Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Khảo sát tình hình bệnh nhân bệnh đái tháo đường đến khám và điều trị tại khoa khám bệnh viện đa khoa tuy an năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.06 KB, 23 trang )

-1-

ĐỀ TÀI

“Khảo sát tình hình bệnh nhân bệnh đái tháo đường đến khám và
điều trị tại Khoa khám Bệnh viện Đa khoa Tuy An năm 2012”.

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
I- TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa
1.2. Chẩn đoán bệnh đái tháo đường
1.3. Biến chứng bệnh đái tháo đường
1.4. Rối loạn chuyển hoá lipid ở bệnh nhân đái tháo đường
1.5. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
1.6. Tình hình bệnh đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam
II- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu
2.5. Kỹ thuật thu thập số liệu
III- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Đa huyện
Tuy An
3.2. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
IV- BÀN LUẬN
KẾT LUẬN
KIÊN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO



-2-

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đái tháo đường là bệnh mang tính xã hội cao ở nhiều quốc gia bởi tốc
độ phát triển nhanh chóng, mức độ nguy hại đến sức khoẻ. Đái tháo đường
còn trở thành lực cản của sự phát triển, gánh nặng cho toàn xã hội khi mà mỗi
năm thế giới phải chi số tiền khổng lồ từ 232 tỷ đến 430 tỷ USD cho việc
phòng chống và điều trị
Theo WHO, năm 1985 có khoảng 30 triệu người mắc đái tháo đường
trên toàn cầu, năm 2004 có khoảng 98,9 triệu người mắc, tới nay khoảng 180
triệu người và con số đó có thể tăng gấp đôi lên tới 366 triệu người vào những
năm 2030. Đây là một trong ba căn bệnh có tốc độ phát triển nhanh nhất và
là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước đang phát
triển.
Việt Nam không xếp vào 10 nước có tỷ lệ mắc đái tháo đường cao nhưng
lại là quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh. Một nghiên cứu của Bệnh viện
Nội tiết Trung ương vào cuối tháng 10 - 2008 cho thấy, tỷ lệ mắc đái tháo
đường ở Việt Nam tăng nhanh từ 2,7% (năm 2001) lên 5% (năm 2008), trong
đó có tới 65% người bệnh không biết mình mắc bệnh.
Đái tháo đường đang là vấn đề thời sự cấp bách của sức khoẻ cộng
đồng. Cùng với sự phát triển về kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện thì
tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường tại các cơ sở khám chữa bệnh đang ngày một
gia tăng. Biện pháp hữu hiệu để làm giảm tiến triển và biến chứng của bệnh,
chi phí cho chữa bệnh ít tốn kém nhất là phải phát hiện sớm và điều trị
người bệnh kịp thời. Tuy nhiên, công tác phát hiện sớm, chăm sóc và điều trị
bệnh đái tháo đường tại bệnh viện đa khoa Tuy An còn gặp rất nhiều khó khăn.
Góp phần tìm hiểu vấn đề này, tôi tiến hành đề tài “Khảo sát tình hình
bệnh nhân bệnh đái tháo đường đến khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa

Tuy An năm 2012”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và sử dụng thuốc ở bệnh
nhân đái tháo đường điều trị tại Khoa khám Bệnh viện Đa khoa Tuy An.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường.


-3I-TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, “Đái tháo đường là một hội chứng có đặc
tính biểu hiện bằng sự tăng đường máu do hậu quả của việc mất hoàn toàn
insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết hoặc hoạt động
của insulin"
Tháng 1/2003, các chuyên gia thuộc Uỷ ban chẩn đoán và phân loại bệnh
đái tháo đường Hoa Kỳ, lại đưa ra một một định nghĩa mới về đái tháo đường:
“Đái tháo đường là một nhóm các bệnh chuyển hoá có đặc điểm là tăng
glucose máu, hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin; khiếm khuyết trong
trong hoạt động của insulin hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính thường
kết hợp với sự hủy hoại, sự rối loạn chức năng của nhiều cơ quan đặc biệt là
mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu” .
1.2. Chẩn đoán đái tháo đừơng
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định:
Theo ADA năm 1997 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận năm
1998, tuyên bố áp dụng vào năm 1999, đái tháo đường được chẩn đoán xác
định khi có bất kỳ một trong ba tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn 1: Glucose máu bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l. Kèm theo các triệu
chứng uống nhiều, đái nhiều, sút cân không có nguyên nhân.
- Tiêu chuẩn 2: Glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc bệnh
nhân đã nhịn đói sau 6 - 8 giờ không ăn.
- Tiêu chuẩn 3: Glucose máu ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp

tăng glucose máu ≥ 11,1 mmol/l.
Các xét nghiệm trên phải được lặp lại 1 - 2 lần trong những ngày sau đó .
1.3. Biến chứng bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh
sẽ tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh
nhân có thể tử vong do các biến chứng này.
- Biến chứng cấp tính
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn. Ngay
cả khi điều trị đúng, hôn mê nhiễm toan ceton và hôn mê tăng áp lực thẩm
thấu vẫn có thể là hai biến chứng nguy hiểm.
Nhiễm toan ceton là biểu hiện nặng của rối loạn chuyển hóa glucid do
thiếu insulin gây tăng glucose máu, tăng phân hủy lipid, tăng sinh thể ceton
gây toan hóa tổ chức. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ về trang thiết
bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử vong vẫn cao 5 - 10%.
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa glucose
nặng, đường huyết tăng cao. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm 5 - 10%. Ở
bệnh nhân đái tháo đường týp 2 nhiều tuổi, tỷ lệ tử vong từ 30 - 50% .
Nhiều bệnh nhân hôn mê, dấu hiệu đầu tiên của bệnh chính là tăng


-4glucose máu. Điều đó chứng tỏ sự hiểu biết về bệnh đái tháo đường còn chưa
được phổ biến trong cộng đồng.
-. Biến chứng mạn tính
+ Biến chứng tim - mạch
Bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường là biến chứng thường gặp
và nguy hiểm. Nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ glucose máu cao làm
tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành và các biến chứng tim mạch khác. Người
đái tháo đường có bệnh tim mạch là 45%, nguy cơ mắc bệnh tim mạch gấp 2 - 4
lần so với người bình thường. Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch chung
chiếm khoảng 75% tử vong ở người bệnh đái tháo đường, trong đó thiếu máu

cơ tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất
+ Biến chứng thận
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng
thường gặp, tỷ lệ biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận do đái tháo đường
khởi phát bằng protein niệu; sau đó khi chức năng thận giảm xuống, ure và
creatinin sẽ tích tụ trong máu.
Bệnh thận do đái tháo đường là nguyên nhân thường gặp nhất gây suy
thận giai đoạn cuối. Với người đái tháo đường týp 1, mười năm sau khi biểu
hiện bệnh thận rõ ràng, khoảng 50% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối và
sau 20 năm sẽ có khoảng 75% số bệnh nhân trên cần chạy thận lọc máu chu
kỳ. Khả năng diễn biến đến suy thận giai đoạn cuối của bệnh nhân đái tháo
đường týp 2 ít hơn so với bệnh nhân đái tháo đường týp 1, song số lượng bệnh
nhân đái tháo đường týp 2 chiếm tỷ lệ rất lớn nên thực sự số bệnh nhân suy
thận giai đoạn cuối chủ yếu là bệnh nhân đái tháo đường týp 2.
+ Bệnh lý mắt ở bệnh nhân đái tháo đường
Đục thuỷ tinh thể là tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường,
có vẻ tương quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường huyết kéo
dài. Đục thuỷ tinh thể ở người đái tháo đường cao tuổi sẽ tiến triển nhanh hơn
người không đái tháo đường.
Bệnh lý võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù ở
người 20 - 60 tuổi. Bệnh biểu hiện nhẹ bằng tăng tính thấm mao mạch, ở giai
đoạn muộn hơn bệnh tiến triển đến tắc mạch máu, tăng sinh mạch máu với
thành mạch yếu dễ xuất huyết gây mù loà. Sau 20 năm mắc bệnh, hầu hết
bệnh nhân đái tháo đường týp 1 và khoảng 60% bệnh nhân đái tháo đường týp2
có bệnh lý võng mạc do đái tháo đường.
+. Bệnh thần kinh do đái tháo đường
Bệnh thần kinh do đái tháo đường gặp khá phổ biến, ước tính khoảng
30% bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện biến chứng này. Người bệnh đái
tháo đường týp 2 thường có biểu hiện thần kinh ngay tại thời điểm chẩn đoán.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường thường được phân chia thành các hội

