp 2 để tìm ra cách đặt tính ở
phần bài mới.
- Phần bài mới GV nên cho học sinh tự nêu lên cách đặt tính và cách tính
của mình.
- Phần luyện tập: sau mỗi bài tập GV nên cho học sinh nhận xét nêu lại
cách đặt tính, cách tính để khắc sâu kiến thức của bài.
- Chưa phát huy được tính độc lập sáng tạo của học sinh.
- Học sinh nắm bài máy móc.
- Học sinh yếu kém còn lúng túng khi thực hiện.
Với chất lượng khảo sát đầu năm tôi rất băn khoăn, trăn trở, tự đặt ra câu
hỏi: Tại sao chất lượng học sinh môn toán lại yếu như vậy? Tôi đã mạnh dạn
trao đổi với ban giám hiệu, chị em đồng nghiệp trong trường và trường bạn. Tôi
đi dự giờ những GV có kinh nghiệm trong chuyên môn để đưa ra những biện
pháp để rèn kĩ năng thực hiện phép tính cộng trừ cũng như giải toán cho học
sinh chưa hoàn thành lớp 3.
- Từ đó tôi suy nghĩ tìm hiểu, lựa chọn các phương pháp, biện pháp mới, để
giúp học sinh có kĩ năng, thói quen và căn bản trong quá trình học toán.
2.3. Một số giải pháp.
2.3.1. Đánh giá học sinh thường xuyên.
Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện về
kiến thức, kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học
sinh, được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và các hoạt động
giáo dục. Đánh giá thường xuyên cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và
học sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh theo
mục tiêu giáo dục tiểu học.

* Đánh giá thường xuyên về học tập:
- Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng
và cách sửa chữa; viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi
cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời.
- Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn,
nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập để học và làm tốt hơn.
- Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên về các nhận xét,
đánh giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phối hợp với giáo viên động
viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện.
2.3.2. Luyện cho học sinh thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.
- Được phân công giảng dạy lớp 3, theo tôi nghĩ, học sinh học tốt môn toán
thì không thể không luyện cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Bởi lẽ học
sinh có thuộc bảng nhân, chia mới vận dụng giải các bài tập có liên quan. Đặc
biệt là các phép chia có số bị chia 3, 4 chữ số và giải toán hợp.
6


- Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, chia tôi làm như
sau:
+ Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, chia và tôi chốt lại
cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau:
Ví dụ: Bảng nhân.
* Các thừa số thứ nhất trong bảng nhân đều bằng nhau.
* Các thừa số thứ hai trong bảng nhân đều khác nhau theo thứ tự là 1, 2, 3,
4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Mỗi thừa số này liền nhau hơn kém nhau 1 đơn vị. ( trong
bảng nhân các thừa số thứ hai nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 10 không có thừa số
0).
* Các tích cũng khác nhau và mỗi tích liền nhau hơn kém nhau bằng thừa
số thứ nhất. (Tích thứ nhất trong bảng nhân chính là thừa số thứ nhất, tích cuối
cùng trong bảng nhân gấp thừa số thứ nhất 10 lần).

Ví dụ: Bảng chia 9.
* Các số bị chia trong bảng chia 9 là các tích của bảng nhân 9, và hơn kém
nhau 9 đơn vị.
* Số chia trong bảng chia 9 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 9 đều là 9.
* Các thương của bảng chia 9 là thừa số thứ hai của bảng nhân 9.
+ Hàng ngày, đầu giờ học môn toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động,
tôi thay vào cả lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng
nhân 2, bảng chia 2 đến bảng nhân, chia hiện học.
+ Sau mỗi giờ học toán tôi thường kiểm tra những học sinh chưa thuộc bảng
nhân, chia từ 2 đến 4 em.
+ Tôi thường xuyên kiểm tra học sinh bảng nhân, chia bằng cách in bảng
nhân, chia trên giấy A4, nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần
của phép nhân, chia trong bảng. Vào cuối tuần dành thời gian khoảng 10 phút
cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân, chia như yêu cầu. Tôi và học
sinh cùng nhau nhận xét, khen ngợi học sinh hoàn thành bài tốt, nhắc nhở, động
viên các em chưa hoàn thành bài.
+ Tôi cũng thường xuyên cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa
thuộc vào vở riêng. Ngày sau trình bày và đọc cho tổ trưởng nghe vào đầu giờ,
sau đó tổ trưởng báo cáo cho giáo viên.
Ở trên lớp, giáo viên quan tâm, phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến
thức mà học sinh mắc phải. Có học sinh chưa thuộc bảng nhân (chia) chưa
thành thạo với (cho) số có một chữ số, cũng có học sinh kĩ năng trừ nhẩm chưa
tốt. Ví dụ trước khi dạy cho các em kĩ năng nhân (chia) thì giáo viên cần xem
trong lớp những em nào còn chưa thuộc bảng nhân (chia ) thành thạo hay chưa
trừ nhẩm thành thạo thì cần có bài tập để lấp những lỗ hổng kiến thức này. Có
thể ra các dạng bài tập để củng cố kiến thức, kĩ năng. Cụ thể:
Bài 1: Tính nhẩm:
7 × 9 = ............
6 × 8 = ............
42 : 7 = .............

