Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

NHỮNG CÁCH TÂN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101 KB, 10 trang )

NHỮNG CÁCH TÂN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT
VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI
Bùi Thanh Truyền - Trường ĐHSP Huế
Lê Biên Thùy - Trường Đại học Phú Xuân
1. Gần đây, người ta thường nói đến sự thống ngự của truyện ngắn trong
văn đàn Việt Nam đương đại. Điều đó không có nghĩa là tiểu thuyết không còn
địa vị nhất định của nó. Sự phát triển theo khuynh hướng chậm mà chắc của tiểu
thuyết suốt hai thập kỉ qua gắn liền với tên tuổi của những cây bút như Chu Lai,
Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Phục, và Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Anh Thái, Võ Thị
Hảo, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Đây là những phong cách đã được
định hình, có những chỗ đứng vững chắc trong lòng công chúng. Những sáng tác
nặng kí của họ đã góp phần mang lại diện mạo mới cho văn xuôi đương đại, nhất
là trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người - hạt nhân của sự chuyển
biến một giai đoạn văn học. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy trong sáng tác
của một gương mặt tiêu biểu: nhà văn Hồ Anh Thái - người đang chiếm được
nhiều cảm tình của độc giả hiện nay. Ngoài sự sung sức trong sáng tạo, tác phẩm
của anh còn tạo ấn tượng đối với bạn đọc bởi luôn luôn tìm tòi để không ngừng
đổi mới về phong cách. Với liên tiếp những sáng tác gây tiếng vang trong dư
luận như Trong sương hồng hiện ra, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ
một đêm, Đức Phật nàng Savitri và tôi... nhà văn này đã dần dần khẳng định vị
thế của mình, phả vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới với một cách
viết “quen mà lạ”: rất giàu tính hiện thực đan cài nhiều yếu tố hư ảo, đôi khi ma
quái.
Là một cây bút rất nhạy cảm với môi trường công nghiệp hiện đại, lại có
vốn văn hóa Phật giáo sâu sắc, Hồ Anh Thái đã lựa chọn cho mình một phương
thức thể hiện rất riêng. Chính sự kết hợp hài hòa giữa cái phương Tây mới lạ và
nét phương Đông thuần hậu đã ươm mầm cho cách cảm, cách nghĩ, cách chiêm
nghiệm về “cõi người” trong những trang viết của anh. Dẫu vẫn còn đôi điều cần
bàn cãi, nhưng công bằng mà nói, những tiểu thuyết của nhà văn này đã thể hiện
sự nghiêm túc, khắt khe trong việc tìm tòi, đổi mới văn học trên nhiều phương
diện, nhưng đáng chú ý nhất là quan niệm nghệ thuật về con người. Đây là nhân


tố, điểm tựa quan trọng góp phần làm thay đổi diện mạo văn xuôi đương đại.
2. “Con người là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu vừa là cái
đích cuối cùng của văn học, đồng thời cùng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị
của mọi vấn đề xã hội, sự kiện và biến cố lịch sử” (1). Nguồn gốc sâu xa của tiến
trình đổi mới văn học nói chung, của một tác giả nói riêng, đều bắt nguồn từ
trong cảm hứng sáng tạo, trong quan niệm nghệ thuật về con người, trong tư duy
nghệ thuật.