chứng lớn sau: Viêm đa dây thần kinh, bệnh đơn dây thần kinh, bệnh thần
kinh thực vật, bệnh thần kinh vận động gốc chi.
- Một số biến chứng khác
+. Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường
Bệnh lý bàn chân đái tháo đường ngày càng được quan tâm do tính phổ


-5biến của bệnh. Bệnh lý bàn chân đái tháo đường do sự phối hợp của tổn
thương mạch máu, thần kinh ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn do glucose
máu tăng cao.
Một thông báo của WHO tháng 3 - 2005 cho thấy có tới 15% số người
mắc bệnh đái tháo đường có liên quan đến bệnh lý bàn chân, 20% số người
phải nhập viện do nguyên nhân bị loét chân. Bệnh nhân đái tháo đường phải
cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với người không bị đái tháo đường, chiếm
45 - 70% tổng số các trường hợp cắt cụt chân
+. Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân đái tháo đường
Bệnh nhân bị đái tháo đường thường nhạy cảm với tất cả các loại nhiễm
khuẩn do có nhiều yếu tố thuận lợi. Có thể gặp nhiễm khuẩn ở nhiều cơ quan
như: viêm đường tiết niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương, viêm túi mật sinh
hơi, nhiễm nấm …
1.4. Rối loạn chuyển hóa lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
Rối loạn lipid máu là tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành
phần lipid trong máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch,
làm gia tăng nguy cơ biến chứng tim mạch và đột quỵ, tăng các biến chứng
mạch máu khác. Ngày nay, người ta xem đã có rối loạn lipid máu ngay từ khi
tỷ lệ các thành phần của lipid trong máu có sự thay đổi .
Người đái tháo đường týp 2 thường có tăng triglycerid máu và giảm
HDL - C (loại lipoprotein được xem là có chức năng bảo vệ thành mạch), đôi
khi không phụ thuộc vào mức độ kiểm soát đường máu. Người bệnh mới mắc đái
tháo đường týp 2 thường có mức HDL - C thấp ở nam từ 20 - 50%, nữ 10 - 25%.

Chuyển hoá LDL - C cũng bị rối loạn ở người đái tháo đường týp 2, chỉ cần
LDL - C tăng nhẹ cũng đã là yếu tố nguy cơ làm bệnh mạch vành tăng rõ rệt
1.5. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
- Tuổi
Qua nhiều nghiên cứu thấy tuổi có sự liên quan đến sự xuất hiện bệnh đái tháo
đường týp 2. Tuổi càng tăng, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường càng cao.
Ở châu Á, đái tháo đường týp 2 có tỷ lệ cao ở những người trên 30 tuổi. Từ
65 tuổi trở lên, tỷ lệ bệnh đái tháo đường lên tới 16% .
- Giới tính
Tỷ lệ mắc đái tháo đường ở hai giới nam và nữ thay đổi tuỳ thuộc vào
các vùng dân cư khác nhau. Ảnh hưởng của giới tính đối với bệnh đái tháo
đường không theo quy luật, nó tuỳ thuộc vào chủng tộc, độ tuổi, điều kiện
sống, mức độ béo phì.
Ở các vùng đô thị Thái Bình Dương tỷ lệ nữ/nam là 3/1, trong khi ở
Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở cả hai giới tương
đương nhau.
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Hoàng Kim Ước và cộng sự, tỷ lệ
mắc đái tháo đường ở nam là 3,5%; ở nữ là 5,3% [11]
-. Địa dư
Các nghiên cứu tỷ lệ mắc đái tháo đường đều cho thấy lối sống công
nghiệp hiện đại ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mắc bệnh đái tháo đường. Tỷ


-6lệ mắc đái tháo đường tăng gấp 2 - 3 lần ở những người nội thành so với
những người sống ở ngoại thành theo các công bố nghiên cứu dịch tễ ở
Tunisia, Úc... Một số nghiên cứu của Việt Nam cũng cho kết quả tương tự.
Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cường tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc đái tháo
đường ở nội thành là 1,4%, ngoại thành là 0,6%. Nghiên cứu của Trần Hữu
Dàng tại Quy Nhơn thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nội thành là 9,5% cao hơn so với
ngoại thành là 2,1% Yếu tố địa dư ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc đái tháo đường

thực chất là sự thay đổi lối sống: ít vận động, ăn uống nhiều dẫn đến béo phì
gây ra.
-. Béo phì
“Béo phì là trạng thái thừa mỡ của cơ thể”. Theo các chuyên gia của
WHO, béo phì là yếu tố nguy cơ mạnh mẽ nhất tác động lên khả năng mắc
đái tháo đường týp 2. Có nhiều phương pháp chẩn đoán và phân loại béo phì,
trong đó chẩn đoán béo phì bằng chỉ số khối cơ thể và chỉ số bụng mông được
áp dụng khá rộng rãi. Cho tới nay, tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì đã được WHO
thống nhất. Tuy nhiên tiêu chuẩn này là khác nhau cho các vùng địa lý, châu
lục khác nhau.
Trong bệnh béo phì, tích lũy mỡ xảy ra trong một thời gian dài, do đó sự
suy giảm khả năng tự bảo vệ chống lại quá trình nhiễm mỡ có thể xảy ra ở
một số thời điểm và triglycerid dần được tích lũy lại.
Béo bụng còn được gọi là béo dạng nam, là một thuật ngữ chỉ những
người mà phân bố mỡ ở bụng, nội tạng và phần trên cơ thể chiếm tỷ trọng
đáng kể. Béo bụng, ngay cả với những người cân nặng không thực sự xếp vào
loại béo phì hoặc chỉ béo vừa phải là một yếu tố nguy cơ độc lập gây ra rối
loạn mỡ máu, tăng huyết áp và rối loạn chuyển hóa đường.
Ngày nay, béo phì đang ngày càng gia tăng, kéo theo sự gia tăng của
bệnh đái tháo đường týp 2 và bệnh tim mạch.
-. Thuốc lá và bia rượu
Thuốc lá và bia rượu là những chất gây hại cho cơ thể, làm nặng thêm
các rối loạn chuyển hoá. Những người hút thuốc có xu hướng hình thành
những thói quen không có lợi khác, chẳng hạn như không tập thể dục thể thao
hoặc ăn những thực phẩm không có lợi cho sức khỏe.
Rượu có tác động rất xấu đến sức khỏe con người, gây ảnh hưởng đến
toàn bộ các cơ quan trong cơ thể. Những người bệnh đái tháo đường nếu uống
nhiều rượu thì hậu quả thường nặng hơn so với người bình thường. Theo
nghiên cứu của Tô Văn Hải, bệnh nhân nam đái tháo đường có tỷ lệ uống bia
rượu 22,3% và hút thuốc lá 16,8% . [6]

1.6. Tình hình bệnh đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam
Trên thế giới
Trong những năm gần đây, tỷ lệ đái tháo đường gia tăng mạnh mẽ trên toàn
cầu, WHO đã lên tiếng báo động vấn đề nghiêm trọng này trên toàn thế giới.
Năm 1992, ở Pháp tác giả Marie Laure Auciaux và cộng sự ước tính có
khoảng 2 triệu người đái tháo đường týp 2.
Ở Mỹ, theo Trung tâm kiểm soát bệnh tật CDC, bệnh đái tháo đường
tăng14% trong hai năm từ 18,2 triệu người (2003) lên 20,8 triệu người (2005) .