64 : 8 = ............
54 : 6 = ...........
36 : 4 = .................
.Bài 2: Đặt tính rồi tính

7


a,
c,

589 + 72
b, 157 - 78
268 × 7
d,
384 : 7
Để thực hiện tốt kĩ năng tính ở chương trình Toán 3, học sinh cần
phải làm được các bài tập trên, bởi nếu không thuộc bảng nhân, chia,
không trừ nhẩm được hay chưa có kĩ năng nhân (chia) thì hậu quả
kéo theo là các em sẽ không thể nhân (chia)
* Để tạo hứng thú trong học tập và khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh
chơi trò chơi.
- Để giờ học thêm sinh động và đạt hiệu quả, trò chơi được sử dụng
trong tiết học toán như một hình thức “ Học mà chơi, chơi mà học”.
Thông qua trò chơi học sinh được củng cố lại những kiến thức vừa học
một cách tự nhiên, rất hào hứng sôi nổi không khí lớp học tránh được sự gò bó,
căng thẳng.
Ví dụ: Đối với bài tập 4: đúng ghi Đ, sai ghi S ( Bài: Trừ các số có 3 chữ
số có nhớ một lần)
Nhóm1

Nhóm 2
237

-

160

=

177

237

-

628

-

256

=

426

628

- 256

= 426


555

-

44

=

995

555

- 44

= 995

160

= 177

- Tôi tổ chức cho 2 nhóm mỗi nhóm 3 em lên chơi trò chơi “Ai nhanh hơn”
- Khi học sinh hoàn thành giáo viên cùng học sinh cả lớp nhận xét vì sao
điền đúng, vì sao điền sai (lúc này học sinh sẽ nêu lại cách thực hiện đúng. Trên
cơ sở bài cho sẵn học sinh chỉ việc nhẩm theo hàng, theo cột mà học sinh đã
được học để tìm ra kết quả đúng nhất, nhanh nhất bằng khả năng nhẩm của
mình).
GV tuyên bố đội thắng cuộc. Đội thắng cuộc được các bạn cổ vũ, động viên
nên các em rất hăng hái, tiết học vui, sôi nổi, đồng thời tạo mối quan hệ gắn bó
gần gũi giữa thầy và trò.

- Thông qua trò chơi rèn cho học sinh tính nhanh nhẹn và kĩ năng thực hiện
trừ số có 3 chữ số ( có nhớ 1 lần )
Ví dụ: Trò chơi ôn lại bảng nhân ( trò chơi lô tô)
Tôi chuẩn bị nhiều bảng theo thứ tự đảo ngược như sau:
8

20

16

32

12

24

28

36
8


40

40

20

32


16

24

12

8

36

28

Giáo viên phát cho mỗi em một bảng. Giáo viên hoặc lớp trưởng lần lượt
đọc mỗi lần 1 phép tính trong bảng nhân 4 nhưng không nêu kết quả. Học sinh
nghe và tự tìm kết quả đánh dấu vào ô có kết quả đúng. Nếu học sinh nào điền
đúng, đủ 3 ô hàng ngang hoặc hàng dọc thì em đó thắng. Giáo viên quan sát lại
khen thưởng học sinh thắng cuộc, khuyến khích học sinh làm chưa tốt.
Tiếp tục như những cách làm trên cho đến khi cả lớp đều thuộc từ bảng
nhân, chia 2 đến 9. Qua thời gian không lâu lớp tôi có 15, 16 học sinh thuộc tất
cả bảng nhân chia từ 2 đến 9. Chỉ còn một HS do tư duy của em có phần chậm
hơn so với những bạn cùng lứa tuối nên em thuộc chưa trôi chảy, thường thì
giáo viên hoặc các bạn khác phải nhắc một vài phép tính khi em được kiểm tra
2.3.3. Giúp học sinh sử dụng các thuật ngữ toán học để viết lời giải chính
xác khoa học .
Với một số bài toán có liên quan đến đại lượng như : độ dài, thời gian …
Học sinh thường viết như sau :
Ví dụ 1 : Số mét hai cuộn vải dài là :
Ví dụ 2 : Chiếc tem thư có số đồng là:
Ví dụ 3 : Số giờ làm công việc đó bằng máy là :
Với các trường hợp trên : tôi thường hỏi học sinh để khắc phục những lỗi

