Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.22 KB, 15 trang )

A: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề xuất Sáng kiến kinh nghiệm:
Xuất phát từ đặc điểm tình hình chung của học sinh lớp 1: Các em chuyển từ
hoạt động vui chơi là chính sang hoạt động học tập, sẽ gò bó hơn về thời gian, bị
ràng buộc chặt chẽ bởi các nội quy – quy định của lớp học; đặc biệt các em hoàn
toàn lạ lẫm với trường lớp, bạn bè và thầy cô giáo.
Lần đầu tiên cắp sách đến trường với bao bỡ ngỡ, chắc chắn rằng cả cha mẹ,
thầy cô cũng như chính bản thân các em đều rất mong mình học được nhiều, biết
được nhiều. Dù người lớn chúng ta mong mỏi ở trẻ những điều hết sức sơ đẳng:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”
Nhưng những cái “biết” ấy luôn phải nằm trong khuôn khổ được xã hội cho
phép. Tất cả chúng ta không ai có thể tự ý đi ra ngoài những nguyên tắc, chuẩn
mực cơ bản của cuộc sống. Trẻ em lại càng không thể. Tương lai, sự trường tồn và
phát triển của mỗi đất nước, mỗi dân tộc luôn phụ thuộc vào thế hệ trẻ: “ Con trẻ
là cái mầm, cái búp của cả dân tộc. Con trẻ có được nuôi dưỡng, giáo dục hẳn hoi
thì dân tộc mới có thể tự cường tự lập.”
(Trích “Trẻ em Việt Nam”- Hồ Chí Minh 1942 ).
Chính vì lý do đó, ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, Đảng và Nhà nước ta
đều giành sự quan tâm đặc biệt chu đáo cho trẻ thơ.
Với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thấm nhuần lời dạy của chủ tịch Hồ
Chí Minh:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em, coi
đây là sự nghiệp cao quý, là trách nhiệm to lớn đối với thế hệ tương lai, là tiền đề
của dân tộc, của đất nước.
Hơn ai hết, người Giáo viên chủ nhiệm nói riêng, và nhà giáo nói chung
phải thấy được trọng trách của mình trong sự nghiệp trồng người. Làm sao cho học
sinh yêu thích học tập và hăng hái tham gia các hoạt động tập thể; làm cho các em
cảm thấy trường học là ngôi nhà thứ hai của mình và mỗi ngày đến trường của các


em thực sự là một ngày vui.
Từ những lý do trên, tôi xin mạnh dạn nêu một số kinh nghiệm mà bản thân
tôi đã thực hiện trong một số năm học gần đây về công tác chủ nhiệm lớp:
“Một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 1 Trường TH Nguyễn Tri Phương – Tp Kon Tum"
1


2. Mục đích của Sáng kiến kinh nghiệm:
Công tác chủ nhiệm lớp là công tác rất quan trọng trong Nhà trường. Vấn đề
này từ trước tới nay đã được rất nhiều giáo viên quan tâm bởi nó góp phần tích cực
trong việc nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện nề nếp, thói quen học tập của
học sinh. Đặc biệt đối với bậc Tiểu học thì công tác chủ nhiệm lớp càng quan trọng
hơn bao giờ hết, bởi người giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà
còn phải quan tâm đến sự phát triển của các em về mọi mặt. Muốn vậy các em cần
được hình thành từng bước trong mọi hoạt động ở lớp, từ nề nếp học tập, ý thức kỷ
luật, thái độ giao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong gia đình và ngoài xã hội...rất nhiều
điều cần quan tâm, mà mảng học tập là một mảng lớn trong giai đoạn các em đang
ngồi trên ghế nhà trường. Chính vì vậy, muốn cho các em có nề nếp trong học tập
cũng như trong sinh hoạt, biết ngăn nắp, gọn gàng, khoa học trong từng hoạt động,
người giáo viên phải uốn nắn, rèn giũa cho các em ngay từ khi bước chân vào
ngưỡng cửa Nhà trường. Nếu ngay từ lớp 1, các em được rèn nề nếp một cách
nghiêm túc và có hiệu quả thì ở các lớp sau các em cũng sẽ là những học sinh có nề
nếp học tập tốt, tạo nền tảng vững chắc cho các em trong việc học tập ở các lớp trên
và tạo tiền đề cho việc rèn luyện, phấn đấu thành người công dân có ích cho đất
nước sau này.
Công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học nhằm giúp học sinh :
- Có hiểu biết về một số chuẩn mực hành vi đạo dức và pháp luật phù hợp
với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường,
cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo chuẩn mực đạo
đức đó.

- Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và
những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kỹ năng lựa chọn và thực hiện
các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn
giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện .
- Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con
người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.
- Từng bước giúp học sinh khám phá và tìm hiểu kiến thức và kỹ năng cơ
bản phù hợp với trình độ, lứa tuổi của học sinh .
3. Cơ sở và đối tượng của SKKN:
a. Đối tượng:
- HS lớp 1A, trường TH Nguyễn Tri Phương – TP Kon Tum.
- Một số biện pháp rèn nề nếp cho học sinh lớp 1, nhắm làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp, góp phần nâng ao chất lượng – hiệu quả giáo dục.
b. Cơ Sở lý luận
2


b1.Đặc điểm tâm lý và nhận thức của học sinh lớp 1 .
- Học sinh lớp 1 còn rất non nớt, các em sống trong những gia đình có hoàn
cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận thức và thói quen giao tiếp, ứng xử
cũng khác nhau. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước và đặc biệt thích được
thể hiện và được khen nhiều. Chuyển từ mẫu giáo lên học lớp 1, các em cũng có
những ý thức nhất định .
b2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách,
phát triển tư duy và nhận thức của học sinh.
Giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách, phát triển tư duy và nhận thức của
học sinh là mục tiêu và là nhiệm vụ hàng đầu của trường phổ thông. Giáo dục đạo
đức phải làm ngay từ nhỏ, càng sớm càng tốt, nhưng phải phù hợp với trẻ. Bởi lẽ :
Tuổi thơ trong trắng dễ hấp thụ cái mới, thích chinh phục những cái lạ. Những điều
răn dạy ban đầu đến với trẻ bao giờ cũng in dấu ấn sâu đậm nhất. Trong tâm trí trẻ

nếu không có giáo dục sớm, trẻ cũng tiếp thu một cái gì đó ngoài dự kiến của chúng
ta. Những cái đó nếu là điều sai trái, việc giáo dục lại sẽ là khó khăn gấp bội.
Với hào hứng được tiếp thu cái mới lạ trong hoạt động học tập giúp các em
có thể tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và kiến thức ở dạng hành vi cụ thể không
quá khó khăn, từ đó làm nẩy nở những tình cảm, thói quen đạo đức và những tư
duy của các em. Và nếu chúng ta không quan tâm giáo dục ở thời điểm này thì đó
là điều sai lầm mà chính chúng ta là người đầu tiên phải gánh chịu hậu quả đó .
4. Phạm vi thực hiện:
- Năm học 2013 – 2014.
Trong khuôn khổ của sáng kiến này, tôi xin báo cáo các kinh nghiệm đã được
đúc kết và vận dụng từ những năm học trước vào lớp 1A (năm học 2013-2014).
B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Quá trình thực hiện:
a. Khảo sát thực tế:
a.1.Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện.
Năm học 2013 – 2014, lớp 1A do tôi chủ nhiệm, ở thời điểm đầu năm học có
31 HS, trong đó: Nam 19 – Nữ 12. Đến tháng 12/2013 chuyển đến 01 em, đưa sĩ
số lên 32 HS: Nam 20, nữ 12. Phần lớn các em cùng độ tuổi đã qua lớp mẫu giáo 5
tuổi nên đa số đã nhận được mặt chữ cái và chữ số. Song bên cạnh đó vẫn còn một
số em tiếp thu chậm chưa thuộc hết 29 chữ cái và đều xuất thân là con em nông
dân. Các em còn quá nhỏ, mải chơi, nhiều em rất hiếu động chưa ý thức được việc
học tập của mình nên lớp học chưa có nề nếp.
a.2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
3


Học tập
Tốt

Kỉ luật


Chưa tốt

Tốt

Vệ sinh
Chưa

Tốt

Chưa tốt

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

12

38,7

19

61,3

15

48,4

16

51,
6

20

64,
5

11


35,5

Nhìn chung lớp học chưa có nề nếp, chưa có ý thức tự quản. Một số em còn
mải chơi, như: Gia Bảo; Việt Hoàng, Văn An, Vĩnh Ngọc, Thùy Trâm, Thành Lợi...
b. Những biện pháp thực hiện. (Nội dung chủ yếu của đề tài)
b.1. Đối với giáo viên Chủ nhiệm:
Cần hướng dẫn học sinh kỹ càng tỉ mỉ ngay từ ngày đầu nhận lớp.
Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 1 còn rất bé, còn bỡ ngỡ, sợ sệt khi mới
bước chân vào “Trường Tiểu học”. Chính vì thế mà ngay từ ngày đầu nhận lớp tôi
đã đóng vai trò vừa là cô giáo, vừa là người mẹ, người chị, người bạn lớn để dìu dắt
nâng đỡ các em, giúp các em thích nghi với môi trường mới để học tập và rèn
luyện tốt hơn.
- Tôi đã từng bước thăm dò để nắm bắt được nơi ở cũng như hoàn cảnh gia
đình, đặc điểm cá tính của từng em, từ đó có những biện pháp giáo dục tích cực,
phù hợp với từng em, nhất là một số em có hoàn cảnh khó khăn.
- Tôi luôn tạo ra sự gần gũi với các em trong học tập cũng như trong giao
tiếp, vui chơi để phát hiện khả năng nhận thức tư duy ở mỗi em. Tôi thường xuyên
theo dõi để phát hiện học sinh nào tích cực chăm học, học sinh nào nhút nhát và
học sinh nào còn nói dối.....Với những em nhút nhát, tôi thường động viên các em
bằng những lời nói nhẹ nhàng, bằng lời khen khi các em chăm học. Với những em
còn nhút nhát, chưa có thói quen học tập..., tôi kiên nhẫn giảng giải để các em hiểu
được, không hoàn thành bài học là một tật xấu mà các em phải tránh.
- Ngay từ đầu năm học, tôi luôn chăm lo tổ chức xây dựng lớp thành một tập
thể tự quản tốt. Thành lập đội ngũ Cán sự lớp là việc làm không thể thiếu trong
công tác chủ nhiệm lớp. Đội ngũ Ban cán sự của lớp tôi gồm có: 1 lớp trưởng, 2 lớp
phó, 3 tổ trưởng. Tôi phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em. đồng thời có kế
hoạch bồi dưỡng về ý thức đạo đức, về cách quản lí lớp... để các em trở thành
những tấm gương sáng cho các bạn khác noi theo.
- Bước vào học lớp 1, các em chưa viết được nên đầu năm học tôi phát cho các
em thời khoá biểu, hướng dẫn các em mang về dán ở góc học tập. Tại lớp, trong