-7Theo một thông báo của Hiệp hội đái tháo đường quốc tế, năm 2006 ước
tính khoảng 246 triệu người mắc bệnh, trong đó bệnh đái tháo đường týp 2
chiếm khoảng 85 - 95 % tổng số bệnh nhân đái tháo đường ở các nước phát
triển và thậm chí còn cao hơn ở các nước đang phát triển .
Tỷ lệ bệnh đái tháo đường thay đổi theo từng nước có nền công nghiệp
phát triển hay đang phát triển và thay đổi theo từng vùng địa lý khác nhau.
Trong đó, nơi có tỷ lệ đái tháo đường cao nhất là khu vực Bắc Mỹ (7,8%),
khu vực Địa Trung Hải và khu vực Trung Đông (7,7%), châu Âu (4,9%) và
châu Phi (1,2%).
Tỷ lệ đái tháo đường ở châu Á cũng gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt ở khu
vực Đông Nam Á (5,3%). Nguyên nhân của sự gia tăng bệnh nhanh chóng do
mức độ đô thị hóa nhanh, sự di dân từ khu vực nông thôn ra thành thị nhiều,
sự thay đổi nhanh chóng về lối sống công nghiệp, giảm hoạt động chân tay, sự
tăng trưởng kinh tế nhanh và chế độ ăn không cân đối, nhiều mỡ.
Tại Việt Nam
Năm 2002, theo điều tra trên phạm vi toàn quốc ở lứa tuổi từ 30 - 64 của Bệnh
viện Nội tiết Trung ương, tỷ lệ mắc đái tháo đường chung cho cả nước là 2,7%,
ở các thành phố 4,4%, vùng đồng bằng ven biển 2,2% và miền núi 2,1% .
Một nghiên cứu được tiến hành trên 2394 đối tượng từ 30 - 64 tuổi đang
sinh sống tại 4 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố

Hồ Chí Minh thấy rằng tỷ lệ mắc đái tháo đường là 4,6% - 4,9%. Đa số bệnh
nhân đái tháo đường không được chẩn đoán và điều trị.
Theo nghiên cứu của Đặng Thị Ngọc - Đỗ Trung Quân tại bệnh viện
Bạch Mai, tỷ lệ đái tháo đường týp 2 chiếm 81,5%; tỷ lệ đái tháo đường týp 1
chiếm 18,5%; tỷ lệ nữ chiếm 61,2%; tỷ lệ nam chiếm 38,8% .
Năm 2004, Tạ Văn Bình và cộng sự tiến hành nghiên cứu bệnh đái tháo
đường tại Cao Bằng thấy tỷ lệ mắc bệnh qua sàng lọc là 6,8%. Cũng trong
năm đó Trần Thị Mai Hà nghiên cứu tại Yên Bái, Hoàng Kim Ước nghiên
cứu tại Phú Thọ, Sơn La kết luận đái tháo đường là bệnh gặp chủ yếu ở người
có thu nhập cao, có đời sống vật chất và địa vị trong xã hội. Đó là một
thách thức lớn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội và sức khoẻ cộng
đồng.
II- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những bệnh nhân đái tháo đường được khám và điều trị tại Bệnh viện Đa
khoa Tuy An
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 01/2012 đến tháng 8/2012.
- Địa điểm: Khoa khám và khoa Nội - Bệnh viện Đa khoa Tuy An.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt ngang.


-82.3.2. Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu có chủ đích.
2.3.3. Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định đái tháo đường khi có 1 trong 3
tiêu chuẩn :
- Tiêu chuẩn 1: Glucose máu bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l.

- Tiêu chuẩn 2: Glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc bệnh
nhân đã nhịn đói sau 6 - 8 giờ không ăn.
- Tiêu chuẩn 3: Glucose máu ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp
tăng glucose máu ≥ 11,1 mmol/l.
2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu
2.4.1. Đặc điểm bệnh nhân đái tháo đường
* Thông tin chung:
- Tuổi.
- Giới.
- Nghề nghiệp.
- Địa chỉ.
* Chỉ tiêu lâm sàng
- Thời gian phát hiện bệnh.
- Huyết áp.
- Triệu chứng lâm sàng chính của bệnh:
+ Ăn nhiều.
+ Uống nhiều.
+ Đái nhiều.
+ Gầy sút cân.
- Triệu chứng kèm theo: Đau ngực, mắt nhìn mờ, tê tay chân, mệt mỏi.
* Một số biến chứng thường gặp:
- Biến chứng tim mạch.
- Biến chứng thần kinh.
- Biến chứng mắt.
- Biến chứng khác: biến chứng thận,răng lợi, hô hấp, da.
* Chỉ tiêu cận lâm sàng:
- Xét nghiệm máu: Định lượng glucose máu lúc đói.
* Phương pháp sử dụng thuốc hạ glucose máu:
- Đơn trị liệu.
2.4.2. Một số yếu liên quan đến bệnh đái tháo đường

- Đo cân nặng, chiều cao, tính chỉ số khối cơ thể.
- Tiền sử bản thân về bệnh, chế độ ăn uống, sinh hoạt, sử dụng thuốc.
2.5. Kỹ thuật thu thập số liệu
Tất cả đối tượng nghiên cứu khi đi khám định kỳ được khám lâm sàng,
làm các xét nghiệm cần thiết. Các kết quả được ghi vào phiếu bệnh án nghiên
cứu thống nhất.


-9-

2.5.1. Khám lâm sàng
* Tính chỉ số khối cơ thể:
- Cân bệnh nhân: Sử dụng bàn cân V i ệ t N a m ( h i ệ u N h ơ n H ò a ) có
thước đo chiều cao. Bệnh nhân chỉ mặc một bộ quần áo mỏng, không đi giầy
dép, không đội mũ. Kết quả được ghi bằng kg, sai số không quá 100g.
- Đo chiều cao: Được đo bằng thước đo chiều cao gắn liền với cân. Bệnh
nhân đứng thẳng đứng, 2 gót chân sát mặt sau của bàn cân, đầu thẳng, mắt
nhìn thẳng. Kéo thước đo thẳng đứng đến hết tầm, sau đó kéo từ từ xuống đến
khi chạm đứng đỉnh đầu, đọc kết quả trên vạch thước đo. Kết quả tính bằng
mét (m) và sai số không quá 0,5 cm.
- Tính chỉ số khối cơ thể: BMI = Cân nặng (kg)/ Chiều cao2 (m)
Phân loại thể trạng theo chỉ số khối cơ thể áp dụng cho người châu Á:
Thể trạng
Gầy
Bình thường
Béo:
-Thừa cân
-Béo độ 1
-Béo độ 2