đó, chẳng hạn như : “ Số mét hai cuộn vải còn được gọi là gì ?” “ Giờ, phút,
giây……, là đơn vị đo gì ?” Học sinh sẽ nhận ra được tên gọi của các đại
lượng để viết lời giải chuẩn hơn như :
- Độ dài hai cuộn vải là :
- Giá tiền một chiếc tem thư là :
- Thời gian làm công việc đó bằng máy là :
2.3.4. Hướng dẫn giải toán có lời văn.
Khi giải toán có lời văn Các em thường chưa biết phân tích đề toán, chưa
biết suy luận, tổng hợp, so sánh tìm cách giải hợp lí cho từng bài. Vì vậy, trong
mỗi tiết học gặp những bài toán giải có lời văn tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài
Học sinh tiếp thu chậm nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán
đó nói gì thì không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý
giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm cần phải tìm,
tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó.
9


*Ví dụ khi dạy dạng bài: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. (Trang
166, Toán 3)
Đề bài toán ở sách giáo khoa: Có 35lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu có
10lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế?
*Tôi đã hướng dẫn nhóm tiếp thu chậm giải như sau:
- Bước 1: Đọc kĩ đề toán.
- Bước 2: Tóm tắt đề toán.
- Bước 3: Phân tích bài toán.
- Bước 4: Viết bài giải.
- Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
*Cụ thể như sau:
- Đọc kĩ đề toán: Đối với đối tượng học sinh yếu đọc ít nhất 3 lần có như
thế mới giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản: Những “ dữ kiện” là những cái

đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần phải
tìm, cuối cùng là những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Tránh
thói quen xấu là vừa đọc đề xong đã vội làm ngay.
- Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề, các em biết lượt bớt một số câu chữ,
làm cho bài toán gọn lại. Nhờ đó đã làm rõ mối quan hệ cái đã cho và cái phải
tìm. Trong thực tế có rất nhiều cách tóm tắt một bài toán, nếu các em càng nắm
được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi hơn. Thế nhưng đối
với các em học sinh tiếp thu chậm tôi chỉ hướng dẫn các em chọn cách tóm tắt
nào dễ hiểu và rõ nhất là được, chẳng hạn như cách tóm tắt bằng chữ.
35 lít mật ong: 7 can
10 lít mật ong: . . . can?
- Phân tích bài toán: Tóm tắt xong các em cần phải phân tích đề bài để
tìm ra cách giải. Đối với học sinh tiếp thu chậm ở bước này tôi cần sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp. Phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các
câu hỏi như sau:
+ Bài toán trên cho biết gì? (35l mật ong đựng vào 7 can)
+ Bài toán hỏi gì? (10l mật ong đựng trong bao nhiêu can?)
+ Muốn biết 10lít mật ong đựng đều trong mấy can, ta phải làm gì? (tìm xem
1 can đựng được bao nhiêu lít mật ong).
+ Muốn tìm được 1 can đựng bao nhiêu lít mật ong ta làm thế nào?(Làm
phép tính chia( Ta lấy 35l mật ong chia cho 7 can thì được 5 lít))
Số lít mật ong đựng trong 1 can là:
35 : 7 = 5 ( l )
Vậy ta phải tìm 10l mật ong đựng trong bao nhiêu can bằng cách nào ? (Lấy
10lít chia cho số lít ở mỗi can vừa tìm được thì ra kết quả.)
Số can đựng 10lít mật ong là:
10 : 5 = 2 (can)
Nếu đến bước này có học sinh nào không hiểu tôi sẽ minh họa bằng sơ đồ
đoạn thẳng (Chẳng hạn vẽ 1 đoạn thẳng lớn tượng chưng cho 35lít phân thành 7
phần bằng nhau và một phần là 1can 5 lít, Vẽ 1 đoạn thẳng khác dài bằng 2