từng môn học tôi hướng dẫn kỹ càng về cách chuẩn bị, sắp xếp sách vở, đồ dùng
học tập cho từng môn. Các em có thể nhận biết các loại sách vở qua màu sắc, hình
ảnh ở ngoài bìa và nội dung bài học của từng ngày. Đồ dùng học tập của các em
tôi yêu cầu ngay từ đầu năm học mỗi em có hai bút chì đã gọt đầu, tẩy, chuốt,
4


thước, bộ đồ dùng học Toán và Tiếng Việt, đến đầu HK II học sinh phải có thêm
bút mực nữa.
Đồng thời qua buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi nêu yêu cầu kết hợp giữa
giáo viên ở lớp và phụ huynh ở nhà trong việc hướng dẫn các em chuẩn bị sách vở,
dụng cụ học tập cho buổi học hôm sau.
Những công việc này học sinh cần thực hiện một cách cụ thể và đều đặn. Để
học sinh không quên việc chuẩn bị sách vở cho ngày hôm sau, bao giờ tôi cũng
giao việc về nhà: đọc lại phần bài vừa học, sau đó các em sẽ phải chuẩn bị sách vở
(cùng với sự giúp đỡ của cha mẹ học sinh). Hàng ngày các em đều qua sự kiểm tra
của Cán sự lớp trong 15 phút sinh hoạt đầu buổi về việc chuẩn bị sách vở đồ dùng
học tập, từ đó giáo viên chủ nhiệm nắm được cụ thể từng ngày thực hiện của các
em. Như vậy việc đọc lại bài đã trở thành việc nhắc nhở các em phải chuẩn bị sách
vở cho hôm sau mà các em không quên được.
- Việc học sinh ôn lại bài học ở nhà và chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học
tập, rất cần thiết cho việc xây dựng nề nếp học tập của các em. Việc này cần trở
thành một thói quen, một phần không thể thiếu của ngày đi học. Có như vậy mới
phát huy tác dụng trong việc rèn các em vào nề nếp trong học tập. Công tác này
giáo viên cũng cần kiểm tra thường xuyên (thông qua các Cán sự lớp) để các em ý
thức được việc học tập của mình. Đồng thời tôi cũng luôn rèn luyện tác phong giờ
nào việc ấy tạo ấn tượng tốt cho học sinh; luôn trau dồi kiến thức, xây dựng các giờ
học mẫu mực, vui vẻ nhẹ nhàng mà hiệu quả giúp học sinh thêm hứng thú trong
học tập.
Trong từng tiết học, mục đích của giáo viên là đảm bảo chất lượng dạy và

học; học sinh thực sự "học mà vui, vui mà học", không khí học tập không căng
thẳng mà sôi nổi, vui trong sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh phải có nề nếp
trong học tập của từng môn. Do vậy người giáo viên phải thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy, nghiên cứu tích cực vận dụng các kỹ thuật dạy học mới đã
được tiếp thu trong dịp bồi dưỡng chuyên môn đầu năm học, gây hứng thú học tập
cho học sinh để việc học tập trở thành niềm vui, tạo không khí học tập phấn khởi
hăng say cho học sinh. Có như vậy các em mới có hứng thú trong học tập, đồng
thời giáo viên vẫn đảm bảo việc duy trì nề nếp cho học sinh trong học tập.
b.2. Tổ chức xây dựng các nề nếp cho học sinh.
Ngay từ đầu năm tôi đã hướng dẫn thật tỉ mỉ để các em thực hiện tốt các nề
nếp mà Nhà trường đã qui định như: cách chào hỏi, xếp hàng ra vào lớp; thói quen
sinh hoạt 15 phút đầu mỗi buổi học…. Tôi không phó mặc sự quản lí lớp cho đội
ngũ Cán sự lớp mà đã cùng các em (ở những tuần đầu) đôn đốc, nắm bắt tình hình
để kịp thời hình thành thói quen, nề nếp cho lớp.
5