1


Con người, theo quan niệm triết học phương Đông, là một tiểu vũ trụ
huyền bí và sâu thẳm mà văn học tự cổ chí kim vẫn không khám phá hết. Quan
niệm nghệ thuật về con người có thể xem là một thước đo trình độ chiếm lĩnh
hiện thực đời sống của tác phẩm, tác giả: “Quan niệm nghệ thuật về con người
tạo thành cơ sơ, thành tố vận động của nghệ thuật” (2).
Đối với văn học Việt Nam, sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con
người diễn ra lần đầu vào nửa đầu thế kỷ XX khi điều kiện xã hội thay đổi làm
xuất hiện những con người mới. Văn học phản ánh cách cảm, cách nghĩ của
những con người đó nên cũng phải tự đổi mới mình cho phù hợp.
Từ 1945 – 1975, do chú trọng các nhiệm vụ chính trị, lấy việc phản ánh và
động viên kịp thời cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc làm mục đích tối thượng,
truyện ngắn và nhất là tiểu thuyết thường hướng tới những bức tranh hiện thực
hoành tráng, trong đó đề tài chiến đấu và lao động sản xuất của quân và dân ta
nổi lên như hai gam màu chủ đạo. Và con người - linh hồn của bức tranh hiện
thực đầy tinh thần lãng mạn cách mạng, ngùn ngụt không khí sử thi đó cũng hiện
lên trong chân dung của con người quần chúng, con người tập thể, đôi khi thiếu
cá tính, nhạt mờ về tâm lí. Do nghiêng về chú trọng vận mệnh dân tộc, văn học
giai đoạn này dường như cũng chỉ mới phản ánh cái hiện thực bề nổi, dù có đạn
bom nhưng vẫn trong lành, tinh khiết đến độ “vô trùng”, mà chưa có điều kiện để

phản ánh một cách toàn diện cái hiện thực phức tạp và khốc liệt của chiến tranh,
chưa đi sâu vào những mâu thuẫn nội bộ nhân dân, vào những vấn đề xã hội
trong cuộc sống bình thường hằng ngày của con người, vào số phận cá nhân,
hạnh phúc cá nhân. Những vấn đề cội rễ nhân bản của văn học chỉ được đặt ra
như một bình diện phụ, sau bình diện con người - xã hội cả trong sáng tác cũng
như trong nghiên cứu. Tính hiện thực của văn học vì thế cũng được đo bằng sự
phản ánh những mặt cơ bản của hiện thực là sản xuất và chiến đấu. Hiện thực
này nhiều khi là cái cần có hơn là cái hiện có. Điều này đôi lúc, đôi nơi đã không
thể tránh được sự lệch lạc trong nhìn nhận, đánh giá tính hiện thực của văn học,
sự sơ lược, giả tạo, công thức trong phản ánh, khám phá cuộc sống của nhà văn.
Sau năm 1975, mà nhất là sau 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, văn
học bị chi phối bởi quy luật của thời bình. Lúc này, văn xuôi kháng chiến về cơ
bản đã hoàn tất sứ mệnh của mình, nhường chỗ cho một nền văn học mới thích
ứng với những chất liệu mới của cuộc sống. Cái hiện thực mà văn học đang cố
gắng nắm bắt cũng đã thay đổi một cách căn bản: Từ chất liệu anh hùng ca
chuyển sang chất liệu đời thường. Bên cạnh hiện thực đời sống hiện ra sống
động với trăm ngàn dáng vẻ, thì con người - trung tâm của sự thay đổi chất liệu
văn học - như nhận xét của Ban chấp hành Hội Nhà văn - một thế giới với số
phận riêng và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú và phức tạp của nó đối
với toàn xã hội, trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác. Con người được
nhìn nhận nhiều chiều hơn, thật hơn. Bên cạnh cái đẹp, cái anh hùng, cái cao cả,
con người trong văn học giờ đây còn có cả cái xấu xí, cái thô kệch, thấp hèn...