phần ở đoạn trên từ đó học sinh sẽ tìm ra được bao nhiêu can)
10


+ Giáo viên giảng lại cho những học sinh tiếp thu chậm biết được một can
đựng 5 lít rồi thì để tìm 10 lít đựng vào mấy can ? (Lấy 10lít chia cho số lít ở
mỗi can vừa tìm được thì ra kết quả) Nếu có học sinh nào không hiểu tôi sẽ tiếp
tục cho các em minh họa bằng đồ dùng trực quan.
-Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, tôi đã hướng các em hoàn thiện bài toán
một cách đầy đủ, chính xác và tôi chỉ việc yêu cầu các em cách trình bày bài
toán cân đối ở vở là được.
Bài giải
Số lít mật ong đựng trong mỗi can là:
35 : 7 = 5 (l)
Số can cần có để đựng 10lít mật ong là:
10 : 5 = 2 (can)
Đáp số: 2 can mật ong.
Cuối cùng, khi củng cố dạng bài toán này tôi cho học sinh rút ra các bước
cơ bản sau:
- Đọc kĩ đề toán
-Phân tích đề toán xem bài toán đó đã cho biết gì và bắt đi tìm cái gì ?
- Tóm tắt và giải trên giấy nháp cho rõ ràng.
-Kiểm tra lời giải và đánh giá kết quả: Đối với những em tiếp thu chậm thì
việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành
thói quen đối với các em. Cho nên tôi cần hướng dẫn các em các bước như sau:
+ Đọc lại lời giải.
+ Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí so với yêu cầu của bài chưa, các
câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
+ Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
+ Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề chưa.

Những biện pháp trên được áp dụng ở lớp tôi về giải bài toán có liên quan
đến rút về đơn vị và mang lại kết quả tương đối cao và trong lớp bây giờ có
khoảng ba phần tư học sinh giải thành thạo.
* Một số lỗi học sinh thường mắc phải khi viết lời giải:
+ Nội dung lời giải sai lệch với phép tính tương ứng.
Ví dụ: - Bài toán hỏi số hộp bút thì các em trả lời số bút trong hộp.
- Bài toán hỏi số quả cam còn lại thì các em trả lời số cam có hoặc số
cam bán. câu văn sai, lúng túng do sắp xếp các từ ngữ sai trật tự.
Ví dụ: - Số ki-lô-gam con vịt nặng gấp số lần con ngỗng là …
+ Diễn đạt thừa (hoặc thiếu hoặc chưa chuẩn xác) dẫn đến câu sai ngữ
nghĩa.
Ví dụ: Số đường công nhân phải sửa là…
* Một số giải pháp hướng dẫn học sinh viết đúng câu lời giải
+ Dựa vào câu hỏi để viết lời giải:
* Đối với các lời giải có nội dung sai với phép tính tương ứng.
Ví dụ bài toán: Người ta xếp 800 cái bánh vào các hộp, mỗi hộp 4 cái. Hỏi xếp
được bao nhiêu hộp bánh.
- Có học sinh làm lời giải như sau:
Mỗi hộp có số cái bánh là:
11


800 : 4 = 200 ( hộp)
- Trong trường hợp trên tôi nhận thấy học sinh vì bản chất chưa hiểu đề.
Trong quá trình giúp học sinh chữa bài tôi đã hướng dẫn các em bám vào câu
hỏi là: “ Hỏi xếp được bao nhiêu hộp bánh?” thì chỉ cần sửa lại câu hỏi một
chút là ra lời giải: “Số hộp bánh xếp được là :”
- Bằng cách bám vào câu hỏi để viết lời giải đòi hỏi học sinh phải đọc kỹ đề
toán để biết được bài toán hỏi gì ? Từ đó học sinh nắm chắc được nội dung bài
toán và ít bị nhầm lẫn .

+ Dựa vào phép tính để viết lời giải :
- Đối với một bài toán khi hướng dẫn giải tôi hướng dẫn các em tìm phép tính
trước, sau đó dựa vào phép tính để viết lời giải .
Ví dụ: Bài tập tiết luyện tập trang 58 sách giáo khoa toán 3: Thu hoạch ở thửa
ruộng thứ nhất 127 kg khoai tây, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần ở
thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki lô
gam khoai tây ?
+ Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm phép tính
…………………………………………..
127 x 3 = 381
…………………………………………
127 + 381 = 508
+ Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm lời giải đúng cho phép tính:
Chỉ vào phép tính và hỏi : 381 chính là số kg khoai tây thu hoạch được ở
thửa ruộng nào ? Học sinh trả lời được: “ Là số ki lô gam khoai tây thu
hoạch được ở thửa ruộng thứ hai”
- Giáo viên ghi : Số ki lô gam khoai tây thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai là :
- Tiếp theo giáo viên chỉ vào kết quả “508” và hỏi :
“ Số 508 này chỉ gì ?” Học sinh sẽ trả lời được :“chỉ số ki lô gam khoai tây thu
hoạch được ở cả hai thửa ruộng.”
- Giáo viên ghi tiếp vào dòng trống thứ hai :“Số ki lô gam khoai tây thu
hoạch được ở cả hai thửa ruộng là:”
+ Bước 3: Hướng dẫn học sinh hoàn thiện bài giải:
Giáo viên hỏi tiếp để hoàn thiện bài giải: “ đơn vị số khoai tây là gì ?” để
giúp các em ghi được là kg . Bài toán được trình bày đầy đủ là :
Bài giải
Số ki lô gam khoai tây thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai là:
127 x 3 = 381 ( kg )
Số ki lô gam khoai tây thu hoạch ở cả hai thửa ruộng là :
127 + 381 = 508 ( kg )

