Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BỆNH GAN THẬN MỦ VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG FLORFENICOL CỦA Edwardsiella ictaluri PHÂN LẬP TRÊN CÁ TRA TẠI MỘT VÀI TRẠI NUÔI Ở HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.51 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BỆNH GAN THẬN MỦ VÀ KHẢ
NĂNG KHÁNG FLORFENICOL CỦA Edwardsiella ictaluri
PHÂN LẬP TRÊN CÁ TRA TẠI MỘT VÀI TRẠI NUÔI Ở
HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH AN GIANG

Họ và tên sinh viên: ĐÀO NGỌC THỦY
ĐINH THỊ TƯỜNG VÂN
Ngành:NUÔI TRỒNG THỦY SẢN CHUYÊN NGÀNH NGƯ Y
Niên khóa: 2005 – 2009

Tháng 9/2009


KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BỆNH GAN THẬN MỦ VÀ KHẢ NĂNG
KHÁNG FLORFENICOL CỦA Edwardsiella ictaluri PHÂN LẬP TRÊN
CÁ TRA TẠI MỘT VÀI TRẠI NUÔI Ở HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH
AN GIANG

Tác giả

ĐÀO NGỌC THỦY
ĐINH THỊ TƯỜNG VÂN

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Kỹ sư ngành
Nuôi Trồng Thủy Sản chuyên ngành Ngư y



Giáo viên hướng dẫn:
ThS HỒ THỊ TRƯỜNG THY

Tháng 9 năm 2009


CẢM TẠ
Chúng tôi kính gửi lòng biết ơn chân thành đến:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Ban Chủ Nhiệm Khoa Thủy Sản cùng toàn thể quý thầy cô đã tận tình giảng
dạy, cung cấp và truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập.
Đặc biệt chúng tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến cô Hồ Thị Trường Thy đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè và tập thể lớp Ngư Y 31 đã giúp đỡ, chia
sẻ và động viên chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn cha mẹ và gia đình đã luôn ở bên cạnh, động viên và hỗ trợ về tinh thần
lẫn vật chất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Do hạn chế về thời gian cũng như về mặt kiến thức nên luận văn này không tránh
khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy
cô và các bạn để luận văn được hoàn chỉnh hơn.

ii


TÓM TẮT
Đề tài: “Khảo sát tình hình bệnh gan thận mủ và khả năng kháng Florfenicol
của Edwardsiella ictaluri phân lập trên cá tra tại một vài trại nuôi ở huyện Châu
Thành tỉnh An Giang” được thực hiện từ ngày 19/03/2009 đến ngày 19/07/2009 tại

huyện Châu Thành, tỉnh An Giang và phòng thí nghiệm Bệnh Học Thuỷ Sản, Khoa
Thuỷ Sản, trường Đại học Nông Lâm, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đề tài chia làm 2 quá trình:
Quá trình thu mẫu được thực hiện vào từng đợt khác nhau, khảo sát tình hình
bệnh gan thận mủ trên cá tra tại một vài trại nuôi ở huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Quá trình tiến hành làm MIC tại phòng thí nghiệm Bệnh Học Thuỷ Sản, Khoa
Thuỷ Sản, trường Đại học Nông Lâm, Thành Phố Hồ Chí Minh để xác định khả năng
kháng Florfenicol của Edwardsiella ictaluri phân lập từ quá trình thu mẫu.
Kết quả thu được:
Bệnh gan thận mủ tăng dần theo từng tháng, bệnh thường xảy ra trên cá giống,
cỡ cá từ 0,2 – 300 gam. Qua kết quả thu mẫu ở 4 tháng liên tiếp, cho thấy bệnh xảy ra
cao nhất vào tháng 5 và tháng 6, bởi vì lúc này thời tiết thay đổi, hay có mưa nên làm
cho cá yếu đi, do đó cá rất dễ bị bệnh nhưng tỷ lệ tăng không đáng kể vì đợt chúng tôi
thu mẫu chưa vào mùa cao điểm xảy ra bệnh, cùng với công tác quản lý tốt ở một số
trại nuôi.
Giá trị nồng độ ức chế tối thiểu của sản phẩm AQUAFEN® chứa Florfenicol
giữa các đợt thu mẫu (các tháng khác nhau) thì có sự khác nhau đáng kể. Giá trị MIC
thấp nhất thu được là 1,0 µg/ml (đợt 1), giá trị MIC cao nhất thu được là 32 µg/ml (đợt
4). Điều này cho thấy chủng vi khuẩn phân lập của đợt thu mẫu lần 4 có tính kháng
Florfenicol cao hơn hẳn so với chủng vi khuẩn được phân lập của 3 đợt thu mẫu trước.
Giá trị MIC tăng dần theo từng tháng. Sử dụng kháng sinh chữa trị cho cá diễn ra
thường xuyên, dùng với liều lượng cao hơn liều khuyến cáo đã gây ra hiện tượng
kháng kháng sinh. Càng về sau khả năng kháng florfenicol của E. ictaluri càng cao với
tỷ lệ tăng khá nhanh so với những năm trước. Và có thể nhận định rằng vi khuẩn E.
ictaluri đang dần kháng thuốc đối với kháng sinh Florfenicol.