2


Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái đã phản ánh một cách trung thực những bộn
bề, phức tạp của cuộc sống thời khủng hoảng, thời xây dựng. Nhân vật trong tiểu
thuyết của anh chính vì lẽ đó cũng trở nên gần gũi với tầm đón nhận, thị hiếu của
người đọc. Đó là những con người ta có thể bắt gặp xung quanh hay bắt gặp

ngay trong chính mình. Mỗi người là một “nhân vị” riêng với những mảnh đời
khác nhau, những bi kịch khác nhau. Đó là những con người trần thế với tất cả
chất người tự nhiên của nó.
Hướng tới xác lập phong cách riêng qua đó mang lại sinh khí mới cho đời
sống văn học bằng việc xây dựng chân dung con người mới hiện đại chính là
tham vọng, nỗ lực của Hồ Anh Thái. Cũng như bao nhà văn đương đại khác, anh
vẫn tìm đến những đề tài chiến tranh nhưng đã có cái nhìn sâu hơn về người
chiến sĩ. Không lý tưởng hoá họ mà anh đi sâu vào nội tâm, kiếm tìm, lật xới,
đưa ra ánh sáng những phần khuất lấp bên trong con người bấy lâu nay còn ẩn
giấu. Anh mạnh dạn nhìn vào hiện thực chiến tranh và không khỏi đau xót trước
hình ảnh những cô thanh niên xung phong, một thời phục vụ cho cuộc chiến, hy
sinh tuổi xuân, sắc đẹp vì lý tưởng, để rồi chiến tranh qua đi chính họ lại cô đơn,
lạc lõng và trở thành những “Người đàn bà trên đảo”. Quay trở về với cuộc
sống, họ ngỡ ngàng trước hiện thực, xót xa vì nhận ra cái tuổi đẹp nhất của mình
đã vùi sâu dưới lòng đất, nơi chỉ còn những mảnh bom đạn và ký ức.
Trong sương hồng hiện ra cũng đề cập con người anh hùng, nhưng không
phải là những anh hùng chỉ biết ngẩng cao đầu tiến lên, nhằm thẳng hướng quân
thù mà họ còn là những anh lính thích nhảy và ưa hát, lại khá tinh nghịch. “Chất”
lính với những hình ảnh rất đời thường, hồn nhiên và đáng yêu như thế có lẽ rất
hiếm thấy trong tiểu thuyết trước đây, khi mà đa phần người viết đều thiên về
nhìn nhận họ như những người anh hùng, chỉ biết chiến đấu, chỉ biết hy sinh.
Đóng góp của người viết là đã dũng cảm tước bỏ vầng hào quang văn chương do
cái nhìn sử thi quy định để chiến tranh hiện ra chân thật, sống động và toàn diện
trong ánh sáng đích thực của nó.
Mỗi thời đại có một quan niệm nghệ thuật về con người và mỗi nhà văn lại
có cách khai thác, thể hiện riêng nhưng phần lớn đều có khát vọng đi sâu mổ xẻ
nội tâm của họ để kiếm tìm một con người khác - một con người “không trùng
khít với chính mình”.
Trong những tác phẩm gần đây của Tạ Duy Anh, chúng ta thấy tác giả
thường xuyên độc thoại với cái tôi chính mình, khám phá chính mình để trả lời

cho câu hỏi “Mình là ai?”. Võ Thị Hảo cũng thế. Chị để cho nhân vật Từ Đạo
Hạnh (Giàn thiêu) đứng trước sự lựa chọn: Có nên đầu thai vào kiếp khác hay
không? Nguyễn Minh Châu thì đặt nhân vật vào quá trình tự đấu tranh, cọ xát
bên trong để họ có điều kiện tự ý thức, đánh giá lại chính mình qua một loạt tác
phẩm: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền
ngoài xa, Phiên chợ Giát… Còn Hồ Anh Thái thì cho nhân vật Đông ở Cõi
người rung chuông tận thế, trong vai trò của nhân vật - người kể chuyện xưng
“Tôi”, sống hoà mình vào cái ác, “đồng hội đồng thuyền” với cái ác (biểu hiện