Đáp số : 508 kg khoai tây
+ Phân tích đề để tìm lời giải :
Đối với bài toán học sinh chưa biết dựa vào ngữ cảnh cụ thể để viết lời giải.
Do đó lời giải chưa chặt chẽ.
* Ví dụ : Bài 4 tiết luyện tập trang 76 sách giáo khoa toán 3: Theo kế hoạch,
một tổ sản xuất phải dệt 450 chiếc áo len. Người ta đã làm được 1/5 kế hoạch
đó. Hỏi tổ đó còn phải dệt bao nhiêu chiếc áo len nữa ?
12


Với bài toán này, hầu hết học sinh không viết được lời giải chặt chẽ, học
sinh thường viết :
Bài giải
Số chiếc áo len dệt được là :
450 : 5 = 90 ( áo )
Số áo len phải dệt là :
450 – 90 = 360 ( áo )
- Ta thấy rõ ràng là cả hai lời giải chưa làm rõ được nội dung bài toán mà lời
giải chuẩn là phải thể hiện nội dung của đề bài .
- Với trường hợp này lúc hướng dẫn học sinh làm bài hoặc chữa bài tôi
thường giúp học sinh phân tích đề .
* Dùng thước gạch chân một số từ quan trọng trong đề toán như : “ đã làm”,
“còn phải dệt” giúp học sinh hiểu được ý muốn diễn đạt .
- Sau khi hướng dẫn, đa số học sinh viết được lời giải chuẩn xác hơn :
Bài giải
Tổ sản xuất đó đã dệt đựơc số chiếc áo len là :
450 : 5 = 90 ( chiếc áo )
Tổ sản xuất đó còn phải dệt số chiếc áo len là :
450 – 90 = 360 ( chiếc áo )
Đáp số : 360 chiếc áo len

2.3.5. Rèn luyện kĩ năng học tập:
Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của học sinh tiếp thu
chậm toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém
đối với một bộ phận trong những học sinh diện này. Vì vậy, một trong những
biện pháp khắc phục tình trạng học sinh tiếp thu chậm là giúp đỡ các em về
phương pháp học tập. Ngoài việc hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng học tập môn
toán, tôi cần phải lưu ý và bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ
đẳng về cách thức học tập toán như:
+ Nắm được lý thuyết (Tức là phải thuộc, hiểu lý thuyết) mới làm được bài
tập.
+ Cần đọc kĩ đề bài.
+ Vẽ hình sáng sủa.
+ Viết nháp rõ ràng.
Đặc biệt, giáo viên cần đấu tranh kiên trì với những thói quen xấu của học sinh
như: chưa học lý thuyết đã lao vào làm bài tập, không đọc kĩ đầu bài trước khi
làm bài tập, vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn,...
2.3.6.Thiết kế dạng bài tập vừa sức, phù hợp với học sinh chưa đạt chuẩn
kiến thức, kĩ năng.
Để đảm bảo yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng đưa ra, ở mỗi tiết học,
cần đạt được mục tiêu cụ thể để đảm bảo yêu cầu của chương trình. Tuy nhiên, từ
thực tế dạy học, trong những tiết học được dạy cho cả lớp, việc luyện tập được
13


thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh
tiếp thu chậm. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh có kết quả học tập
chưa tốt môn học này, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa
sức mình. Riêng đối với môn Toán của toàn bậc học nói chung và môn Toán lớp
3 nói riêng, ngoài yêu cầu cần đạt về kiến thức kĩ năng, còn yêu cầu học sinh phải
hoàn thiện các bài tập cụ thể trong mỗi tiết học. Mặc dù chương trình đã giảm tải