iii


MỤC LỤC

Trang
Trang tựa

i

Cảm tạ

ii

Tóm tắt

iii

Mục lục

iv

Danh sách các chữ viết tắt

viii

Danh sách các hình

ix

Danh sách các bảng

x

Danh sách các sơ đồ và đồ thị


xii

Chương1 MỞ ĐẦU

1

1.1 Đặt Vấn Đề

1

1.2 Mục Tiêu Đề Tài

2

Chương 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Tra

3

2.1.1 Phân loại và hình thái

3

2.1.2 Phân bố

3


2.1.3 Môi trường sống

4

2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng

4

2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng

4

2.1.6 Đặc điểm sinh sản

5

2.2 Bệnh Gan Thận Mủ Trên Cá Tra

6

2.2.1 Lịch sử bệnh

6

2.2.2 Tác nhân gây bệnh

6

2.2.3 Đường lây truyền


8

2.2.4 Dấu hiệu bệnh lý

9

2.2.5 Chẩn đoán

12

2.2.6 Phòng bệnh

12

2.2.7 Một số nghiên cứu bệnh do E.ictaluri gây ra

13

2.3 Tình Hình Nuôi Cá Tra Tại Tỉnh An Giang

14

iv


2.3.1 Tình hình nuôi

14


2.3.2 Tình hình bệnh

15

2.4 Sơ Lược Về Nồng Độ Ức Chế Tối Thiểu (Minimal Inhibitory Concentration)

15

2.4.1 Định nghĩa

15

2.4.2 Mục đích

15

2.4.3 Nguyên tắc

15

2.4.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến MIC

16

2.4.5 Một số nghiên cứu về MIC

16

2.5 Sơ Lược Về Kháng Sinh


16

2.5.1 Định nghĩa về kháng sinh

16

2.5.2 Phân loại kháng sinh

17

2.5.3 Nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản

17

2.4.4 Kháng sinh Florfenicol

18

2.5.5 Cơ chế kháng kháng sinh của vi khuẩn

19

Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

21

3.1 Thời Gian Và Địa Điểm

21


3.1.1 Thời gian

21

3.1.2 Địa điểm

21

3.2 Vật Liệu Nghiên Cứu

21

3.2.1 Thiết bị thí nghiệm

21

3.2.2 Dụng cụ thí nghiệm

21

3.2.3 Hoá chất và môi trường

22

3.2.4 Vật liệu

22

3.3 Phương Pháp Thí Nghiệm


22

3.3.1 Phương pháp thu mẫu

23

3.3.2 Thu thập thông tin tại vùng thu mẫu (Huyện Châu Thành, Tỉnh An Giang)

23

3.3.3 Đánh giá cảm quan tình trạng sức khỏe cá nuôi

23

3.4 Phương Pháp Phân Lập Vi Khuẩn

23

3.4.1 Các thao tác vô trùng khi lấy mẫu

23

3.4.2 Phân lập, làm thuần vi khuẩn

24

3.5 Phương Pháp Định Danh Vi Khuẩn

24
v



3.5.1 Nhuộm Gram

24

3.5.2 Thử nghiệm Oxidase

25

3.5.3 Thử nghiệm catalase

25

3.5.4 Thử nghiệm về khả năng di động của vi khuẩn

26

3.5.5 Sử dụng bộ Test IDS 14GNR

26

3.6 Tiến Hành Thí Nghiệm Làm MIC

29

3.7 Đọc Kết Quả

30


Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

31

4.1 Các Thông Số Môi Trường

31

4.1.1 Nhiệt độ

31

4.1.2 pH

32

4.1.3 Hàm lượng oxy hòa tan (DO)

32

4.1.4 Hàm lượng NH3

32

4.2 Các Thông Tin Kỹ Thuật Nuôi Tại Trại

33

4.2.1 Cỡ cá giống


33

4.2.2 Mật độ thả

33

4.2.3 Thức ăn và cách cho ăn

34

4.3 Kết Quả Khảo Sát Tình Hình Bệnh Gan Thận Mủ Tại Trại Thu Mẫu

35

4.3.1 Dấu hiệu bệnh tích các mẫu cá nghi ngờ bị nhiễm gan thận mủ

35

4.3.2 Kết quả phân lập và định danh vi khuẩn

36

4.3.3 Tỷ lệ mắc bệnh gan thận mủ tại các trại nuôi qua các đợt thu mẫu

40

4.4 Khảo Sát Giá Trị MIC Của Sản Phẩm AQUAFEN® Trên Mẫu
Cá Bệnh Gan Thận Mủ Của Quá Trình Thu Mẫu

44


4.4.1 Kết quả giá trị MIC của Florfenicol trên các mẫu cá bệnh gan thận mủ

44

4.4.2 Tính kháng thuốc của các trại cá

51

4.4.3 So sánh với những kết quả nghiên cứu trước đây

52

Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

54

5.1 Kết Luận

54

5.2 Đề Nghị

54

vi


TÀI LIỆU THAM KHẢO


56

Tài liệu Tiếng Việt
Tài liệu Tiếng Anh
PHỤ LỤC

vii


DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL

: Đồng Bằng Sông Cửu Long

E. ictaluri

: Edwardsiella ictaluri

SECFDL

: Southeastern Cooperative Fish Disease Laboratory

BHIA

: Brain Heart Infusion Agar

BHIB

: Brain Heart Infusion Broth


IDS 14 GNR : Indentification System with 14 biochemical reationsfor
Indentification of non fastidious Gram Negative Rods.
EIA

: Edwardsiella ictaluri agar

MIC

: Minimal Inhibitory Concentration

MHB

: Miller Hilton Broth

MHA

: Miller Hilton Agar

ESC

: Enteric Septicemia of Catfish

DO

: Dissolve oxygen

pH

: Potential hydrogenii


ELISA

: Enzyme linked immunosorbant

ONPG

: Beta-Galactosidase

PAD

: Phenyl Alanin Deaminnase

VP

: Voges-Proskauer

LDC

: Lysin decarboncylase

Cfu

: Colony forming unit

Ctv

: Cộng tác viên

XH


: Xuất huyết

BT

: Bình thường

NM

: Nhạt màu

viii


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Thứ tự các đĩa giấy sinh hoá cho vào các giếng