Để dạy một tiết học đủ thời gian (40 phút đối với môn Toán, Tiếng Việt và
30-35 phút đối với các môn học khác theo chỉ đạo của Nhà trường) thật khoa học,
hiệu quả tôi đã đưa các em vào nề nếp, yêu cầu các em làm theo hiệu lệnh của
mình.
Ví dụ: + Tôi qui định các kí hiệu khi sử dụng đồ dùng học tập: B: bảng; V:
vở; S: sách; G: Ghép bảng cài và tín hiệu giơ bảng con, đọc bài cá nhân, tổ, cả
lớp .v.v...
+ Trong giờ Học vần, khi đánh vần, đọc trơn tôi chỉ từng chữ ghi âm hay cả
tiếng - từ. Khi yêu cầu học sinh phân tích tiếng, tôi đặt ngang thước dưới tiếng, từ
cần phân tích. Học sinh thực hành nối tiếp theo dãy, theo nhóm, cả lớp...
- Trong tiết học, khi cần phát biểu, tôi hướng dẫn học sinh cách giơ tay phát
biểu như: chống khuỷu tay trái xuống bàn, giơ thẳng, bàn tay khép lại. Không nói
leo, gây ồn ào trong giờ học.

- Việc sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập cũng ảnh hưởng tới chất lượng học
tập của các em. Vì thế ngay trong từng tiết học tôi đã hướng dẫn các em cách sắp
xếp đồ dùng sách vở cho khoa học để thao tác cho thuận tiện theo yêu cầu của GV
trong tiết học.
- Kỹ thuật cầm viết, cách để tay khi viết, khoảng cách giữa mắt với sách vở
khi đọc, viết; cách cầm sách khi đọc và tư thế ngồi học cũng ảnh hưởng rất lớn đến
thói quen, sức khỏe và kết quả học tập của học sinh. Vì nếu giáo viên không quan
tâm và thường xuyên nhắc nhở uốn nắn, lâu ngày các em sẽ có thói quen không
đúng dẫn đến các bệnh học đường. Chính vì thế tôi đã thường xuyên nhắc nhở các
em ngồi học đúng tư thế để góp phần tránh các bệnh học đường.
- Rèn thói quen học tập ở nhà cũng là một việc rất quan trọng trong việc hình
thành nề nếp học tập cho học sinh lớp 1. Tuy các em đã được học 2 buổi trên ngày,
kiến thức của các môn học đã được hoàn thành ngay trên lớp nhưng chúng ta vẫn
cần rèn cho các em thói quen tự học và soạn sách vở, đồ dùng học tập. Điều này tôi
đã trao đổi và thống nhất với cha mẹ học sinh qua buổi họp đầu năm.
Hằng ngày đến lớp tôi thường xuyên gần gũi, chuyện trò ân cần với các em.
Tôi dạy cho các em biết ăn ở sạch sẽ, biết đoàn kết giúp đỡ bạn, biết sống trung
thực, thật thà. Trong lớp, tôi xây dựng các mô hình đôi bạn học tập như: "Đôi bạn
cùng tiến", "Đôi bạn vượt khó" ...tôi xếp những em hiếu động ngồi cạnh những em
ngoan để các em dễ noi gương và học tập bạn mình. Đối với những em học kém tôi
tranh thủ thời gian để kèm riêng trong những giờ giải lao, giờ sinh hoạt đầu
buổi..... Đối với những em giỏi, tôi có kế hoạch bồi dưỡng và tăng cường lượng bài
tập khó, giúp các em phát huy hết khả năng của mình, góp phần đưa chất lượng
giáo dục của Nhà trường ngày một cao hơn.
Song song với các hoạt động học tập, tôi còn tổ chức cho các em vui chơi
giải trí, rèn luyện sức khoẻ qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động này
6