để giảm áp lực cho học sinh, để phù hợp với thời lượng một tiết học. Tuy nhiên,
với học sinh gặp khó khăn trong môn Toán lớp 3, số lượng bài bài đó vẫn còn rất
nặng, và nhiều bài, các em còn chưa thể giải quyết ngay được sau khi giáo viên
giảng xong bài mới. Để giải quyết những vướng mắc này, giáo viên cần chủ
động, nghiên cứu từng bài tập, thiết kế, bổ sung thêm sao cho học sinh tiếp thu
chậm hoàn thành được bài tập.
Ví dụ: Ở tiết Luyện tập chung (trang 90), học sinh phải thực hiện 5 bài
tập, trong đó có bài tập sau:
Bài 5: Tính giá trị biểu thức
a) 25 × 2 + 30

b) 75 + 15 × 2

c) 70+ 30 : 3

Với bài tập này, những học sinh có tư duy tốt, các em sẽ làm rất nhanh dạng này
(học sinh phải áp dụng những tính chất đã học (Thực hiện phép tính nhân hoặc
chia trước sau đó mới thực hiện cộng sau)).Nhưng với học sinh tiếp thu chậm,
các em thường thực hiện lần lượt từ trái qua phải. Vì vậy giáo viên có thể giúp
học sinh bằng cách cho các em nhắc lại các quy tắc tính giá trị biểu, hay có thể
xây dựng trên phiếu của bài tập này nhưng dễ hơn để các em hoàn thành được bài
tập trên sự định hướng ban đầu của giáo viên như sau:
Bài 5: Tính giá trị biểu thức (Điền vào chỗ chấm )
a) 25 × 2 + 30

b) 75 + 15 × 2

c) 70+ 30 : 3

= ……. + ….


=…………….

= ……………

= …….

= ……….

= ……….

2.3.7. Xây dựng phong trào giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Những học sinh tiếp thu tốt trong lớp sẽ là những trợ thủ đắc lực cho cô
giáo giúp đỡ các bạn tiếp thu chậm hơn tiến bộ. Chính vì vậy, tôi đã lập những
"đôi bạn cùng tiến" mà mỗi đôi bạn, sẽ có một tiếp thu tốt để kèm cặp, giúp đỡ
một bạn tiếp thu chậm hơn. Các đôi bạn được chọn phải có tính tình hợp nhau,
bạn giỏi hơn luôn có tinh thần giúp đỡ bạn. Để làm tốt việc này, giáo viên cần
giao nhiệm vụ cho học sinh khá- giỏi cùng chơi, cùng học với bạn để giúp bạn
tiến bộ bằng cách nhắc nhở bạn học, dăn bạn mang đầy đủ sách vở nếu bạn hay
quên, hay kiểm tra bảng nhân(chia), các kiến thức cần ghi nhớ ở tiết học trước
trong 15 phút đầu giờ. Giúp đỡ bạn hiểu bài, giảng cho bạn những bài bạn chưa
hiểu...
- Ở một số bài ở phần luyện tập khi học sinh làm bài xong tôi yêu cầu học
sinh cùng bàn đổi chéo vở để kiểm tra bài của bạn.(trong lớp tôi xếp chỗ ngồi
cho học sinh thường xen kẽ học sinh học tốt ngồi kèm học sinh tiếp thu chưa
nhanh). Qua đó giúp các em có thói quen kiểm tra, và tự kiểm tra kết quả bài
14


làm của mình, của bạn, kết phối hợp giảng giải, sửa sai ngay cho những bạn tiếp

thu chậm hơn.
Hay "Nhóm bạn yêu thích môn toán" trong đó khuyến khích học sinh tiếp
thu chậm hơn tham gia để hòa nhập và học hỏi thêm các bạn. Với học sinh lớp 3
việc làm này có hiệu quả thiết thực. Bên cạnh đó ngoài việc kiểm tra giúp đỡ
bạn trong tiết học tôi còn phân công học sinh học tốt giúp đỡ bạn tiếp thu chậm
trong các giờ học thêm vào buổi hai.
Làm được điều này, giáo viên sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, vừa khích lệ
được tinh thần giúp đỡ lẫn nhau của các em học sinh, học sinh tiếp thu chận hơn
cũng cảm thấy bớt ngại ngùng hơn khi hỏi bài của bạn hơn là hỏi thầy
- Giáo viên lên lịch kiểm tra sự tiến bộ của từng nhóm. Từ đó khen ngợi
những đôi bạn tiến bộ, những nhóm có phương pháp học thích hợp làm tấm
gương trước lớp để các đôi bạn, nhóm khác noi theo, giúp đỡ các nhóm gặp khó
khăn trong quá trình hợp tác. Đồng thời động viên, tuyên dương kịp thời.
Có kế hoạch cụ thể, thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả phụ đạo, giúp đỡ
học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. Việc kiểm tra chất lượng học sinh
yếu diễn ra thường xuyên. Có thể là những bài kiểm tra kiến thức thông thường,
cũng có thể kiểm tra qua việc thực hành hàng ngày của học sinh chưa hoàn
thành trong các tiết học Toán. Nhà trường trường cũng đánh giá sự tiến bộ của
các em thông qua các bài kiểm tra định kì. Kết quả kiểm tra cũng là sự phản
hồi, đánh giá sự cố gắng của giáo viên trong công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh
tiếp thu chậm, góp phần hạn chế tối đa học sinh chưa hoàn thành môn Toán.
2.3.8. Kịp thời khuyến khích, khen thưởng sự cố gắng, tiến bộ của học
sinh chậm tiếp thu sau mỗi tuần.
Như thường lệ, lâu nay chúng ta thường khen thưởng những học sinh tiếp
thu tốt chứ ít thấy khen thưởng cho những học sinh yếu kém nhưng có sự tiến
bộ. Hai năm học gần đây, ngoài việc tuyên dương những học sinh học tốt, cuối
mỗi tuần học, tôi đều nêu gương những học sinh tiếp thu chậm nhưng có tiến bộ
trong học tập cũng như các hoạt động khác. Năm nay, thông tư 22 ra đời, không
bó hẹp đối tượng khen thưởng, nhà trường cũng đã khen thưởng cho những học
sinh có tiến bộ một mặt, nhằm khuyến khích, động viên các em luôn cố gắng