26

Bảng 3.2: Kết quả phản ứng sinh hoá trong các giếng

28

Bảng 3.3: Bảng tính điểm để có code định danh vi khuẩn

28

Bảng 3.4: Nồng độ Florfenicol được pha loãng từ dung dịch gốc

29


Bảng 3.5: Bảng ống nghiệm tiến hành MIC

30

Bảng 4.1: Cỡ cá giống thả nuôi

33

Bảng 4.2: Mật độ thả cá ở các trại

33

Bảng 4.3: Loại thức ăn sử dụng ở các trại

34

Bảng 4.4: Tỷ lệ cá nghi ngờ bị nhiễm bệnh so với số cá thu mẫu ngẫu nhiên

35

Bảng 4.5: Kết quả định danh bằng test kit IDS 14 GNR

37

Bảng 4.6: Bảng ghi kết quả của bộ định danh IDS 14 GNR

38

Bảng 4.7: Bảng tỷ lệ cá khoẻ và tỷ lệ cá bệnh gan thận mũ (đã định danh được)


39

Bảng 4.8: Tỷ lệ cá mắc bệnh và tỷ lệ cá khỏe tại trại Bình Thạnh
qua các đợt thu mẫu

40

Bảng 4.9: Tỷ lệ cá mắc bệnh và tỷ lệ cá khỏe tại trại Anh Tuấn
qua các đợt thu mẫu

41

Bảng 4.10: Tỷ lệ cá mắc bệnh và tỷ lệ cá khỏe tại trại Anh Bé
qua các đợt thu mẫu

42

Bảng 4.11: Kết quả giá trị MIC của Florfenicol trên các mẫu
cá bệnh gan thận mủ thu đợt 1 (tháng 3/2009)

44

Bảng 4.12: Kết quả giá trị MIC của Florfenicol trên các mẫu
cá bệnh gan thận mủ thu đợt 2 (tháng 4)

45

Bảng 4.13: Kết quả giá trị MIC của Florfenicol trên các mẫu
cá bệnh gan thận mủ thu đợt 3 (tháng 5)


46

Bảng 4.14: Kết quả giá trị MIC của Florfenicol trên các mẫu
cá bệnh gan thận mủ thu đợt 4 (tháng 6)

47

Bảng 4.15: Tỷ lệ kháng thuốc của các trại nuôi qua 4 đợt thu mẫu

51

ix


Bảng 4.16: Tỷ lệ số mẫu kháng và nhạy với Florfenicol
ở tỉnh An Giang qua năm 2007 và năm 2009

52

Bảng 4.17: Tỷ lệ (%) số mẫu kháng và nhạy với Florfenicol ở huyện Châu Thành
tỉnh An Giang năm 2009, ở thị xã Trà Lách tỉnh Bến Tre năm 2007, và ở thị xã
Vĩnh Long tỉnh Vĩnh Long năm 2008.

53

x


DANH SÁCH CÁC HÌNH

Trang
Hình 2.1: Gan có đốm trắng dưới kính hiển vi

10

Hình 2.2: Cấu trúc vi thể của thận

11

Hình 2.3: Gan (L), thận (K) và tụy tạng (S) cá tra bệnh gan thận mủ

12

Hình 2.4: Cấu trúc hoá học của Florfenicol

18

Hình 3.1: Thao tác phân lập vi khuẩn

24

Hình 3.2: Bộ test Nam Khoa

27

Hình 4.1: Cá nghi ngờ bị nhiễm gan thận mủ (gan xuất huyết, có đốm trắng)

35

Hình 4.2: Khuẩn lạc vi khuẩn E. ictaluri trên môi trường BHIA


36

Hình 4.3: Vi khuẩn E. ictaluri khi nhuộm Gram

37

Hình 4.4: Kết quả định danh E. ictaluri bằng test IDS 14 GNR

38

Hình 4.5:Vi khuẩn E. ictaluri (mẫu M1C1 của đợt 1) bị ức chế ở nồng độ 1 µg/mL 49
Hình 4.6:Vi khuẩn E. ictaluri (mẫu M6C1 của đợt 2) bị ức chế ở nồng độ 2 µg/mL 49
Hình 4.7:Vi khuẩn E. ictaluri (mẫu M3A của đợt 3) bị ức chế ở nồng độ 8 µg/mL 50
Hình 4.8:Vi khuẩn E. ictaluri (mẫu M2B của đợt 4) bị ức chế ở nồng độ 16 µg/mL 50

xi


DANH SÁCH CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Trang
Sơ đồ 3.1: Các bước thực hiện thí nghiệm

22

Biểu đồ 4.1: Các thông số môi trường qua 4 tháng thu mẫu

31

Biểu đồ 4.2: Tỷ lệ cá khoẻ và tỷ lệ cá bệnh gan thận mũ (đã định danh được)