BMI
<18,5
18,5 – 22,9
≥23
23 – 24,9
25 – 29,9
≥30

* Đo huyết áp:
- Sử dụng ống nghe và huyết áp kế đồng hồ Nhật Bản. Bệnh nhân được đo
huyết áp động mạch cánh tay ở tư thế nằm. Trước khi đo bệnh nhân được
nghỉ 15 phút, không dùng thuốc ảnh hưởng huyết áp.
- Phân loại tăng huyết áp theo JNC VI (Ủy ban phòng chống THA Hoa Kỳ)
Bảng 2.2. Bảng phân loại tăng huyết áp
Huyết áp tâm thu
(mmHg)

Huyết áp tâm trương
(mmHg)

< 130

< 85

Tiền tăng huyết áp

130 - 139

85 - 89


Tăng huyết áp:
Giai đoạn 1 (độ I)
Giai đoạn 2 (độ II)
Giai đoạn 3 (độ III)

140 - 159
160 - 179
≥ 180

90 - 99
100 - 109
≥ 110

Mức độ
Bình thường

* Chẩn đoán một số biến chứng:
- Biến chứng tim mạch: Xác định tăng huyết áp dựa vào kết quả đo huyết áp
và phân loại theo JNC VI.
- Biến chứng thận: Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, xét nghiệm creatinin


- 10 máu, xét nghiệm nước tiểu toàn phần (bệnh nhân có xét nghiệm protein niệu
dương tính được chẩn đoán có biến chứng thận).
- Biến chứng thần kinh: Xác định bằng khám lâm sàng.
- Biến chứng mắt: Được chẩn đoán bằng khám mắt, đo thị lực, soi đáy mắt do
bác sỹ chuyên khoa thực hiện.
- Biến chứng hô hấp, răng lợi, da: Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, xét
nghiệm và khám chuyên khoa.
* Xác định cách sử dụng thuốc hạ glucose máu:

- Đơn trị liệu: Bệnh nhân được sử dụng thuốc ngoại trú: Diapro hoặc
Pymetphage uống hạ glucose máu.
2.5.2. Cận lâm sàng
- Các xét nghiệm sinh hoá máu được tiến hành tại bệnh viện ĐK Tuy An
+ Xét nghiệm glucose máu lúc đói
- Cách lấy máu và nước tiểu làm xét nghiệm: Bệnh nhân được lấy máu
tĩnh mạch vào buổi sáng lúc đ ó i
III- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại Khoa khám Bệnh
viện Đa khoa Tuy An
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi, giới
Giới
Nhóm tuổi

Nam
Số người

Nữ
%

Tổng số

Số người

%

Số người

%


< 40

4

2,5

1

0,6

5

3,1

40 - 49

8

5,0

15

9,4

23

14,5

50 - 59


22

13,8

37

23,3

59

37,1

60 - 69

17

10,7

32

20,1

49

30,8

≥ 70

9


5,7

14

8,8

23

14,5

Tổng

60

37,7

99

62,3

159

100,0

Trong đó trên 50

48

131


82,4

Tuổi trung bình
X ± SD

83
58,4 ± 10,2

Nhận xét: - Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 58,4 ± 10,0.
- Tỷ lệ nam là 37,7%, tỷ lệ nữ tương đương là 62,3%.
- Số đối tượng nghiên cứu trên 50 tuổi chiếm 82,44%, nhóm tuổi (50 – 59)
có tỷ lệ cao nhất 37,1%.


- 11 Bảng 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo địa dư
Thị trấn
Số người

Nông thôn ĐB

%

Số người
103

64,2

103

0,1


Số người mắc bệnh N=159

51

32,1

Dân số: thị trấn: 8.575

51

0,6

Dân số : 12xã ĐB: 104.689

%

Dân số : 03xã MN: 9.972

Miền núi
Số người

%

5

3,7

5


0,05

Nhận xét:+ 32,1% đối tượng nghiên cứu cư trú tại khu vực thị trấn.
+ 64,2% đối tượng nghiên cứu cư trú tại khu vực nông thôn
+ 3,7% đối tượng nghiên cứu cư trú tại các xã miền núi
+ Tỷ lệ mắc bệnh TĐ so với dân số ở khu vực đó là thị trấn có tỷ lệ
cao nhất: 0,6%, nông thôn đồng bằng là 0,1%; ở nông thôn miền núi: 0,05%
Bảng 3.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp

Số trường hợp (n)

Làm ruộng
Cán bộ hưu
Cán bộ
Khác
Tổng

Tỷ lệ (%)

74
27
25
33
159

46,5
17,0
15,7
20,8

100,0

Nhận xét: - Kiểm soát glucose máu mức độ chấp nhận và kém cao nhất ở
đối tượng nghiên cứu có nghề nghiệp làm ruộng (9,4% và 31,4%).
Bảng 3.4. Thời gian phát hiện bệnh theo nhóm tuổi
Thời gian

< 1 năm

1 - 5 năm

n

%

n

%

N

%

< 40

5

3,1

0


0,0

0

0,0

40 - 49

18

11,3

4

2,5

1

0,6

Nhóm tuổi

 5 năm

50 - 59

22

13,8


34

21,4

3

1,9

60 - 69

4

2,5

36

22,6

9

5,7

 70
Tổng số

0

0,0


13

8,2

10

6,3

49

30,8

54,7

22

14,5

88


- 12 -

Nhận xét:
- Thời gian phát hiện bệnh từ 1 - 5 năm cao nhất, chiếm 55,3%.
- Nhóm tuổi 60 - 69 có thời gian phát hiện bệnh từ 1- 5 năm chiếm tỷ lệ cao
nhất 22,6%.
- Tỷ lệ phát hiện bệnh ở nhóm  5 năm có xu hướng tăng dần theo độ
tuổi
Bảng 3.5. Một số triệu chứng lâm sàng ở đối tượng nghiên cứu


Triệu chứng

Số trường hợp
(n = 159)

Tỷ lệ (%)

115

72,3

Đái nhiều
Gầy sút cân

110
87

69,2
54,7

Ăn nhiều

66

41,5

Mệt mỏi

125


78,6

Tê tay chân

13,2

Đau ngực

12
7
33

Mắt nhìn mờ

32

20,1

Tình cờ phát hiện

5

3,1

Uống nhiều

20,8

Nhận xét:

- Các triệu chứng cổ điển gặp với tỷ lệ tương đối cao: uống nhiều
72,3%; đái nhiều 69,2%; gầy sút cân 54,7%; ăn nhiều 41,5%.
Bảng 3.6. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có biến chứng tính theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi

Có biến chứng

Chưa có biến chứng

< 40

(n = 5)

n
3

40 - 49

(n = 23)

12

52,2

11

47,8

50 - 59


(n = 59)

34

57,6

25

42,4

60 - 69

(n = 49)

37

75,5

12

24,5

≥ 70

(n = 23)

22

95,7


01

4,3

108

67,9

51

32,1

Tổng số

%
60,0

n
2

%
40,0


- 13 Nhận xét:
- Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có ít nhất một biến chứng là 67,9%.
- Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có biến chứng tăng theo nhóm tuổi; cao
nhất ở nhóm tuổi ≥ 70 (95,7%).
Bảng 3.7. Một số biến chứng theo thời gian phát hiện bệnh
Thời gian

Biến chứng
Tim mạch
Thần kinh
Mắt
Khác trong đó có
thận . . .