học tập.
2.3.9. Phối kết hợp với nhà trường và phụ huynh để có những biện
pháp rèn học sinh đạt kết quả cao hơn.
Tôi tham mưu với tổ chuyên môn nhà trường nghiên cứu, soạn ra các bài
kiểm tra trắc nghiệm cho học sinh làm trong các buổi ôn tập. Các bài tập trắc
nghiệm học sinh được tự đánh giá tay đôi cùng với những học sinh kĩ năng
cộng trừ, giải toán còn yếu.
Ngoài những hôm tổ chức ôn buổi chiều cho học sinh, tôi còn bố trí thời
gian gặp phụ huynh vào cuối các buổi chiều khi phụ huynh đến đón con để
hướng dẫn lại cách thực hiện phép tính cộng, trừ một cách nhanh nhất để cha
mẹ học sinh về nhà biết cách kèm và kiểm tra việc học ở nhà của con em mình
(vì một số học sinh về nhà thường không ôn lại bài).
Thường xuyên gần gũi trao đổi, động viên để nắm được tâm tư, nguyện
vọng của các em cũng như khả năng tiếp thu kiến thức để tạo điều kiện phụ đạo
15


thích hợp . Để phụ đạo có hiệu quả giáo viên cần phân loại đối tượng học sinh,
chú trọng học sinh chưa hoàn thành môn toán để phụ đạo. Giáo viên phải có
thời gian và kế hoạch phụ đạo cụ thể.
Khi phụ đạo giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập theo từng dạng bài,
khi học sinh nắm vững dạng bài này mới sang dạng bài khác nhằm khắc sâu
kiến thức.
Đối với gia đình: là bậc phụ huynh phải thật sự quan tâm đến việc học tập
của con em mình, nhắc nhở các em làm bài đầy đủ trước khi đến lớp. Bên cạnh
đó phụ huynh phải kiểm tra tập vở học sinh trước và sau buổi học, kiểm tra
xem hôm nay con có hoàn thành bài trên lớp không, cô giáo nhận xét con em
mình thế nào để hỗ trợ con những kiến thức, kĩ năng còn non kém. Các phụ
huynh có thể cùng con ôn bài, xem lại bài hôm nay học gì, giảng cho con (hoặc
nhờ một người khác có kiến thức) nếu con em mình chưa hiểu bài ở lớp.

2.4. Hiệu quả:
Sau một thời gian áp dụng biện pháp trên tại lớp 3B tôi chủ nhiệm, tôi thấy
học sinh chưa hoàn thành của lớp tôi phụ trách đã có những bước tiến bộ rõ rệt.
Các em cơ bản đã nắm được cách trình bày lời giải của bài toán theo đúng
nghĩa của câu lời giải. Từ đó tôi say sưa với bài giảng hơn, không khí lớp học
nhẹ nhàng, học sinh hăng hái phát biểu xây dựng bài, ham thích làm bài tập ở
nhà. Biết tự giác học tập và biết tìm sự hỗ trợ của bạn bè, thầy cô khi thực hiện
bài khó.
* Kết quả môn Toán sau khi KTĐK cuối kì 1 đạt được như sau:
Hoàn thành Tốt
SL
20