39

Biểu đồ 4.3: Tỷ lệ cá bệnh và cá khỏe tại trại Bình Thạnh qua các đợt thu mẫu

40

Biểu đồ 4.4: Tỷ lệ cá bệnh và cá khỏe tại trại Anh Tuấn qua các đợt thu mẫu

41

Biểu đồ 4.5: Tỷ lệ cá bệnh và cá khỏe tại trại Anh Bé qua các tháng thu mẫu

42

Biểu đồ 4.6: Tỷ lệ cá mắc bệnh gan thận mủ giữa các trại khảo sát

43

Biểu đồ 4.7: Giá trị MIC trên các mẫu của đợt thu mẫu lần 1

44

Biểu đồ 4.8: Giá trị MIC trên các mẫu của đợt thu mẫu lần 2

45

Biểu đồ 4.9: Giá trị MIC trên các mẫu của đợt thu mẫu lần 3

46


Biểu đồ 4.10: Giá trị MIC trên các mẫu của đợt thu mẫu lần 4

48

Biểu đồ 4.11: Tỷ lệ kháng Florfenicol của các trại nuôi qua 4 đợt thu mẫu

51

xii


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt Vấn Đề
Vị trí và vai trò của ngành Thuỷ Sản trong cơ cấu các ngành kinh tế quốc dân
ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Trong những năm qua, thuỷ sản Đồng Bằng Sông
Cửu Long đã phát triển mạnh mẽ và góp phần rất lớn vào mức tăng trưởng của ngành
thuỷ sản trong cả nước. Điểm nổi bật trong sự phát triển của Đồng Bằng Sông Cửu
Long (ĐBSCL) trong những năm gần đây là tốc độ phát triển rất nhanh của nghề nuôi
cá tra, basa, sản lượng chiếm gần 50 % tổng sản lượng thuỷ sản của khu vực. Trong đó
An Giang là tỉnh có sản lượng cá tra lớn nhất Đồng Bằng Sông Cửu Long. Diện tích
nuôi tập trung ở các huyện: Châu Thành, Tân Châu, Châu Phú và Thị xã Châu Đốc.
Việc tăng sức sản xuất bằng các biện pháp kỹ thuật như nuôi thâm canh mật độ cao đã
phát sinh dịch bệnh. Trong số những bệnh do virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng thì
bệnh do vi khuẩn rất thường gặp, gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi cá. Đặc biệt,
bệnh do vi khuẩn gây bệnh gan thận mủ trên cá tra nuôi, nguyên nhân là do vi khuẩn
Edwardsiella ictaluri gây ra.
Đây là một bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho các hộ nuôi cá tra ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Qua các đợt khảo sát về tình hình nuôi dịch bệnh trên cá tra, basa khu

vực ĐBSCL năm 2007 cho thấy cá bệnh thường xảy ra và gây thiệt hại cho người nuôi
là bệnh gan thận mủ với tần suất xuất hiện cao nhất (52,8 %), kế đến là bệnh xuất
huyết (42,5 %), phù đầu – phù mắt (20,7 %), vàng da và thân (21,6 %). Riêng bệnh
gan thận mủ thì An Giang chiếm tỷ lệ cao nhất đạt 66,7 % (Lý Thị Thanh Loan, 2007).
Trước tình hình đó, trên thị trường xuất hiện nhiều sản phẩm với thương hiệu
khác nhau. Hầu hết thuốc có thành phần Florfenicol vì các loại kháng sinh khác không
còn nhạy cảm với Edwardsiella ictaluri ở vùng nuôi cá ĐBSCL. Florfenicol là kháng
sinh có tác dụng kháng khuẩn trên phạm vi rộng tương đương Chloramphenicol

1


(kháng sinh đang cấm sử dụng), nhưng Florfenicol không làm giảm khả năng tái tạo
máu khi sử dụng như Chloramphenicol.
Tuy nhiên, hiện nay việc dùng Florfenicol trị bệnh gan thận mủ không còn hiệu
quả như trước. Điều này cho thấy Edwardsiella ictaluri đã tăng nhanh tính kháng đối
với Florfenicol. Có nhiều nguyên nhân được đưa ra do tính thích ứng và tính chọn lọc
của vi khuẩn, sử dụng kháng sinh không đúng cách, kết hợp nhiều loại kháng sinh
không theo nguyên tắc, đặc biệt là sử dụng kháng sinh không đúng liều lượng (Trần
Thị Uyên Trang, 2008).
Để tìm hiểu tình hình bệnh gan thận mủ và tính kháng Florfenicol của
Edwardsiella ictaluri qua các tháng trong năm ở một số hộ nuôi, huyện Châu Thành
tỉnh An Giang, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo sát tình hình bệnh gan
thận mủ và khả năng kháng Florfenicol của Edwardsiella ictaluri phân lập trên cá
tra tại một vài trại nuôi ở huyện Châu Thành tỉnh An Giang” dưới sự đồng ý của
khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh qua sự hướng
dẫn của Ths. Hồ Thị Trường Thy.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
Khảo sát tình hình bệnh gan thận mũ trên cá tra ở một số hộ nuôi tại huyện
Châu Thành, tỉnh An Giang qua việc thu mẫu ngẫu nhiên.

Khảo sát nồng độ ức chế tối thiểu MIC của Florfenicol đối với vi khuẩn
Edwardsiella ictaluri được phân lập trong khoảng thời gian thu mẫu từ tháng 03/2009
đến tháng 06/2009. Từ đó nhận định tính kháng của Edwardsiella ictaluri đối với
Florfenicol làm cơ sở xem xét lựa chọn giải pháp mới, phù hợp hơn trong công tác
phòng chống bệnh gan thận mủ trên cá tra.

2


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus)
2.1.1 Phân loại và hình thái
2.1.1.1 Phân loại
Ngành: Chordata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Siluriformes
Họ: Pangasiidae
Giống: Pangasianodon
Loài: Pangasianodon hypoththalmus (Sauvage, 1878)
2.1.1.2 Hình thái
Cá tra là cá da trơn, thân dài, lưng xám đen, bụng hơi bạc, miệng rộng, có hai
đôi râu dài. Cá tra sống chủ yếu trong nước ngọt, có thể sống được ở vùng nước hơi lợ
(độ mặn 7 – 10 ‰), có thể chịu đựng nước phèn với pH > 5, dễ chết ở nhiệt độ thấp
dưới 15 oC, nhưng chịu nóng tới 39 oC. Cá tra có số lượng hồng cầu trong máu nhiều
hơn các loài cá khác. Cá có cơ quan hô hấp phụ và còn có thể hô hấp bằng bóng khí và
da nên chịu đựng được môi trường nước thiếu oxy hoà tan. Tiêu hao oxy và ngưỡng
oxy của cá tra thấp hơn 3 lần so với cá mè trắng (Ngô Văn Ngọc, 2006).
2.1.2 Phân bố
Ở Đông Nam Á, cá tra phân bố ở lưu vực sông Mê Kông, có mặt ở cả 4 nước

Lào, Việt Nam, Campuchia và Thái Lan. Ở nước ta những năm trước đây khi chưa có
cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá giống của cá tra được vớt trên sông Tiền và sông
Hậu. Cá trưởng thành chỉ thấy trong ao nuôi, rất ít gặp trong tự nhiên địa phận Việt
Nam, do cá có tập tính di cư ngược dòng sông Mê Kông để sinh sống và tìm nơi sinh
sản tự nhiên. Khảo sát chu kỳ di cư của cá tra ở địa phận Campuchia cho thấy cá