< 1 năm
(n = 28)
n
%

1 - 5 năm
(n = 58)
n
%

 5 năm
(n = 22)
n
%

Tổng số
(n = 108)
n
%

10

35,7


26

44,8

11

50,0

47

43,5

5
3
10

17,9
10,9
35,7

7
4
21

12,1
6,9
36,2

2

2
7

9,0
9,0
32,0

14
9
38

13,0
8,3
35,2

Nhận xét: Biến chứng gặp nhiều hơn là biến chứng tim mạch 43,5%,
biến chứng thận 39,6%; tỷ lệ các biến chứng cao hơn ở nhóm có thời gian
phát hiện bệnh ≥ 5 năm.

Bảng 3.8. Tỷ lệ tăng huyết áp ở đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân
Phân
loại huyết áp
Bình thường

Số trường hợp (n)

Tỷ lệ (%)

72


45,3

Tiền tăng huyết áp

27

16,0

Tăng huyết áp

60

37,7

Độ I

43

27,0

Độ II

11

6,9

Độ III

6


3,8

Nhận xét :- Tỷ lệ tăng huyết áp ở đối tượng nghiên cứu là 37,7%.
- Tăng huyết áp độ I cao nhất, chiếm 27,0%.


- 14 Bảng 3.9. Chỉ số glucose máu trung bình ở đối tượng nghiên cứu
Đơn vị: mmol/l
Nhóm tuổi

Glucose máu trung bình
( X ± SD)

< 40

7,2 ± 1,04

40 - 49

9,3 ± 3,2

50 - 59

9,1 ± 3,1

60 - 69

9,2 ± 2,1


 70
Chỉ số chung

9,1 ± 3,2
9,1 ± 2,9

Nhận xét:
- Chỉ số glucose máu trung bình c h u n g l à 9,1 ± 2,9, ở nhóm tuổi t ừ
40- 49 cao hơn các nhóm tuổi khác.
- Chỉ số glucose máu trung bình của đối tượng nghiên cứu nằm ở mức kiểm
soát kém.
Bảng 3.10. Mức độ kiểm soát glucose máu theo tiêu chuẩn của WHO
Mức độ

Số trường hợp

Tỷ lệ (%)

( n = 159)

Tốt (4,4 - 6,1)

20

12,6

Chấp nhận (6,2 -7)

27


17,0

Kém (> 7)

112

70,4

Nhận xét: - Mức độ kiểm soát glucose máu tốt chiếm 12,6%
- Mức độ kiểm soát glucose máu kém chiếm tỷ lệ 70,4%.
Bảng 3.11. Cách sử dụng thuốc hạ glucose máu ở đối tượng nghiên cứu
Cách sử dụng thuốc
Đơn trị liệu bằng thuốc uống nhóm Diapro
Đơn trị liệu bằng thuốc uống nhóm
Pymetphage

Số lượng
(n=159)
98
61

Tỷ lệ (%)
61,6
38,4


- 15 Bảng 3.12. Thể trạng của đối tượng nghiên cứu theo chỉ số BMI
Thể trạng

Số trường hợp

(n=159)
29

Tỷ lệ (%)

Bình thường

58

36,8

Thừa cân, béo phì

72

45,0

Gầy

18,2

Nhận xét:- Thể trạng thừa cân và béo phì cao nhất, chiếm 45,0%.
- Thể trạng gầy chiếm 18,2%.

IV- BÀN LUẬN
Đái tháo đường đang là đại dịch của các bệnh không lây nhiễm và được
coi là “kẻ giết người thầm lặng”. Ngày nay, tỷ lệ tử vong do những biến
chứng cấp tính và mạn tính ở người bệnh đái tháo đường đã giảm đáng kể,
chất lượng cuộc sống của người bệnh đã phần nào được nâng cao. Đó là nhờ
có những tiến bộ trong chẩn đoán, phát hiện sớm, đặc biệt là áp dụng các biện

pháp chăm sóc, điều trị tích cực. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh vẫn ngày càng tăng,
không chỉ ở khu vực Thành phố mà còn phát triển nhanh ở khu vực nông
thôn.
Tuy An là một huyện thuộc vùng duyên hải, địa bàn dân cư bao gồm
15 xã và 01 thị trấn. Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, xã hội, bệnh đái tháo
đường đang tăng lên nhanh chóng. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 159
bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa huyện Tuy
An. Từ kết quả thu được, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét sau:
4.1. Đặc điểm bệnh nhân đái tháo đường
4.1.1. Đặc điểm lâm sàng
- Về tuổi và giới tính:
Tuổi có liên quan với sự phát triển bệnh đái tháo đường. Hầu hết các
nghiên cứu đều thấy độ tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc đái tháo đường càng tăng
và tỷ lệ gia tăng nhiều nhất là nhóm tuổi từ 50 trở lên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo (bảng 3.1) tuổi trung bình
của bệnh nhân là 58,4 ±10. Bệnh nhân ít tuổi nhất là nam 25 tuổi, cao tuổi
nhất là nam 88 tuổi. Bệnh nhân từ 50 tuổi trở lên chiếm 82,4%, trong đó gặp


- 16 nhiều nhất là nhóm tuổi 50 - 59, chiếm 37,1%. So với nghiên cứu Trần Văn
Hiên tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho thấy tuổi trung bình của bệnh nhân là
54,1 ± 8,8; nhóm tuổi 50 - 59 chiếm tỷ lệ 33,3% ;Võ Bảo Dũng nghiên cứu tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định cho thấy tuổi trung bình là 52 ± 7,6 [5]
nghiên cứu . Đào Thị Dừa nghiên cứu tại Bệnh viện Trung ương Huế, tuổi
trung bình là 56,9 ± 16,4 [4]. Theo nghiên cứu của Bùi Thế Bừng tại Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Bắc Giang, tuổi trung bình của bệnh nhân là 55,4 ± 7,2, nhóm tuổi
gặp nhiều nhất là 50 - 59, chiếm tỷ lệ 62% [3]. Như vậy, kết quả nghiên cứu
của chúng tôi có tuổi trung bình là 58,4 ±10, cao hơn kết quả nghiên cứu
của các tác giả trên.
Cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội, tuổi thọ của con người ngày

càng cao và bệnh tật thường gia tăng với tuổi già, nhất là đái tháo đường. Khi
cơ thể già chức năng tụy bị suy giảm; đồng thời những thay đổi về chuyển
hoá glucose cũng tiến triển song hành với tuổi. Quá trình lão hoá là nguyên
nhân quan trọng nhất của sự đề kháng insulin, cơ chế làm tăng tỷ lệ đái tháo
đường. Đồng thời những thay đổi về lối sống do tuổi tác là yếu tố đóng góp
quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay đái tháo đường ở trẻ tuổi, tuổi dậy thì và tuổi
trưởng thành đang là thực tại đáng lo ngại. Nghiên cứu của chúng tôi có
3,1% bệnh nhân dưới 40 tuổi. Vì vậy, cần tuyên truyền, giáo dục những kiến
thức chung về bệnh đái tháo đường rộng rãi trong cộng đồng nhằm phát hiện
bệnh sớm, làm chậm sự xuất hiện và làm giảm mức độ nặng các biến chứng
của bệnh.
Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường giữa nam và nữ có sự khác nhau trong
các nghiên cứu. So sánh tỷ lệ đái tháo đường theo giới với một số tác giả như
sau:
Tác giả

Năm

Địa điểm nghiên cứu

Tô Văn Hải

2005

Bệnh viện thanh Nhàn hà Nội

Nam Nữ
(%)
(%)

30,3 69,7

Lý Thị Tơ

2005

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang

45,3

54,7

Triệu Quang Phú

2006

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lạng Sơn

62,0

38,0

Võ Bảo Dũng

2007

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định

54,6


45,4

Phạm Thị Lan

2008

Bệnh viện Đa khoa TW Thái Nguyên

48,9

51,1

Phạm Văn Thức

2012

Khoa khám BV Đa khoa huyện Tuy An

37,7

62,3

Như vậy, kết quả nghiên cứu tại một số bệnh viện cho thấy tỷ lệ mắc
bệnh giữa nam và nữ có sự khác nhau. Sự khác nhau về tỷ lệ nam, nữ này
hoàn toàn phù hợp vì đây chỉ là số liệu phản ánh thực trạng người bệnh điều
trị tại khoa khám bệnh viện. Còn sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và
nữ giữa các khu vực trong một quốc gia có lẽ phụ thuộc vào các yếu tố như
thói quen ăn uống, sự vận động, điều kiện sống, ...