3


qua tuyến nhân vật đồng dạng Cốc, Phũ, Bóp). “Tôi” đã có một quá trình tự vấn,
đứng chênh vênh giữa hai bờ thiện và ác để sám hối, để thức tỉnh, để tự tìm cho
mình một con đường. Hành trình dấn thân - tự vấn của nhân vật đã giúp cho
người đọc nhận biết được phần ẩn khuất bên trong của Đông – cũng là của chính
mình.
Con người trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái phức tạp, đa dạng và đều là
những lát cắt chân thực cuộc sống đương đại với đầy đủ những cung bậc “đa sự đa đoan” của nó. Đó không phải là những con người “đơn trị”, “dễ hiểu” mà là
con người đa chiều, đa diện. Khuynh và Diệu trong Người và xe chạy dưới ánh
trăng luôn sống với hai cuộc đời thật - giả. Khát vọng quyền lực đến mức bệnh
hoạn đã đưa Khuynh đến bi kịch. Khi biết tin vợ con anh chết trong một trận
bom, mọi người đều chia buồn, an ủi, nhưng họ đã lầm. Và sự thật tàn nhẫn đến
khó tin này đã được tác giả mượn lời một nhân vật khác để phơi ra trần trụi:
“Anh Chín tưởng Khuynh đau đớn về vợ con? Không đâu, khi đơn vị chuyển đi,
Khuynh cảm thấy như trút được gánh nặng, và đã để vợ con ở lại. Cũng là trong
suốt mấy năm ở tuyến lửa, Khuynh ít nghĩ tới họ” (3). Cái chết ấy dường như với
Khuynh là một sự giải thoát. Không ai hiểu được Khuynh ngoại trừ bà mẹ, bà
biết: “Con bà nếu làm chồng làm cha sẽ là một người chồng người cha dửng
dưng, lạnh lẽo. Nếu là một người yêu sẽ là một người yêu ích kỷ, không bao giờ

yêu hết mình, ngoại trừ nỗi đam mê xác thịt cuồng bạo” (4). Con ngựa chạy mãi
cũng cuồng chân; khi tất cả đã trở thành vô nghĩa, điều đầu tiên Khuynh muốn là
gỡ bỏ cái mặt nạ về một gia đình hạnh phúc, ấm êm của mình để đến với Hoài người Khuynh yêu. Ranh giới giữa một người thành đạt và bất hạnh thật mỏng
manh. Hơn ai hết, anh là người nhận ra điều đó. Việc lựa chọn ra đi của Khuynh
thể hiện sự nhận thức sâu sắc của nhân vật về cuộc đời mình. Anh không còn gì
ngoài hai bàn tay trắng và tình yêu cuối mùa với người đàn bà có bộ mặt nhàu
nát theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bi kịch của anh không đơn giản chỉ là vấn
đề của một cá nhân mà còn mang dấu ấn thời đại khá rõ; ở đó, con người không
ngừng bị chi phối, giăng mắc trong vô vàn mối quan hệ, bị tác động bởi không ít
những “hóa chất” có sức... tha hóa nhân tính cực mạnh: danh vọng, địa vị, sự đố
kị, lòng tham,...
Nghĩa là, nói như một số nhà nghiên cứu văn học hiện nay, sáng tác của Hồ
Anh Thái đã đạt đến thế quân bình văn học, bởi chúng vừa "hướng ngoại" lại vừa
"hướng nội". Một mặt, người viết tái hiện bức tranh hiện thực sống động với
những mặt đối lập riêng – chung, cá nhân - cộng đồng, trăn trở đi tìm câu trả lời
cho câu hỏi mang tính nhân văn về những vấn đề của đời sống xã hội, đời sống
người đời; mặt khác, và là mặt chủ yếu, nhà văn chú trọng khai thác một "hiện
thực" khác, phong phú và dồi dào chất liệu không kém, đó là thế giới bên trong
thầm kín, thế giới vi mô con người, bằng một ngôn ngữ văn xuôi sống động và
đa nghĩa. Từ góc độ này, có thể thấy, Hồ Anh Thái đã không ngại ngần khi dấn
thân vào một cuộc hành trình, theo như cách nói của Nguyễn Minh Châu, thể