3


ngược dòng từ tháng 10 đến tháng 5 và di cư về hạ lưu từ tháng 5 đến tháng 9 hàng
năm (Phạm Quốc Phong, 2008).
2.1.3 Môi trường sống
Cá tra thường tập trung ở tầng đáy, sống chủ yếu trong các thuỷ vực nước ngọt.
Nhiệt độ sống thích hợp 26 – 30 oC, pH thích hợp cho cá phát triển là 6,5 – 7,5. Cá có
cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được trong điều kiện nước có hàm lượng oxy
thấp, nơi nước ao tù nước bẩn. Chịu được pH từ 4 – 5 (Ngô Văn Ngọc, 2006).
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Đây là loài cá ăn tạp thiên về động vật và cũng dễ dàng chuyển đổi loại thức ăn.
Khi tiêu hết noãn hoàng thì thức ăn yêu thích là động vật phù du (Cladocera,
Copepoda, Chiromidae…). Ngoài ra cá còn có đặc điểm ăn nhau bắt đầu từ thời điểm
20 – 30 giờ sau khi nở và phát triển mạnh vào thời điểm 2 – 4 ngày sau khi nở (Ngô
Văn Ngọc, 2006).
Khi phân tích thức ăn trong đường ruột cá đánh bắt ngoài tự nhiên thành phần
thức ăn được tìm thấy như sau:
Nhuyễn thể: 35,4 %
Cá: 31,8 %
Côn trùng: 18,2 %
Thực vật thượng đẳng: 10,7 %
Thực vật đa bào: 1,6 %
Giáp xác: 2,3 % (Shotts và Blazer, 1986).

Trong điều kiện nuôi ao, cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức ăn
khác nhau như mùn bả hữu cơ, cám, rau, thức ăn hỗn hợp, phân (Phạm Thị Kiều Oanh,
2005).

4


2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Cá tra sau khi tiêu hết noãn hoàng có chiều dài từ 1,0 – 1,1 cm. Cá tra có tốc độ
tăng trưởng tương đối nhanh, còn nhỏ cá tăng nhanh về chiều dài. Cá ương trong ao
sau hai tháng đã đạt chiều dài 10 – 12 cm (14 – 15 gram). Từ khoảng 2,5 kg trở đi,
mức tăng trọng lượng nhanh hơn so với tăng chiều dài cơ thể. Cỡ cá trên 10 tuổi trong
tự nhiên (ở Campuchia) tăng trọng rất ít. Cá tra trong tự nhiên có thể sống trên 20 năm.
Đã gặp cỡ cá trong tự nhiên 18 kg hoặc có mẫu cá dài tới 1,8 m. Trong ao nuôi vỗ, cá
bố mẹ cho đẻ đạt tới 25 kg ở cá 10 năm tuổi. Nuôi trong ao 1 năm cá đạt
1 – 1,5 kg/con (năm đầu tiên), những năm về sau cá tăng trọng nhanh hơn, có khi đạt
tới 5 – 6 kg/năm tuỳ thuộc môi trường sống và sự cung cấp thức ăn cũng như loại thức
ăn có hàm lượng đạm nhiều hay ít (Phạm Quốc Phong, 2008).
Nhìn chung cá tra có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng tốc độ tăng trưởng của cá
tùy thuộc vào mật độ nuôi, chất lượng thức ăn và chế độ chăm sóc.
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục của cá đực là 2 tuổi và cá cái 3 tuổi, trọng lượng cá thành thục
lần đầu từ 2,5 – 3 kg. Cá tra không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp), nên
nếu chỉ nhìn hình dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Ở thời kỳ thành
thục, tuyến sinh dục ở cá đực phát triển lớn gọi là buồng tinh hay tinh sào, ở cá cái gọi
là buồng trứng hay noãn sào. Tuyến sinh dục của cá tra bắt đầu phân biệt được đực cái
từ giai đoạn II tuy màu sắc chưa khác nhau nhiều. Các giai đoạn sau, buồng trứng tăng
về kích thước, hạt trứng màu vàng, tinh sào có hình dạng phân nhánh, màu hồng
chuyển dần qua màu trắng sữa. Hệ số thành thục của cá tra khảo sát được trong tự
nhiên từ 1,76 – 12,94 (cá cái) và từ 0,83 – 2,1 (cá đực) ở cá đánh bắt tự nhiên trên sông

cỡ từ 8 – 11 kg. Trong ao nuôi vỗ, hệ số thành thục cá tra cái có thể đạt tới 19,5 %.
(Phạm Quốc Phong, 2008).
Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên bắt đầu từ tháng 5 – 6 dương lịch, cá
có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp
thuộc địa phận Campuchia và Thái Lan, không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam.
Cá đẻ trứng dính vào giá thể thường là rễ của loài cây sống ven sông Gimenila
asiatica, sau 24 giờ thì trứng nở thành cá bột và trôi về hạ nguồn. Trong sinh sản nhân
tạo, ta có thể nuôi thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn trong tự nhiên (từ tháng 3 dương
5