giúp các em sảng khoái tinh thần, mở mang trí tuệ, tăng cường sức khoẻ, làm cho

các em thêm yêu trường lớp, yêu bạn bè thầy cô giáo và mọi người xung quanh. Vì
vậy tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí văn nghệ là yêu cầu không thể thiếu
đối với học sinh Tiểu học.
- Việc duy trì nề nếp đi học chuyên cần của học sinh cũng rất quan trọng, nó
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Ngoài việc
hướng các em vào các hoạt động, hướng dẫn các em các trò chơi, tạo cho các em
hứng thú – thích tới trường, cuối mỗi ngày học tôi đã dành khoảng thời gian từ 5-7
phút, chọn kể hoặc đọc cho các em nghe các câu chuyện có những tình tiết ly kỳ,
phiêu lưu mạo hiểm như: Tôm chíp; Bí mật hồ cá thần...(Nhóm sách trong Tủ sách
vàng – NXB Kim Đồng năm 2004), nhưng đến chỗ ly kỳ thì dừng lại và hẹn sẽ đọc
tiếp, kể tiếp vào ngày mai. Cứ như thế các em hồ hởi đến trường được vui cùng các
bạn, được chơi các trò chơi các em yêu thích và lại được nghe đọc tiếp kể tiếp
những câu chuyện hấp dẫn một cách hồn nhiên. Bằng cách làm trên, thời gian qua
lớp 1A của tôi đã không có tình trạng học sinh vắng học tùy tiện, thiếu lý do; các
em rất tích cực đến lớp.
b.3.Tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các nề nếp .
- Thời gian đầu, hàng ngày tôi cùng với Ban cán sự lớp kiểm tra từng em.
Khi đã thành nề nếp rồi, tôi giao việc kiểm tra cho Ban cán sự lớp. Giờ sinh hoạt
đầu buổi, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của các bạn, như: soạn sách
vở, đồ dùng học tập đầy đủ theo đúng thời khoá biểu, ý thức xem trước bài mới rồi
tổ trưởng chấm điểm vào sổ thi đua tổ, sau đó tổng hợp kết quả và báo cáo với lớp
trưởng.
Cuối mỗi tuần, vào giờ sinh hoạt, tôi đã kiểm điểm cụ thể. Tổ nào, cá nhân
nào tốt sẽ được khen, biểu dương và có phần thưởng nhỏ động viên kịp thời bằng
những món quà nhỏ: Khi thì cây bút chì, lúc thì cục tẩy, hoặc cây thước, cái nhãn
vở .v.v. Còn em nào hay quên đồ dùng, sách vở hoặc không học bài cũ thì tôi sẽ
nhắc nhở, rút kinh nghiệm trước lớp trong buổi sinh hoạt lớp. Nếu nhiều lần không
sửa chữa, giáo viên sẽ trực tiếp trao đổi với phụ huynh biết để kịp thời đôn đốc các
em thực hiện tốt các nề nếp học tập.
b.4. Kết hợp với giáo viên bộ môn và phụ huynh học sinh:

*. Kết hợp với giáo viên bộ môn:
Ngay từ khi học sinh bước vào lớp 1, ngoài cô giáo chủ nhiệm lớp, các em
còn được học các thầy, cô giáo bộ môn như: Hát nhạc, Mỹ thuật, Thể dục…nên
việc rèn nếp cho học sinh là rất cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo
viên bộ môn để cùng rèn nề nếp cho học sinh từ tư thế ngồi, cách cầm bút, cách
7


phát biểu…Nếp này phải được rèn thường xuyên nhắc nhở để các em tạo thói quen
và trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học tập ở những lớp trên.
Thời gian đầu, giáo viên bộ môn còn rất ngại và sợ mất thời gian, tôi đã phân
tích với các đồng chí giáo viên bộ môn và đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của họ
cho nên nề nếp học tập của các em ở lớp tôi được xuyên suốt và trở thành thói quen
hàng ngày. Các đồng chí giáo viên bộ môn cũng rất hài lòng và rất vui khi các em
đã thật sự vào nề nếp, giáo viên chỉ việc giảng dạy và không phải tốn quá nhiều
thời gian trong việc ổn định tổ chức trước mỗi tiết học.
*Kết hợp với phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra
yêu cầu để phụ huynh cùng phối hợp rèn nề nếp cho con em họ, như:
- Hằng ngày, kiểm tra sách vở của các em.
- Nhắc nhở con học và làm bài tập cô giao.
- Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con theo thời khoá biểu.
- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.
- Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, tránh tình trạng vừa học vừa chơi.
- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập của
con qua điện thoại hoặc qua sổ liên lạc.
b.5. Nêu gương, khích nệ và khen thưởng:
Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động
viên, nên tôi hướng dẫn tổ trưởng lập bảng chấm thi đua theo các mặt sau:
THEO DÕI THI ĐUA, TUẦN: …………..
Từ:


/

Đến:

/

/20…

Học tập
STT

Họ và tên

Đồ dùng

Chuẩn bị bài

HT tốt YC

Kỷ luật

Vệ sinh

T2 T3 T4 T5 T6 T2 T3 T4 T5 T6 T2 T3 T4 T5 T6 T2 T3 T4 T5 T6 T2 T3 T4 T5 T6

1
...
...