4


hiện rất rõ "niềm hạnh phúc lớn nhất và cũng là cái điều khổ ải nhất của anh cầm
bút xưa nay".
Với cái nhìn trực diện vào cái ác, cái xấu, vào những mặt trái của xã hội,
qua cách khám phá thế giới tế vi của nhân vật, Hồ Anh Thái đã thật sự đặt ra
những vấn đề “nổi cộm” của thời đại và chúng trở thành những thông điệp có ý

nghĩa sâu sắc.
Con người được nhìn nhận như một cá thể bình thường nên nó trần trụi hơn
trong tác phẩm của Hồ Anh Thái. Thế giới nhân vật của anh là những con người
phàm tục trăm phần trăm. Chỉ biết hưởng thụ, sống gấp, họ thu mình lại trong
thế giới cá nhân hết sức vị kỉ. Đó là mảnh đất màu mỡ cho sự sinh sôi nảy nở của
cái xấu, cái ác. Họa sĩ Chuối Hột trong Mười lẻ một đêm có cái sở thích kỳ lạ đến
quái đản: “48 cái xuân xanh là 48 mùa cởi mở, thời trang yêu thích nhất là bộ
cánh lúc lọt lòng mẹ”(5). Anh ta sống cô lập, tách biệt với mọi người xung quanh.
Trong Cõi người rung chuông tận thế, bộ ba công tử Bóp, Phũ, Cốc luôn chìm
đắm trong ốc đảo của những kẻ dư thừa tiền bạc, thiếu thốn thú vui lạ kì. Cốc
luôn đê mê trong cuộc sống tình dục buông thả đến không tưởng. Bóp tìm đến
khoái cảm bệnh hoạn bằng cách bóp cổ những con vật cho đến chết. Nhân cách
của Phũ cũng lệch lạc không kém, thú tiêu khiển quái gở của hắn là sưu tập...
những chiếc quần lót của các cô gái sau khi đã qua đêm với mình. Cách sống của
những người này làm cho chúng ta không khỏi lo sợ cho một thế hệ thanh niên
hiện đại ngày nay với lối sống buông thả, bất cần, gấp gáp. Nhân vật nữ của
truyện cũng không phải là một ngoại lệ. Yên Thanh, một hoa khôi có khuôn mặt
đồng trinh, trong sáng đến lạ lùng, bỗng chốc trở nên “dâm đãng”, “không thể
sống nổi một tháng mà không có đàn ông”. Rõ ràng, bất kể nam nữ, họ dường
như đều tự thiết lập cho mình một thế giới riêng biệt nằm ngoài vòng cương tỏa
của xã hội.
Tường trong Người đàn bà trên đảo cũng vậy. Là kẻ tật nguyền, bị loại ra
khỏi vòng quay tàn nhẫn của chiến tranh, Tường đã rất ý thức về trị giá... giống
đực của mình và tận dụng mọi cơ hội (cả khách quan lẫn chủ quan), bày ra mọi
thủ đoạn để biến mình thành người... phối giống cho tất cả những người đàn bà
Đội Năm. Nhân vật Bà mẹ với năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình
ái trong Mười lẻ một đêm cũng kinh hoàng không kém. Ham muốn tình dục vượt
ngưỡng khiến người mẹ trẻ này sẵn sàng gạt sang bên cái gọi là phẩm hạnh
thiêng liêng đối với một phụ nữ bình thường – đó là chăm lo, gìn giữ hình ảnh
của mình trong mắt của con cái: bà không cần giấu giếm khi để cho đứa con gái

của mình “phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ”. Câu nói được bà
sử dụng như một kỹ xảo đối với đối tác của mình là: “Về làm gì, ở lại ngủ cho
vui”. Kết quả sau mỗi lần ly dị là một lần bà được một cái nhà: “Chồng đầu tiên
được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng hai mươi mét
vuông. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được chín mét vuông
phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất
lượng cao”(6).