lịch hàng năm), cá tra có thể tái phát dục 1 – 3 lần trong một năm (Phạm Quốc Phong,
2008).
Số lượng trứng đếm được trong buồng trứng của cá gọi là sức sinh sản tuyệt
đối. Sức sinh sản tuyệt đối của cá tra từ 200 ngàn đến vài triệu trứng. Sức sinh sản
tuyệt đối có thể tới 135 ngàn trứng/ kg cá cái. Kích thước của trứng cá tra tương đối
nhỏ và có tính dính. Trứng sắp đẻ có đường kính trung bình 1 mm. Sau khi đẻ ra và
hút nước đường kính trứng khi trương nước có thể tới 1,5 – 1,6 mm (Trương Ngọc
Loan, 2007).
2.2 Bệnh Gan Thận Mủ Trên Cá Tra
2.2.1 Lịch sử bệnh
Năm 1976, bệnh đã được ghi nhận lần đầu tiên trên cá da trơn nuôi trong ao tại
Mỹ. Mẫu cá bệnh được lấy từ Alabama và Georgia để kiểm tra bởi tổ chức SECFDL
(Southeastern Cooperative Fish Disease Laboratory), trường Đại học Auburn. Bệnh
này tương tự như một bệnh khác trên cá da trơn do một loài vi khuẩn Gram âm là
Edwardsiella tarda nhưng đặc điểm lại khác nhau. Năm 1979, các nhà khoa học đã mô
tả bệnh với các dấu hiệu đặc trưng, tuy nhiên vẫn chưa biết được nguyên nhân gây
bệnh (Hawke, 1979). Cho đến năm 1981, lần đầu tiên bệnh được xác định nguyên
nhân là do vi khuẩn gây nên, được định danh là do Edwardsiella ictaluri. Và lúc này,
bệnh được gọi tên là bệnh nhiễm trùng huyết và viêm ruột, được viết tắt là ESC

(Enteric Septicemia of Catfish) hay còn có tên gọi khác là “Hole in the head disease”
(bệnh lỗ đầu) do cá bệnh hay có vết thương trên đầu (Shotts và Blazer, 1986)
Năm 1987, ở Thái Lan đã xảy ra dịch bệnh do Edwardsiella ictaluri trên cá trê
(Clarias bactrachus). Cho đến năm 1992, bệnh được phát hiện trên cá tra, cá basa nuôi
ao, bè ở Việt Nam. Vào cuối năm 1998, bệnh xuất hiện lần đầu tiên trên cá tra nuôi ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long (Ferguson và ctv, 2001). Và đến năm 2001, bệnh được gọi
là bệnh mủ gan hay bệnh gan thận mủ, bệnh thường gây thiệt hại đối với cá tra cỡ từ
4 – 6 cm đến khi cá được 5 – 6 tháng tuổi. Tỷ lệ tử vong của cá khi mắc bệnh trong
giai đoạn này rất cao, từ 60 – 70 %, có trường hợp lên đến 100 % (Nguyễn Hữu Thịnh,
2007).

6


2.2.2 Tác nhân gây bệnh
Ở Việt Nam, bệnh gan thận mủ trên cá tra xảy ra là do vi khuẩn Edwardsiella
ictaluri (Crumlish và ctv, 2002).
2.2.2.1 Phân loại
Edwardsiella thuộc
Ngành: Proteobacteria
Lớp: Gamma Proteobacteria
Bộ: Enterobacteriales
Họ: Enterobacteriaceae
Giống: Edwardsiella
Loài: Edwardsiella ictaluri (Bùi Quang Tề, 2006).
2.2.2.2 Đặc điểm sinh lý và sinh hóa
E. ictaluri là vi khuẩn yếm khí tùy nghi, gây bệnh bắt buộc. Nó có khả năng gây
bệnh cho cá khoẻ, đây là vi khuẩn kén vật chủ, trực khuẩn gram âm, kích thước
0,75 x 1,25 µm, di động yếu, hình que mảnh, không sinh bào tử, chuyển động nhờ
vành tiêm mao. E.ictaluri cho phản ứng catalase dương tính, oxidase âm và lên men

trong môi trường O/F glucose, H2S (-) tính, Indol (-) tính. Có từ 1 – 3 plasmid liên kết
với E.ictaluri, những plasmid có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đề kháng với
kháng sinh (Speyerer và Boyle, 1987; Newton và ctv, 1988). Thành phần Guanin và
Cytozin trong AND là 55 – 59 % (Bùi Quang Tề, 2006).
E.ictaluri là một trong những loài khó phát triển thuộc giống Edwardsiella. Vi
khuẩn phát triển chậm trong môi trường nuôi cấy, cần từ 36 – 48 giờ mới phát triển
thành những khuẩn lạc nhỏ trong môi trường thạch BHIA (Brain Heart Infusion Agar)
ở 28 – 30 oC và tăng trưởng chậm hoặc không tăng trưởng ở nhiệt độ 37 oC (Valerie và
ctv, 1994).
Vi khuẩn có thể phân lập từ mẫu cá bệnh (gan, thận, lách) trên môi trường
BHIA, NA hay TSA + 5 % máu. Tuy nhiên, môi trường BHIA giúp vi khuẩn phát
triển tốt hơn. Khuẩn lạc của E.ictaluri có hình tròn nhỏ, màu trắng đục, ở tâm khuẩn
lạc có màu hơi vàng, rìa có răng cưa (Bùi Quang Tề, 2006).

7


2.2.2.3 Đặc điểm gây bệnh
E. ictaluri thuộc nhóm vi khuẩn gây bệnh bắt buộc, có thể gây bệnh ngay cả
trên cá khỏe mạnh. Vi khuẩn tồn tại trong gan, thận, não cá sau khi khỏi bệnh được vài
tháng (trên 200 ngày). Chính vì vậy mà có sự kích thích tạo thành đáp ứng miễn dịch
có thể giúp cá vượt qua được các sự nhiễm trùng và các dịch bệnh xảy ra sau này. Khả
năng tồn tại của E. ictaluri trong môi trường nước không cao, khoảng 8 ngày (Hawke,
1979). Tuy nhiên, nó có thể tồn tại trong bùn đến 95 ngày ở 18 oC và 25 o C (Plumb và
Quinlan, 1986). Bị giết chết bởi ethanol hoặc isopropanol 70 %, ammonia bậc 4,
aldehyde, acid mạnh và bazơ, thuốc tẩy rửa (Chlorine 540 mg/l và các hợp chất của
Iod 250 ppm) trong 30 phút (Baxa D.V và ctv, 1990).
Vi khuẩn ký sinh tùy nghi trong tế bào của cá, có khả năng xâm nhập trực tiếp
vào cơ thể cá qua ruột, mũi, mang. Nó được bài thải ra môi trường nước từ phân và
xác cá chết. Bệnh thường xảy ra nhiều vào mùa mưa lũ kéo dài đến mùa khô. Thời