- 17 -

- Địa chỉ, nghề nghiệp:
Ảnh hưởng của các yếu tố về địa lý, xã hội, đặc điểm của từng nghề
nghiệp tới sự phát triển bệnh đái tháo đường cũng đã được chứng minh.
Điều tra quốc gia về tình hình bệnh đái tháo đường và yếu tố nguy cơ
được tiến hành trên cả nước cho kết quả, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở vùng núi
là 2,1%, vùng đồng bằng ven biển là 2,7%, vùng đô thị và khu công nghiệp
là 4,4 % [16]. Theo kết q u ả ( b ả n g 3 . 2 ) n g hiên cứu của chúng tôi, có
32,1% bệnh nhân cư trú ở khu vực thị trấn; 64,2% cư trú ở khu vực nông
thôn, 3,1% cư trú ở khu vực miền núi. So với dân số ở từng khu vực đó là thị
trấn có tỷ lệ mắc cao nhất: 0,6%, nông thôn đồng bằng là 0,1%; ở nông thôn
miền núi: 0,05%. Kết quả này phù hợp với điều tra tr ên là vùng th ị
trấn, đô thị có tỷ lệ mắ c bệnh đái tháo đường cao hơn vùng nông thôn và
miền núi.
Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường có sự khác nhau ở đối tượng nghiên cứu
có nghề nghiệp khác nhau. Theo Lý Thị Thơ nghiên cứu tại Tuyên Quang, nhóm
cán bộ hưu trí chiếm 52,7%, làm ruộng chiếm 31%, cán bộ công chức 9,3%
[10]. Trương Văn Sáu nghiên cứu tại Bắc Giang cho thấy tỷ lệ mắc ở nhóm
cán bộ hưu trí 48,4%, làm ruộng 39,1% và cán bộ công chức 12,5% [14].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi (ở bảng 3.3), có sự khác biệt với các
nghiên cứu trên, đó là tỷ lệ mắc ở nhóm làm ruộng cao hơn, chiếm 46,5%;
Cán bộ công chức chiếm 15,7%, nghề khác 20,8%. Đặc biệt, nhóm cán bộ
hưu trí chỉ chiếm 17,0%. Theo chúng tôi, điều này có thể do phần lớn bệnh
nhân đái tháo đường là cán bộ hưu, nhất là ở khu vực thị trấn thường đi khám
và điều trị ở tuyến trên.
- Thời gian phát hiện bệnh
Qua nghiên cứu 159 bệnh nhân chúng tôi thấy, số bệnh nhân có thời
gian phát hiện bệnh từ 1 - 5 năm chiếm tỷ lệ cao 54,7%. Bệnh nhân mắc mới
(<1 năm) chiếm tỷ lệ 30,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với

một số nghiên cứu trước đây. Nghiên cứu của Triệu Quang Phú, Bùi Thế
Bừng cũng cho kết quả thời gian phát hiện bệnh từ 1-5 năm chiếm đa số, tỷ
lệ lần lượt là Từ 1 - 5 n ă m 53,9% và t r ê n 5 n ă m 4 6 , 2 % [3], [9].
Kết quả bảng 3.4 cho thấy, bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh trên
5 năm chiếm 14,5%. Tỷ lệ mắc bệnh tăng dần theo nhóm tuổi, trong đó số
người trên 60 tuổi chiếm 4 3 % trong t ổng số người có thời gian phát
hiện trên 5 năm. Ngày nay, có lẽ do công tác quản lý bệnh đái tháo đường
tương đối tốt, tuổi thọ của con người ngày càng tăng ... nên tuổi bệnh thường
tăng song song với tuổi đời.
* Một số triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường rất đa dạng. Các
triệu chứng cổ điển ăn nhiều, gầy nhiều, đái nhiều, uống nhiều có thể gặp đầy
đủ hoặc không đầy đủ trên một bệnh nhân. T h e o b ả n g 3 . 5 Tần
xuất xuất hiện các triệu chứng lần lượt là uống nhiều 72,3%, đái nhiều
69,2%, ăn nhiều 41,5%, gầy sút cân 54,7%. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi có một số khác biệt với các tác giả khác. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu
Minh có 98,6% bệnh nhân gầy sút cân, uống nhiều 87,8%, đái nhiều 83,7%


- 18 [12]. Tác giả Hoàng Thị Đợi cho thấy gầy sút cân 81,7%, uống nhiều 84%, đái
nhiều 86,7% [13].
Theo một số tác giả trên, các dấu hiệu gặp chủ yếu là đái nhiều, uống
nhiều, gầy sút cân, trong đó dấu hiệu gầy sút cân chiếm tỷ lệ rất cao
Ngoài các triệu chứng chính của bệnh, 85% bệnh nhân có triệu chứng
kèm theo. Trong đó, triệu chứng mệt mỏi thường gặp nhất (chiếm 54,7%).
Các triệu chứng khác có thể gặp là đau ngực, mắt nhìn mờ, tê tay chân, rối
loạn giấc ngủ... Có 5/159 bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng gợi ý mà
do tình cờ phát hiện ra. Trong bệnh đái tháo đường, tiến triển bệnh thường
âm thầm, khi có biểu hiện trên lâm sàng bệnh thường đã ở giai đoạn muộn.
Như vậy, không thể chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán phát

hiện bệnh. Đối với bệnh đái tháo đường, xét nghiệm glucose máu cần được
xem là một xét nghiệm cơ bản,
* Một số biến chứng
Theo (bảng 3.6 và 3.7), tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng
trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 67,9%. Trong đó, biến chứng tim mạch
là 43,5%, biến chứng thần kinh 13,0%, biến chứng ở mắt 8,3%; các biến
chứng khác . . . 35,2%. Tỷ lệ các biến chứng tăng theo tuổi và tăng theo thời
gian mắc bệnh của bệnh nhân. Nếu như ở nhóm tuổi (40 – 49) số bệnh nhân
có biến chứng là 52,2% so với số người trong nhóm mắc bệnh thì tỷ lệ này là
57,6% ở nhóm tuổi (50-59); 75,5% ở nhóm tuổi (60 – 69) và rất cao ở nhóm
tuổi trên 70, chiếm 95,7%.
Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch. Người ta
cho rằng đây là một quá trình xảy ra lâu dài và liên tục với hai yếu tố xơ vữa
mạch và tăng huyết áp. Chúng vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, thúc
đẩy nhau tiến triển.
Tăng huyết áp ở người mắc bệnh đái tháo đường do rất nhiều yếu tố
phối hợp với nhau. Người bệnh đái tháo đường khi có tăng huyết áp đều làm
tiên lượng bệnh xấu đi rõ rệt. Theo (bảng 3.8) tăng huyết áp độ I chiếm
27,0%; tăng huyết áp độ II 6,9% và tăng huyết áp độ III 3,8%. Bệnh nhân
đái tháo đường có tăng huyết áp đều được phát thuốc ngoại trú điều trị tăng
huyết áp. Có thể vì điều này mà đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là
tăng huyết áp độ I.
Nghiên cứu của Đào Thị Dừa cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân
đái tháo đường là 50% [4]. Trương Văn Sáu cho kết quả tỷ lệ tăng huyết áp
38,3% và tỷ lệ này tăng lên theo thời gian phát hiện bệnh [15]. Theo nghiên
cứu của Tạ Văn Bình 27,6% bệnh nhân đái tháo đường có tăng huyết áp [1].
Theo Phạm Thị Lan tỷ lệ này là 37,4% [8]. Nghiên cứu của Võ Bảo Dũng
cho thấy bệnh nhân đái tháo đường được kiểm soát huyết áp ở mức kém
43,9%, mức chấp nhận chiếm 25,2% và mức tốt chiếm 30,9% [5].
Theo Liên uỷ ban quốc gia lần thứ 7 (JNC VII) đã đưa ra khuyến cáo,