5


Trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi, nàng công chúa Ấn Độ cổ đại Savitri
cũng có những cuộc mây mưa liên tiếp, với đủ các thế: “Bandhura. Prenkha.
Dadhyataka. Mausala. Chàng xướng lên mỗi lần chuyển đổi. Những là thắt nút.
Những là chơi đu. Những là khuấy sữa. Những là giã gạo. Naga. Hadavaka.
Hastika. Harina. Bhamara. Ta thì thầm vào tai chàng mỗi lần một nguyện vọng.
Những là rắn. Những là ngựa. Những là voi là huơu những là ong đất. Chúng ta
quấn vào nhau triền miên không có điểm dừng”(7).
Nếu chỉ dừng lại khắc họa nhân vật ở cái mặt trái này thì có lẽ Hồ Anh Thái
cũng không thoát khỏi tình trạng thường xuất hiện ở không ít các tiểu thuyết gần
đây khi cố tình tô đậm mặt tính dục như một “chiêu” kích thích thị hiếu tầm
thường của số ít độc giả vừa tầm. Chất nhân văn đằm sâu tạo thành sức hút,
thành “thương hiệu” Hồ Anh Thái là ở chỗ, đằng sau những bi kịch nhân sinh,
nhà văn không mất đi niềm hy vọng vào con người. Anh dám nhìn thẳng vào
những nhức nhối bủa vây cõi người để gióng lên hồi chuông khẩn thiết về sự khô
kiệt nhân tính đang có mặt khắp nơi. Sau quá trình trôi nổi ngỡ như vô định,
người viết đã đưa nhân vật của mình quay lại cái phương Đông thuần hậu, chất
phác. Đông đã có hành động tuyệt giao với cái ác, cái xấu (vứt viên thuốc độc
vào cống nước) “để thanh lọc cái tâm hồn tội lỗi của mình”(8). Con người biết suy
ngẫm, biết trăn trở, biết từ bỏ cái xấu để về bên cái đẹp, biết đau đớn cho những

điều trông thấy trong “Cõi người” phức tạp hôm nay, con người ấy thật đáng
thương, đáng quý. Tác phẩm là cả một tấm lòng bao dung, là hồi chuông “cảnh
tỉnh” con người của tác giả.
Trong tiểu thuyết Đức Phật nàng Savitri và tôi - ta lại bắt gặp một con
người hoàn toàn khác lạ. Có thể nói, con người ấy là của riêng, của để dành của
anh. Trong tác phẩm này, người viết đã xây dựng thành công kiểu con người tâm
linh, con người giác ngộ. Ở đó, họ vô ưu, tĩnh thiền để nhìn vào cõi lòng mình,
thực hiện một cuộc hành trình ngược hướng đầy vất vả để tìm lại cái “bản lai
diện mục” của chính mình. Đây có lẽ là con người đẹp nhất, toàn bích nhất, con
người mà Hồ Anh Thái dành tất cả tấm lòng tôn kính để xây dựng lên. Con
người ấy có một gia thế quyền quý (hoàng tử), đẹp về ngoại hình lại có một trí
tuệ siêu phàm: “Hoàng tử lớn lên thành một trang thiếu niên khôi ngô, tuấn tú.
Ham hiểu biết. Chàng lĩnh hội nhanh chóng kiến thức mà các vị đạo sư truyền
giảng. Đủ cả bốn bản kinh Vệ Đà. Đủ cả kiến thức triết học, thần học. Đủ cả kiến
thức thế học, bao gồm chính trị và pháp luật. Đủ cả kiến thức y khoa và các môn
khoa học khác”(9). Quan trọng hơn, con người đó luôn đầy ắp tình yêu thương.
Chàng không chỉ xót xa khi chứng kiến sự đau khổ của đồng loại, của vòng sinh
- lão - bệnh - tử mà còn dành tình thương bao la cho muôn loài có sự sống:
“Thay cho việc bắn cung vào một mục tiêu di động là con chim đang bay, chàng
chỉ chấp nhận bắn tên vào một mũi tên khác bắn lên trời. Thay cho việc phóng
lao vào một con dê, chàng chỉ chịu phóng lao vào hình nộm đi động”. Tình yêu
thương vô tận ấy đã biến thành động lực cho những hành động cao cả của hoàng
tử. Chàng muốn cứu con người ra khỏi bể khổ. Siddhattha từ chối cuộc sống