điểm phát triển bệnh và mức độ thiệt hại khác nhau theo từng năm. Ở nhiệt độ 20 – 28
o

C, bệnh bộc phát mạnh, nhưng khi nhiệt độ lên tới 30 0C, ta thấy tỷ lệ chết giảm dần

(Nguyễn Hữu Thịnh, 2007).
Những nghiên cứu bệnh học cho thấy vi khuẩn E.ictaluri xâm nhập trực tiếp
vào cơ thể cá qua ruột, mũi và có thể là qua mang. Vi khuẩn trong nước có thể qua
đường mũi của cá xâm nhập vào cơ quan khứu giác và di chuyển vào dây thần kinh
khứu giác, sau đó vào não (Miyazaki và Plumb, 1985; Shotts và ctv, 1986). Bệnh lan
rộng từ màng não đến sọ và da. E.ictaluri cũng có thể xâm nhiễm qua đường tiêu hoá
và niêm mạc ruột vào máu gây nhiễm trùng máu (Shotts và ctv, 1986). Bằng đường
này thì vi khuẩn vào mao mạch trong biểu bì gây hoại tử và mất sắc tố của da. Cá da
trơn còn nhiễm E.ictaluri qua đường miệng gây nhiễm khuẩn ruột. Bệnh tiến triển gây
viêm ruột, viêm gan và viêm cầu thận trong vòng 2 tuần sau khi nhiễm bệnh.
Tóm lại, vi khuẩn E.ictaluri có thể xâm nhập vào cơ thể cá từ môi trường nước
qua da, qua mang cá và qua miệng bằng đường thức ăn gây bệnh mủ gan cho cá
(Shotts và ctv, 1986).
Mùa vụ xuất hiện bệnh tháng 7 – 12, đặc biệt sau khi kết thúc mùa lũ. Cao điểm
xuất hiện bệnh thường xảy ra từ tháng 9 – 12 hàng năm (Nguyễn Hữu Thịnh và
Trương Thanh Loan, 2007).
8


2.2.3 Đường lây truyền
Bệnh do E.ictaluri có khả năng lây lan mạnh với tỷ lệ chết cao. Bệnh có thể lây
trực tiếp từ cá sang cá trong môi trường nước qua chất thải như phân cá bệnh hoặc do
cá khỏe ăn cá bệnh, cá chết.
Nếu ta sử dụng chung các dụng cụ như lưới, vợt giữa các ao thì sẽ là một trong
những nguyên nhân dẫn đến lay lan mầm bệnh từ ao này sang ao khác. Tuy nhiên, nếu

các dụng cụ này được phơi nắng trực tiếp thì có khả năng giết chết vi khuẩn. Ngoài ra,
chim, cò, vật nuôi (chó, mèo…) và người tham quan cũng góp phần làm lây lan mầm
bệnh (Nguyễn Hữu Thịnh, 2007).
2.2.4 Dấu hiệu bệnh lý
Cỡ cá mắc bệnh thường từ 0,2 g đến 300 g (cá giống và cá thịt). Đối với cá
giống, tỷ lệ chết cao có thể lên đến 100 % sau 5 ngày phát hiện bệnh. Cá lớn có tỷ lệ
chết thấp hơn so với cá giống (50 – 60 %). Đối với cá nuôi thương phẩm có thể chết
đến 30 – 50 % trong một đợi dịch bệnh. Khi đã nhiễm bệnh cá có biểu hiện bơi xoay
vòng, treo lơ lững cơ thể ở trên mặt nước, bỏ ăn ngay sau khi bị nhiễm khuẩn.
Triệu chứng bên ngoài: cá bệnh thường thấy xuất huyết quanh hậu môn, miệng,
bụng, vây và gốc vây. Cá có thể xuất huyết điểm trên thân hoặc xuất huyết trên toàn
thân. Cá bị nhiễm E.ictaluri hay bị phù đầu do tích dịch ở dưới da vùng sọ. Khi dịch
quá nhiều sẽ chảy xuống hốc mắt và gây lồi mắt. Quan sát mang cá thấy màu sắc nhợt
nhạt do vi khuẩn có khả năng gây dung huyết làm mất máu (Nguyễn Hữu Thịnh,
2007).
Bệnh tích bên trong
¾ Bệnh tích đại thể
Gan, thận cá bệnh sưng rất to, thận có hiện tượng nhũn, lách sưng ít hơn. Trên
gan, thận, lách xuất hiện mảng trắng hoại tử. Khi bệnh nặng, chúng phát triển thành
đốm trắng tròn có chứa dịch hơi đặc (mủ), đường kính khoảng 1 – 3 mm khắp bề mặt
và cả bên trong gan, thận, lách.
Cá bị bệnh thường tích dịch viêm ở xoang bụng có màu hơi vàng và có thể lẫn
máu. Cá nhiễm E.ictaluri thường bỏ ăn do đó ruột trống không chứa thức ăn, lòng ruột
có chứa dịch lẫn máu. Đồng thời còn thấy cá bị xuất huyết điểm trên ruột, cơ và mô
mỡ (Nguyễn Hữu Thịnh, 2007).
9