đối với những bệnh nhân đái tháo đường có tăng huyết áp trong điều trị phải
đạt mục tiêu huyết áp dưới 130/80 mmHg. Có 37,7% bệnh nhân của chúng
tôi có huyết áp được phân loại là cao huyết áp. Theo khuyến cáo của JNC
VII, đây đã là mức huyết áp nguy hiểm. Nếu tăng huyết áp được can thiệp, có


- 19 thể ngăn ngừa hoặc làm chậm sự tiến triển và biến chứng cho cả bệnh mạch
máu. Có tác giả còn cho rằng việc kiểm soát huyết áp ở người đái tháo
đường thậm chí còn quan trọng hơn cả kiểm soát glucose máu [1]. Do đó,
trong điều trị bệnh đái tháo đường cần lưu ý đến vấn đề quản lý tốt huyết áp
của bệnh nhân và phải có thái độ điều trị đúng đắn ngay ở mức huyết áp bình
thường cao (tiền cao huyết áp).
Hiện nay, để phát hiện các tổn thương thận, cần tầm soát bằng việc làm
các xét nghiệm phát hiện đạm trong nước tiểu. Nhưng khi xét nghiệm protein
niệu âm tính cũng không cho phép kết luận chắc chắn bệnh nhân không có tổn
thương thận. Khi đó cần xét nghiệm microalbumin niệu để chẩn đoán sớm
hơn tổn thương thận, từ đó có biện pháp điều trị tích cực hơn làm giảm số
bệnh nhân tiến triển đến suy thận. Thực tế, tại Bệnh viện Đa khoa T u y
A n , chưa có điều kiện triển khai xét nghiệm microalbumin niệu.Về tổn
thương thận chưa được đánh giá cụ thể.37,7%
Bệnh lý thần kinh đái tháo đường cũng là biến chứng thường gặp, với
tổn thương đặc hiệu nhất là tổn thương thần kinh ngoại vi. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có biến chứng thần kinh là 13,0%. Theo nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thu Minh, biến chứng thần kinh là 10,8% [12]. Nghiên
cứu của Trương Văn Sáu cho thấy biến chứng thần kinh chiếm 9% [14]. Sự
khác nhau này là tuỳ thuộc vào độ tuổi và thời gian mắc bệnh của bệnh nhân.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tuổi càng cao, thời gian mắc bệnh càng lâu
thì càng tăng nguy cơ biến chứng thần kinh.
Ngoài các biến chứng trên, bệnh nhân đái tháo đường còn gặp rất nhiều
biến chứng khác như biến chứng mắt, hô hấp, răng lợi, da … Tuy nhiên, trong

nghiên cứu của chúng tôi tần suất xuất hiện các biến chứng này không nhiều.
Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn trong các nghiên cứu tiếp theo.
4.1.2. Đặc điểm cận lâm sàng
Đái tháo đường thường đi kèm với rối loạn nồng độ lipid và lipoprotein
máu cũng như rối loạn về chất lượng các lipoprotein, đây cũng là yếu tố chính
gây xơ vữa động mạch. Thiếu insulin và tình trạng kháng insulin là cơ chế
chính đưa đến rối loạn lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường. Đặc điểm nổi
bật là tăng cholesterol toàn phần, tăng hàm lượng triglycerid, tăng LDC - C và
giảm HDL .
Nghiên cứu của chúng tôi chưa thực hiện kiểm soát được rối
loạn một hoặc nhiều thành phần lipid máu Đặc điểm nổi bật là cholesterol
toàn phần, hàm lượng triglycerid, LDC . Vì vậy,có điều kiện phải đồng thời
định lượng nhiều chỉ số và theo dõi thường xuyên hoặc định kỳ để phát hiện
sớm những rối loạn lipid máu, dự phòng tốt hơn biến chứng bệnh đái tháo
đường. Nhưng điều kiện bênh viện Tuy An trước tháng 8/2012 chưa có trang
bị xét nghiệm sinh hóa đầy đủ như tầm soát hàm lượng triglycerid, tăng LDC C và giảm HDL
Theo bảng số liệu (3.9) và (3.10), kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy, chỉ số glucose máu trung bình của các nhóm tuổi đều cao nhưng nhóm
tuổi từ 40 - 49 cao nhất. So sánh với tiêu chí kiểm soát glucose máu của
WHO thì glucose máu trung bình nằm ở mức kiểm soát kém. Trong 159


- 20 bệnh nhân, kiểm soát glucose máu ở mức tốt chỉ có 12,6%, mức chấp nhận
17,0% và còn 70,4% ở mức kiểm soát kém. Theo Võ Bảo Dũng nghiên cứu
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định cho kết quả kiểm soát glucose máu
lúc đói đạt mức tốt 7,6%, mức chấp nhận 17,7%, mức kém 74,7% [05]. Lý
Thị Thơ nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang thấy kiểm soát
glucose máu ở mức tốt chiếm 31,8%, mức chấp nhận 27,9%, mức kém 40,3%
[10]. Nghiên cứu của chúng tôi có sự phù hợp với kết luận về quản lý bệnh
đái tháo đường trong nghiên cứu của các tác giả nêu trên: đó là số người

bệnh kiểm soát glucose máu ở mức kém và chấp nhận chiếm tỷ lệ cao.
Kiểm soát glucose máu chặt chẽ, quan trọng là càng đưa glucose máu
về gần với giá trị bình thường bao nhiêu thì càng kiểm soát được các biến
chứng bấy nhiêu.
Tỷ lệ sử dụng thuốc cho bệnh nhân đái tháo đường khá cao. Chủ yếu
thuốc điều trị ngoại trú đơn thuần với một trong hai loại thuốc: Diapro,
Pymetphage
4.2. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
* Chỉ số khối cơ thể và chỉ số bụng mông
Nhiều tác giả nghiên cứu trong và ngoài nước đều kết luận: béo phì,
đặc biệt béo phì trung tâm là yếu tố nguy cơ cao của bệnh đái tháo đường týp
II. Tỷ lệ bệnh đái tháo đường cao ở những người bị béo, ở những người béo
trung bình, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên 4 lần, nếu béo mức độ nặng thì tỷ lệ mắc
bệnh tăng gấp 30 lần so với người bình thường.
Theo (bảng số 3.12) cho thấy đa số bệnh nhân đái tháo đường có thể
trạng thừa cân và béo phì (BMI  23), chiếm tỷ lệ 45%; tương đối phù hợp
với một số nghiên cứu khác. Trần Hữu Dàng, tỷ lệ bệnh nhân thừa cân và
béo phì chiếm 63,7% [15]. Nghiên cứu của Phạm Thị Lan thấy số bệnh nhân
thừa cân và béo phì cao nhất, chiếm tỷ lệ 46,8% [8]. Tuy nhiên, các kết quả
này thấp hơn nhiều so với các nước phương Tây, có thể do sự khác biệt về
thể trạng của người châu Á, về điều kiện kinh tế cũng như về thói quen ăn
uống, hoạt động thể lực.
Trong nghiên cứu này chúng tôi mới chỉ bước đầu tìm hiểu một số yếu
tố liên quan đến bệnh. Thiết kế nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu mô tả
vì vậy việc đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố liên quan với bệnh đái
tháo đường có phần nào hạn chế. Để khẳng định chắc chắn cần có một nghiên
cứu dịch tễ học rộng rãi trên phạm vi toàn tỉnh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy
vai trò quan trọng của hệ thống quản lý bệnh, phát hiện sớm để can thiệp
và vai trò to lớn của công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ trong phòng
chống bệnh đái tháo đường.