6


vương giả, hạnh phúc riêng tư, cung vàng, điện ngọc, cởi bỏ xiêm y lộng lẫy để
mặc lên mình tấm áo xô gai, bắt đầu một cuộc đời mới, một hành trình đi tìm sự
sống thật sự.

Để trở thành Đấng Giác Ngộ - điều ấy thật không dễ dễ dàng. Hoàng tử
Siddhattha đã trải qua biết bao khó khăn, thử thách, cạm bẫy, có khi đứng chênh
vênh giữa sự sống và cái chết. Nhưng cuối cùng, chính ý chí, lòng quyết tâm, và
trên hết là một trái tim tha thiết sống vì con người, cho con người, đã giúp chàng
lĩnh hội được chân lý cuộc sống, con đường diệt khổ để đưa nhân sinh tới cõi
Niết Bàn.
Sau khi trở thành Phật, Buddha đã cảm hóa, giác ngộ những sinh linh đang
rơi vào vòng tội lỗi, khổ đau, tuyệt vọng. Biết bao người nhờ thế đã tìm được
cho mình lẽ sống, sự thanh thản, chay tịnh. Yasa từ một tay ăn chơi số một của
kinh thành Varanasi đã quy y để sống cuộc đời của một khất sĩ. Hoàng tử
Ahimsaka trí tuệ, thông thái, chỉ vì sự đố kị của sư phụ, sự ruồng bỏ của người
thân nên nên rơi vào ngõ cụt, bất đắc dĩ phải trở thành tên sát thủ kinh hoàng
Anguli Mala, trên người lúc nào cũng có một tràng hạt làm từ những ngón tay út
của nạn nhân, giờ đã được Phật pháp cứu vớt khỏi bến mê, đưa anh về bên Phật,
cải tà quy chính, trở lại đúng như cái tên của mình từ thuở lọt lòng: Ahimsaka không sát sinh.
Có thể nói, Đức Phật nàng Savitri và tôi là một món lạ, bổ sung thêm một
hương vị mới, độc đáo vào thực đơn của Hồ Anh Thái, làm cho truyện của anh
nói chung, tiểu thuyết nói riêng tránh được sự đơn điệu, nhàm chán. Món ăn ấy
vừa có vị đậm đà của của những lớp trầm tích văn hóa, vừa có vị thanh nhẹ của
những suy tư, nỗi niềm, vừa có vị cay của những chiêm nghiệm cuộc đời, vừa có
vị đắng của những khổ đau, mất mát, lại vừa ngọt ngào bởi những chân giá trị
vĩnh hằng của con người.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trên đây đã dẫn đến những thay đổi
tích cực trong trong cách nhận thức về hiện thực của Hồ Anh Thái. Với anh, hiện
thực gồm "những gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là
cái ta cảm nữa (...) Cả một đời sống tâm linh cũng là hiện thực" (10). Gắn liền với
quan niệm mới mẻ này là việc người viết không ngừng nhấn mạnh hơn nữa vai
trò tích cực của chủ thể sáng tạo. Có lẽ vì thế, những sáng tác của anh, dù là
truyện ngắn hay tiểu thuyết, thường gắn với cảm hứng "nhận thức lại" - một
nhân tố quan trọng làm chuyển biến theo hướng tích cực diện mạo văn xuôi hôm