¾Bệnh tích vi thể
Gan: quan sát tiêu bản ở gan có đốm trắng dưới kính hiển vi cho thấy đây là

vùng hoại tử. Các tế bào gan không còn sát nhau như ở mô thường mà tách rời ra từng
tế bào hoặc thoái hóa thành một vùng không còn nhận ra được cấu trúc với nhiều mức
độ. Giai đoạn đầu có hiện tượng sung huyết động mạch và tĩnh mạch gan, đặc biệt là
hệ thống xoang mao mạch giữa các dãy tế bào gan làm cho toàn bộ tổ chức gan bị
sưng to. Sau đó, do quá trình sung huyết kéo dài dẫn đến vỡ mạch máu và giải thoát
nhiều enzyme (protease, lipase,…) làm các tế bào ở vùng viêm bị hoại tử dẫn đến hoại
tử. Lúc nào quan sát thấy những tế bào đã tách rời nhau, nhân tế bào co lại và vỡ vụn,
cuối cùng những tế bào này bị tiêu hủy. Khi cá bệnh nặng, những tổn thương lan rộng
làm gan không còn chức năng khử độc và lọc máu, làm chất độc tích tụ trong cơ thể
kết hợp với những yếu tố khác làm cá chết. Ngoài ra, do tổ chức gan bị hư hại làm mất
khả năng tiết mật của gan. Một số cá mới chết khi mổ ra thấy túi mật bị vỡ, dịch mật
lan tràn khắp nội quan. Điều này có thể do khi gan bị hoại tử đồng thời hoại tử ống dẫn
mật và túi mật làm túi mật vỡ, dịch mật thoát ra ngoài (Từ Thanh Dung, 2005).

Hình 2.1: Gan có đốm trắng dưới kính hiển vi
( />Thận: cấu trúc vi thể của thận bị hủy hoại trầm trọng, các phản ứng sưng viêm
xảy ra ở toàn bộ tổ chức. Thận sưng to đồng thời bị nhũn do sung huyết, một phần có
thể do tích tụ nước trong thận mà không đào thải được do hệ thống tiểu cần thận và
ống thận bị hư hại. Phản ứng viêm kéo dài gây hoại tử và làm mất chức năng các đơn
10


vị cấu tạo nên thận. Mô tạo máu nằm xen kẻ với các tế bào nội tiết của thận cũng bị
hoại tử làm cho máu trong cơ thể bị giảm sút. Khi thận bị hoại tử, chức năng bài tiết
chất thải trong quá trình trao đổi chất bị ngưng trệ. Trong khi đó quá trình trao đổi chất
lại đặc biệt tăng mạnh do cơ thể cá huy động các tổ chức nhằm đào thải các tác nhân
gây bệnh. Ngoài ra, hai loại hormone tuyến thượng thận là adrenalin và noradrenalin
không được sản xuất khi thận bị hoại tử cũng góp phần làm rối loạn chức năng sinh lý
của cá (Huỳnh Ngọc Châu, 2007).


A
B

Hình 2.2: Cấu trúc vi thể của thận
( />Lách: cùng với gan và thận, lách cũng là cơ quan bị hủy hoại nặng khi cá bị
bệnh mủ gan. Những đốm trắng trên lách là những vùng mô hoại tử với nhiều mức độ
khác nhau. Đối với cá bệnh nặng, nhiều vùng hoại tử dạng hạt lan rộng, phá hủy các
tiểu thể hình elip là vùng chức năng của lách, nơi tiêu hủy các vật lạ và vi khuẩn xâm
nhập vào cơ thể. Khi tác nhân gây bệnh xâm nhập quá nhiều sẽ gây ra tình trạng quá
tải đến một lúc nào đó tế bào sẽ mất chức năng và thoái hóa. Quá trình hoại tử ở lách
bắt đầu từ quá trình thoái hóa và hoại tử các tiểu thể lách làm mất chức năng tạo hồng
cầu mới và phá hủy hồng cầu già cũng như không thể sản xuất các tế bào lympho và
bạch cầu bảo vệ cơ thể chống các tác nhân gây bệnh. Cũng như thận, mô tạo máu bị
phá hủy nên lách mất chức năng cung cấp máu cho cơ thể (Mai Thị Bích Hạnh, 2008).

11


Hình 2.3: Gan (L), thận (K) và tụy tạng (S) cá tra bệnh gan thận mủ
(Từ Thanh Dung và ctv, 2003).
2.2.5 Chẩn đoán
Việc điều trị chỉ có hiệu quả khi phát hiện bệnh sớm. Do đó, trong quá trình
nuôi cần thường xuyên quan sát những biểu hiện của cá để phát hiện bệnh và xử lý kịp
thời. Giai đoạn đầu vài con tách đàn bơi lờ đờ ở đầu bè hoặc dạt về gốc bè, dọc bờ ao
đôi lúc cá giảm ăn. Bắt khoảng 5 – 10 con kiểm tra các đốm trắng ở gan, thận, và tỳ
tạng (Trần Mai Hải Yến, 2005).
Phân lập vi khuẩn từ gan, thận, lách. Nuôi cấy trên môi trường BHIA, đem ủ ở
nhiệt độ 28 – 30 0C trong vòng 48 giờ. Sau 48 giờ, ta cấy thuần trở lại.
Chúng ta có thể sử dụng các phương pháp chẩn đoán như: dùng bộ test kit API
20E, hay test IDS 14 GNR để định danh. Dùng phương pháp miễn dịch như phản ứng

ngưng kết trên phiến kính, phản ứng ELISA, và phương pháp PCR (Nguyễn Hữu
Thịnh, 2007).
2.2.6 Phòng bệnh
Chúng ta nên chọn con giống khoẻ mạnh, không nhiễm bệnh, thường xuyên chú
ý đến vấn đề chăm sóc sức khoẻ cá để giảm bệnh, giảm tình trạng stress, phải quản lý
môi trường nước tốt, tránh làm cá sây xát. Vào mùa dịch bệnh, nhất là về mùa lũ
không nên cho cá tra ăn cá tạp tươi sống. Thức ăn cần được nấu chín, tốt nhất nên sử
dụng thức ăn viên.
Không sử dụng hoá chất để diệt ký sinh trùng như CuSO4 trong thời gian có
nhiệt độ nước thích hợp cho vi khuẩn phát triển do hoá chất sẽ làm cá stress, dẫn tới cá
bị yếu lúc này vi khuẩn sẽ xâm nhập gây bệnh.
12


×