Chấm hàng ngày:
Cách chấm :

Làm tốt:

ghi dấu +
8


Làm chưa tốt:

ghi dấu -

Từ đầu năm học, giáo viên kết hợp cùng với hội cha mẹ học sinh của lớp,
lập bảng thi đua hàng ngày và gắn hoa hàng tuần cho mỗi học sinh về 3 mặt: Học
tập, Kỷ luật, Vệ sinh. Nếu học sinh thực hiện tốt mặt nào thì được cắm hoa mặt đó.
Cuối tuần, mỗi học sinh được 5 hoa xanh sẽ được gắn hoa vàng. Học sinh nào đạt
được từ 3 hoa màu vàng trở lên trong tháng thì được gắn hoa đỏ. Hình thức thi đua
đó giúp cho học sinh vui thích, phấn khởi để học tập tốt. Sau 4 tuần thi đua, học
sinh đạt cả 3 mặt đều tốt sẽ được nhận quà thưởng. Cũng chính có hình thức thi
đua, các em càng phấn khởi và nỗ lực thi đua học tập tốt, kỷ luật tốt và giữ gìn vệ
sinh tốt.
- Trong lớp tôi có một số học sinh thường thích mình là nhân vật trung tâm,
muốn được làm mẫu để các bạn chú ý tán thưởng và đề cao mình. Nắm được đặc
điểm tâm lý đó tôi thường tranh thủ cho các em có dịp thể hiện mình. Trong giờ
học toán, một số học sinh thông minh nhanh nhẹn thường làm toán xong trước các
bạn, mỗi khi làm bài xong số em đó thường ngoảnh đi ngoảnh lại khoe với các bạn,
nhưng bài làm thường trình bày rất ẩu. Để chấn chỉnh điều đó, tôi cho các em thi
đua trình bày bài trong bảng nhóm, kèm theo điều kiện “Nếu trình bày đúng và đẹp
cô sẽ thưởng một bông hoa xanh, ghi thành tích để xét thưởng vào cuối tuần”. Vì

rất thích được bạn khen và thán phục mình, trước lời động viên và yêu cầu của cô
nên các em xung phong làm bài vừa nhanh vừa trình bày bài cẩn thận và trở về chỗ
ngồi trước khi tự tay gắn một bông hoa lên bảng thi đua của lớp và một tràng pháo
tay tán thưởng của các bạn cùng với sự hãnh diện vì được các bạn đề cao là người
giải toán nhanh và trình bày đẹp.
- Trong tiết học Đạo đức, tôi thường xuyên cho các em đóng vai trong một số
tình huống đạo đức. Đa số học sinh đều xung phong tham gia bởi các em muốn
được dịp thể hiện mình, nội dung tiết học với các em mang tính tự nhiên, mọi thành
viên đều cảm thấy vui vẻ thoải mái và rất tích cực hoà nhập với tập thể lớp, học
sinh được thể hiện nhiều qua các tiết học trở nên bạo dạn tự tin hơn trước đám
đông.
- Hầu như bất cứ đứa trẻ nào cũng có tính hiếu thắng. Tôi gắn sự hiếu thắng
đó theo hướng tích cực, xây dựng tính hiếu thắng đó trở thành hướng phấn đấu
vươn lên trong học tập của mỗi học sinh. Trong lớp, tôi chọn một số cặp học sinh
ngang sức nhau, khuyến khích các em thi đua với nhau trong khoảng thời gian
ngắn, với thời gian đó em nào vượt lên thì sẽ được khen và tìm một bạn có sức học
khá hơn để ghép đôi. Làm như vậy các em luôn phải cố gắng vì sợ thua bạn.
Tôi thường tổ chức cho các em những cuộc chạy đua nho nhỏ và quả nhiên
lớp tôi có phong trào thi đua học tập sôi nổi hơn. Những cuộc thi đua như vậy tôi
cho là rất lành mạnh, nó giúp các em luôn có cái mốc mới cao hơn cần vươn tới.
Những em sẵn có tính hiếu thắng thường thu được kết quả rõ rệt sau mỗi cuộc đua.
9


Những tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ tôi cũng kịp thời động viên, khen
ngợi trước lớp để các em phấn khởi và tiếp tục phấn đấu vươn lên. Bên cạnh đó tôi
còn quan tâm đến từng học sinh nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt và những
em chậm tiến để động viên các em cố gắng bắt nhịp với cả lớp . . .
Qua các biện pháp đã thực hiện, tôi nhận thấy để một lớp học có nề nếp thì
giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ, từ việc

chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập ở nhà đến việc lấy vở, cất vở khi chuyển tiết,
nếp giơ tay phát biểu, chú ý nghe giảng, giữ gìn sách vở đồ dùng học tập, làm bài,
viết bài sao cho theo kịp lớp, đảm bảo thời gian học. Giáo viên là người mẹ thứ hai
của các em ở trường, vì vậy trong các giờ học trên lớp, tôi uốn nắn các em từ
những động tác ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào cạnh bàn, hay ngả ngốn trên bàn
học, vừa ảnh hưởng tới sức khoẻ, vừa gây không khí uể oải trong lớp học. Trong
từng tiết học, từng công việc cụ thể các em đều được rèn tính ngăn nắp, tính khoa
học, nhanh nhẹn, khẩn trương để các em chủ động trong việc tiếp thu kiến thức
mới.
2. Kết quả đạt được:
Qua một thời gian vận dụng các biện pháp nêu trên, tôi thấy lớp tôi có
chuyển biến rõ rệt về nề nếp cũng như chất lượng học tập. Trong giờ học sự kết hợp
của cô giáo và học sinh rất nhịp nhàng, các em tiếp thu bài tốt, không khí học tập
sôi nổi, thực sự “ học mà vui, vui mà học”. Các em rất hứng thú say mê trong học
tập. Như vậy rõ ràng việc làm tốt công tác chủ nhiệm lớp không những làm cho các
em luôn có thói quen chuẩn bị tốt, đầy đủ đồ dùng học tập, có ý thức nề nếp trong
từng môn học mà còn giúp các em chủ động sáng tạo hơn khi học tập.
Xếp loại các mặt : Học tập, Kỷ luật, Vệ sinh qua các tháng như sau:
(Sĩ số lớp: 32 học sinh)
Học tập
Tháng

Kỉ luật
Chưa

Vệ sinh
Chưa

Tốt


Chưa
tốt

Tốt

Tháng 9 + 10 (31 em)

16

15

20

11

22

9

Tháng 11 + 12

19

13

23

9

25


7

Tháng 1 + 2

25

7

27

5

28

4

tốt

Kết quả hai mặt hạnh kiểm và học lực của lớp như sau:
(Sĩ số lớp: Giữa HKI: 31 HS, cuối HKI: 32 HS)
10

Tốt

tốt


Hạnh kiểm
Giai

đoạn

Học lực
Tỉ
lệ

Số lượng

Số lượng

VSCĐ
Tỉ lệ
(%)

(%)
Giữa
HKI

Cuối
HKI

Chưa đủ

: 0

100

Tỉ lệ
(%)


NX giỏi: 12

38, 7

A: 18

58,1

NX Khá: 14

45,2

B: 13

41,9

NX TB: 5
Thực hiện đầy đủ: 32

Số
lượng

16,1

NX giỏi: 14

43,7

A: 19


59,4

NX Khá: 16

50

B: 13

40,6

NX TB: 2

6,3

Ngoài ra, lớp tôi còn tham gia rất tốt các hoạt động do Nhà trường phát động,
như:
- Quyên góp ủng hộ đồng bào bị bão lụt miền Trung: 100 000 đồng
- Quyên góp ủng hộ chương trình "Vòng tay bè bạn": 35 bộ quần áo.
- Quyên góp ủng hộ đoàn Nghệ thuật trẻ em khuyết tập của Trung tâm Tình
thương tỉnh Quảng Nam: 80 000 đồng.
- Được Nhà trường đánh giá và xếp loại : Lớp có nề nếp Tốt.
C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Mức độ và phạm vi tác dụng của Sáng kiến kinh nghiệm:
Qua một quá trình thực hiện theo những định hướng để hình thành nề nếp
học tập cho học sinh và áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi thấy học sinh trong lớp
có chuyển biến rõ rệt về nề nếp học tập cũng như nếp sinh hoạt tập thể đã trở thành
thói quen của mỗi học sinh. Từ đó, chất lượng học tập của học sinh cũng được nâng
lên, các em luôn chủ động trong việc học tập. Bản thân giáo viên, chính thói quen
về nề nếp học tập của học sinh làm cho cô giáo cảm thấy say sưa, hứng thú trong
giảng dạy, chú ý chuẩn bị đồ dùng dạy học kỹ lưỡng và sinh động trong các tiết dạy

của cả chín môn học trong chương trình. Học sinh có điều kiện để học tập tốt và
thấy được niềm vui khi đến trường học, được bộc lộ những suy nghĩ và việc làm
của mình trước cô giáo và các bạn. Tình bạn, tính cộng đồng trong tập thể lớp 1A
được xây dựng và củng cố bền vững để các em có điều kiện nuôi dưỡng những ước
mơ tốt đẹp về mái trường, về thầy cô và bạn bè.