TL
54,1 %

Hoàn thành
SL
16

TL
43,2%

Chưa Hoàn thành
SL
1

TL
2,7%


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua việc phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 3. Tôi rút ra một
số kinh nghiệm phụ đạo học sinh chưa hoàn thành cần có biện pháp, phương
pháp sau:
- Giáo viên phải hết lòng vì học sinh thân yêu, thật sự say sưa với nghề
nghiệp.
- Nắm vững học lực từng em để sắp xếp chỗ ngồi sao cho giáo viên có thể
thuận tiện đến gần các em trong mỗi buổi lên lớp.
- Theo dõi thường xuyên cụ thể kết quả học tập của từng em thông qua việc
đánh giá hàng ngày, những giờ dạy ở lớp.
- Nắm chắc đặc trưng phương pháp bộ môn, song phải linh hoạt với từng đối
tượng học sinh .
- Giáo viên cần khen ngợi, động viên các em kịp thời đúng lúc để tạo cho các
em sự tự tin trước các bạn trong lớp và với chính bản thân mình từ đó ham thích
học toán hơn.
16


- Giáo viên luôn củng cố các thuật ngữ toán học, sử dụng những từ ngữ dễ
hiểu, ngắn gọn, gần gũi để những đối tượng này dễ tiếp thu hơn.
- Tổ chức cho học sinh hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc giúp đỡ học
sinh chưa hoàn thành bằng cách là tổ chức học nhóm ( nhóm gần nhà, nhóm
cùng bàn) hoặc là “Đôi bạn cùng tiến” hàng tuần giáo viên có sự kiểm tra và
tuyên dương kịp thời nếu em có tiến bộ.
- Phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập.
- Giáo viên luôn học hỏi chuyên môn để nâng cao tay nghề thông qua sinh
hoạt chuyên môn, dự giờ đồng nghiệp ở trường cũng như ở cụm chuyên môn.
* Tóm lại: Môn toán là một môn học hết sức quan trọng ở bậc tiểu học nói
riêng và toàn cấp nói chung. Nó góp phần phát triển năng lực trí tuệ, năng lực

nhận thức, độc lập tư duy sáng tạo. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới “Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa” của đất nước ta hiện nay càng đòi hỏi những lớp
người lao động mới phải có bản lĩnh, có năng lực, dám nghĩ dám làm. Vì vậy
tính toán là nhu cầu rất cần thiết đối với cuộc sống hàng ngày. Phụ đạo tốt sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giúp các em trở thành con ngoan, trò
giỏi, giúp ích cho đất nước. Việc làm này không chỉ một hai tuần mà thành công
mà đòi hỏi cả một quá trình lâu dài. Người giáo viên phải luôn kiên trì không
nóng vội, luôn tìm những phương pháp giảng dạy tốt, sáng tạo đối với từng đối
tượng học sinh mới có kết quả . Tôi đã vận dụng phương pháp phụ đạo này cho
học sinh lớp tôi và đạt được những thành công như mong muốn. Các giáo viên
trong tổ cũng đã áp dụng phương pháp này và bước đầu đạt được kết quả đáng
kể.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với các cấp quản lí.
- Đầu tư thêm phòng học (ít nhất mỗi lớp một phòng), trang thiết bị dạy và
học để hỗ trợ cho giáo viên và học sinh.
- Mở thêm các chuyên đề triển khai một số sáng kiến kinh nghiệm hay để
cho giáo viên được học hỏi rút kinh nghiệm.
* Đối với nhà trường.
- Cần bố trí thêm thời gian để giáo viên phụ đạo thêm cho những em còn
tiếp thu chậm.
- Mở thêm các câu lạc bộ Toán, Tiếng Việt để học sinh có thể học hỏi lẫn
nhau và học hỏi thêm từ thấy cô.
Trên đây là SKKN mà tôi đã tích luỹ và thực hiện trong quá trình giảng
dạy lớp 3 tại Trường Tiểu học Đông Vệ 2. Tôi xin mạnh dạn trình bày và mong
sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học các cấp để tôi rút kinh nghiệm và
ngày một hoàn thiện hơn.
Xác nhận của Hiệu trưởng

Thanh Hóa, tháng 3 năm 2018.

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

17


Lê Thị Thanh Thắm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Sách giáo khoa Toán 3 – NXB Giáo dục
2 – Sách giáo viên Toán 3 – NXB Giáo dục
3 – Tài liệu tập huấn Giáo viên Tiểu học
4 – Tài liệu tập huấn GV dạy thay sách lớp 3
5 - Chuyên đề giáo dục Tiểu học
6 - Hỏi đáp về dạy học Toán 3 , chủ biên Đỗ Đình Hoan
7 - Tập san thế giới trong ta

18



×