KẾT LUẬN

- 21 -

Qua kết quả nghiên cứu 159 bệnh nhân, chúng tôi rút ra một số kết
luận sau:
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sang và sử dụng thuốc ở bệnh nhân đái
tháo đường điều trị tại Bệnh diện Đa khoa huyện Tuy An:
- Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 58,41 ± 10; bệnh nhân trên
50 tuổi chiếm 82,4%, nhiều nhất là nhóm tuổi 50 - 59 (37,1%).
- Đối tượng nghiên cứu là cán bộ hưu là 17% ; làm ruộng 46,5%; các nghề
nghiệp khác là 20,8%.
- Thời gian phát hiện bệnh từ 1 - 5 năm 54,7%.
- Triệu chứng lâm sàng thường gặp: uống nhiều 72,3%, đái nhiều 69,2%,
gầy sút cân 54,7%, ăn nhiều 41,5%.
- 67,9% đối tượng nghiên cứu có biến chứng; tỷ lệ một số biến chứng:
tim mạch 43,5%, thần kinh 13,0%, mắt 8,3% và một số biến khác 35,2%.
- Kiểm soát glucose máu ở mức tốt 1 2 , 6 %, chấp nhận 1 7 , 0 %,
kém 70,4%, mức kiểm soát kém cao ở đối tượng nghiên cứu làm ruộng
(31,4%).
- Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường:Thể trạng thừa cân và
béo phì chiếm 45,0%.

KIẾN NGHỊ
- Trong ngành y tế cần tăng cường tư vấn, điều trị ngoại trú tốt để bệnh
nhân tuân thủ đúng chế độ điều trị ngoại trú, hạn chế tình trạng không kiểm soát
được glucose máu.
- Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có nghề nghiệp làm ruộng tương đối cao,

vì vậy cần phải tăng cường truyền thông giáo dục kiến thức chung về bệnh đái
tháo đường cho đối tượng này trong cộng đồng nhằm phát hiện sớm, điều trị
kịp thời và hạn chế biến chứng của bệnh.
- Phổ rộng các kênh truyền thông về sức khoẻ, tuyên truyền cho người dân
nhận thức về khám sức khỏe định kỳ, đặc biệt là kiểm tra hàm lượng đường
máu.
- Cơ sở y tế tuyến huyện cần có đầy đủ thiết bị và hóa chất để đánh giá 04
chỉ số sinh hóa máu có liên quan có liên quan đến bệnh đái tháo đường như:
cholesterol, Triglyxerit, LDL-cholesterol, HDL-cholesterol. Tạo điều kiện thuận
lợi cho việc dự phòng và có biện pháp đối phó kịp thời các biến chứng của bệnh
đái tháo đường ./.


- 22 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Văn Bình và cộng sự (2007), “Kết quả điều tra đái tháo đừng và rối loạn dung nạp
đường huyết ở đối tượng có nguy cơ cao tại Phú Thọ, Sơ la, Thanh hóa và Nam Định”
Hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thức 3 trang 825
đến trang 837.
2/ Bộ môn nội trường Đại học y Hà Nội (2005), “Bệnh đái tháo đường”, Bệnh học nội khoa
sau Đại học. trang 214-229.
3/ Bùi Thế Bừng (2004), Nghiên cứu hàm lượng một số thành phần lipip máu và mối lien
quan với biến chứng nãm tính thường gặp sở bệnh đái tháo đường tiếp II.
4/ Đào thị Dừa, Nguyễn Hải Thủy (2008) “Nghiên cứu chất lượng sống bệnh nhân đái tháo
đường”, Tạp chí Y học thực hành ( 616 +617), trang 349-357.
5/ Võ Bão Dũng (2008), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sang, cận lâm sang và kết quả
điều trị bệnh nhân đái tháo đường tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định”
6/ Tô Văn Hải, Lê Thu Hà (2006) “ Rối loạn Lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường điều trị
nội tại khoa nội tiết Bệnh viện Thanh Nhàn- Hà Nội. Tạp chí Y học thực hành (548),

trang 158-164.
7/ Trần Văn Hiên, tạ Văn Bình và cộng sự (2007), “Nghiên cứu rối loạn Lipid máu ở bệnh
nhân đái tháo đường týp II lần đầu được phát hiện tại bệnh viện nội tiết Trung ương” Hội
nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thức 3 trang 66 đến
trang 669.
8/ Phạm Thị Lan (2009), “Đánh giá tổn thương thận ở bệnh đái tháo đường týp II điều trị tại
khoa nội tiết Bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên, khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa
khoa Trường đại học Y dược Thái nguyên.
9/ Triệu Quang Phú (2006), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàn và sự thay đổi hàm lượng thành
phần Lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường týp II tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn”
Luận văn thạc sĩ y học , Trường đại học Y dược Thái nguyên
10/ Lý thị Thơ (2005) , “ Nghiên cứu thực trạng bệnh đái tháo đường tại Bệnh viện đa khoa
tỉnh Tuyên Quang, luân văn thạc sĩ y học, Trường đại học Y khoa Thái nguyên.
11/ Hoàng Kim Ước và cộng sự (2007) “Thực trạng bệnh đái tháo đường và rối loạn dung
nạp đường huyết ở các đối tượng có nguy cơ cao tại thành phố Thái Nguyên năm 2006”
Hội nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thức 3 trang 667
đến 693.
12/ Nguyễn Thu Minh, Vũ Kim Hải, Nguyễn Kim Lương (2003), “Nghiên cứu một số
biến chứng mạn tính thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Đa
khoa Trung ương Thái Nguyên”, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ II, tr. 73-79.
13/ Hoàng Thị Đợi, Nguyễn Kim Lương (2007), "Nghiên cứu thực trạng bệnh đái tháo
đường týp 2 đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên", Hội
nghị khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hoá lần thứ 3, tr. 900-911.
14/ Trương Văn Sáu (2007), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu
tố liên quan trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc
Giang, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.
15/ Trần Hữu Dàng, Trình Vĩnh Tiến (2006), “Ảnh hưởng của thể trọng lên nồng độ axít
uric máu trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2”, Tạp chí y học thực hành, (548), tr. 406410.
16/ Tạ Văn Bình (2006), Dịch tễ học bệnh đái tháo đường ở Việt Nam– Các phương pháp
điều trị và biện pháp phòng chống, Nxb Y học, Hà Nội.



- 23 -



×