11


2. Kiến nghị về việc áp dụng, triển khai SKKN :
2.1. Trong việc giáo dục nề nếp cho học sinh hiện nay, ngoài việc giáo viên
cần làm gương tốt : ‘‘Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về đạo đức cho học sinh
noi theo’’ thì việc nêu gương – khen thưởng những học sinh thực hiện tốt nề nếp là
rất cần thiết. Tôi thiết nghĩ việc này BGH Nhà trường và TPT Đội cần quan tâm
nhiều hơn để có kế hoạch tuyên dương những cá nhân, những tập thể lớp có nề nếp
học tập tốt trong những buổi sinh hoạt ngoại khóa toàn trường. Vì đặc thù của địa
phương, của trường, các lớp ở điểm lẻ như lớp 1A tôi phụ trách, không có điều
kiện tham dự chào cờ đầu tuần, nên còn hạn chế trong việc học sinh được biết
những tấm gương điển hình ở ngay trong trường mình để học tập, noi theo. Có như
vậy hiệu quả giáo dục nề nếp mới tăng cao, học sinh chắc chắn sẽ vui vẻ thực hiện,
đua nhau thực hiện tốt các quy định mà Ban thi đua Nhà trường đưa ra.
2.2. Về phía đội ngũ thầy cô giáo chủ nhiệm: cần tỉ mỉ - quan tâm hơn nữa
để xây dựng những quy định – nội quy cho lớp mình phụ trách với tất cả trách
nhiệm và tình thương đối với học sinh, để công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao,
góp phần đưa chất lượng giảng dạy – học tập của trường ngày một cao hơn. .
Trên đây tôi đã trình bày một số việc làm trong công tác chủ nhiệm của mình
để giúp học sinh có nhiều niềm vui khi đến trường. Những việc đó thành hình khó
đặt tên, càng không thể diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Tôi thực hiện nó
lúc có thể được, khi tiếp xúc với học sinh. “Học sinh đến trường trong niềm vui” là
một khái niệm rộng, do tác động của nhiều yếu tố: Con người, môi trường, hoàn

cảnh sống .v.v. nhưng theo chủ quan của tôi, mình đã góp một phần không nhỏ
trong niềm vui ấy của các em. Học sinh của lớp tôi đi học với tâm trạng rất thoải
mái và phấn khởi. Thầy cô bước vào lớp, các em không có vẻ sợ hãi, rụt rè. Trái lại
nhiều em đón tôi với nụ cười tươi tắn trên môi. Giao tiếp giữa cô và trò hoà hợp
thân ái, học sinh nhận thấy cô giáo mình thật gần gũi và luôn cởi mở với cô. Quan
sát các em trong giờ chơi tôi cũng thấy các em cư xử với nhau hoà nhã, thân thiện
hơn, hiện tượng nói tục, chửi bậy hạn chế rất nhiều và dường như không có. Các
em bớt đi những lời nói thô lỗ, cục cằn, gay gắt. Khi phạm lỗi với bạn, các em
thường xuyên nhận ra và tự giải quyết một cách nhanh chóng không làm phiền lòng
cô như những ngày đầu nhận lớp .
Bằng sự cảm nhận của mình, tôi đã đọc được tình cảm của học sinh dành cho
cô giáo và qua sự đánh giá, nhận xét tâm lý của phụ huynh về con mình. Tôi nghĩ
những việc làm nho nhỏ của mình đã góp phần tích cực trong giai đoạn đầu hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh .
Điều quan trọng tôi đã làm được đó là: Làm cho các em cảm thấy yêu
trường. Những dấu ấn của tuổi học sinh tiểu học sẽ cùng các em đi suốt cuộc đời .

12


Trên đây là những suy nghĩ và việc làm cụ thể trong công tác chủ nhiệm của
tôi. Vì năng lực có giới hạn, sẽ khó tránh khỏi những sai xót. Rất mong nhận được
ý kiến đánh giá của Hội đồng khoa học Nhà trường và các các ý kiến góp ý của
đồng nghiệp để sao cho công tác chủ nhiệm của tôi ngày càng hoàn thiện, góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Kroong, ngày 20 tháng 02 năm 2014
Người viết
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của
Hội đồng khoa học Trường.

Ngô Thị Bích Thủy

Chủ tịch hội đồng
(Ký tên, đóng dấu)

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trẻ em Việt Nam - HỒ CHÍ MINH - 1942 - NXB Chính trị Quốc gia.
2. Tâm lý học – Phạm Minh Hạc (Chủ biên) - NXB giáo dục (1993)
4. Phương pháp Giảng dạy TNXH - (Dự án phát triển giáo viên tiểu học –
NXB GD năm 2004)
4. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học Sư Phạm – Nguyễn Kế Hào (Chủ biên)
– NXB ĐHSP (2009)

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU :

Trang

1. Lý do đề xuất SKKN ............................................................: 01
2. Mục đích của SKKN.............................................................: 02
3. Cơ sở và đối tượng của SKKN.............................................: 03
14


4. Phạm vi thực hiện..................................................................: 04
B : NỘI DUNG ĐỀ TÀI :
1. Quá trình thực hiện:............................................................: 04

a. Khảo sát thực tế................................................................... : 04
b. Những biện pháp thực hiện ................................................: 05
b1.Đối với Giáo viên chủ nhiệm................................................: 05
b2.Tổ chức xây dựng nề nếp – thói quen cho học sinh..............: 07
b3. Tăng cường kiểm tra đánh giá việc thực hiện nề nếp HS.....: 09
b4.Kết hợp với giáo viên bộ môn và phụ huynh học sinh.........: 10
b5. Nêu gương – khích lệ - khen thưởng...................................: 11
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Mức độ và phạm vi tác dụng của SKKK...............................: 15
2. Kiến nghị về việc áp dụng triển khai SKKK.........................: 15
* Danh mục tài liệu tham khảo..................................................: 18
* Mục lục....................................................................................: 19

15



×