nay. Cảm hứng này thường không tránh khỏi nói đến những mất mát, tiêu cực,
nhưng đó không phải là phủ nhận quá khứ, lên án chế độ mà là để cảnh tỉnh, để
góp phần đắc lực trong cuộc chiến chống lại những con người, những sự việc
tiêu cực, phi nhân bản, trái với lí tưởng cao đẹp của dân tộc. Việc nhìn lại quá
khứ gắn với nhu cầu thức tỉnh cá nhân trở thành cảm hứng chung của văn học
thời kì đổi mới - một trong những nhân tố quan trọng làm gia tăng chất văn xuôi
của truyện như Bakhtin từng nhận xét. Đây cũng là cơ hội để nhà văn thực hiện
những khát vọng ấp ủ từ lâu nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, sự thiếu dân chủ

7


trong cơ chế quản lí văn hoá văn nghệ cũng như những bộn bề thời hậu chiến họ
chưa có điều kiện đề cập thấu đáo. Điều đáng quý ở đây là, dù viết về cái gì,
người hay ma, tốt hay xấu, hôm qua hay hôm nay... thì cái đích của sáng tác Hồ
Anh Thái vẫn là cuộc sống hiện tại. Vút lên trên cái nền ngổn ngang, bề bộn của
tác phẩm vẫn là khát vọng mong muốn cuộc sống này nhân hậu, tốt đẹp hơn.
Chiều sâu trong cái nhìn nghệ thuật của Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở
chỗ anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản
ánh hiện thực một cách đơn giản - điều mà nhà văn gọi là hiện thực thô sơ - để
nhìn cuộc đời như nó vốn có. Để có sức hấp dẫn người đọc, theo tác giả, cái hiện
thực ngoài đời kia phải thông qua sự cảm thấy của nhà văn, được nhào nặn lại
bằng những suy tưởng và tưởng tượng của chủ thể sáng tạo. Giống như Hoà
Vang, Hồ Anh Thái cũng không thừa nhận sự độc tôn của phương pháp thuần tuý
hiện thực: "Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc mơ dài, gấp sách lại người ta
vừa mừng rơn như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng, lại vừa tiếc nuối vì phải chia
tay với những điều mà đời thực không có. Nếu tôi chỉ dùng phương pháp hiện
thực thuần túy thì sẽ không có được giấc mơ ấy đâu"; vì như thế là "tự làm
nghèo trang viết của mình"(11). Nhìn lại "cái quan niệm một thời về chủ nghĩa
hiện thực thô sơ", Hồ Anh Thái cho rằng: "Thật quá mà đâu phải đã đến gần hiện

thực"; đồng thời cũng không che giấu mong muốn được đọc và viết "những tác
phẩm của sức tưởng tượng phi thường, tạo dựng được những tình huống khác lạ,
những cảm xúc mê đắm, những nhân vật không chịu mặc đồng phục"(12). Chính
cái quan niệm táo bạo, cái mơ ước chẳng giống ai này đã đưa dắt nhà văn đến
với cái kì ảo, tận dụng nó như một thủ pháp đắc địa để tạo ra sự quyến rũ thực sự
cho những trang viết của mình.
Trong cảm quan của nhà văn thiên về lối viết theo sự gợi ý của trực giác,
linh cảm, cảm nhận đời sống theo "mệnh lệnh trái tim" này, người ta chẳng khó
khăn gì cũng có thể đọc thấy quan niệm cho rằng càng trung thành với nguyên
mẫu ngoài đời bao nhiêu, đôi cánh tưởng tượng càng bị vặt trụi lông bấy nhiêu.
Dường như ở đây có sự gặp gỡ trong tư duy nghệ thuật của anh với quan niệm
của triết gia Ấn Độ - Vivekananda: "Thế giới này nhỏ bé lắm, người ta phải thêm
vào đó một chút tưởng tượng"; hoặc của Aitmatov, nhà văn Nga từng nổi tiếng
với những sáng tác huyền thoại như Con tàu trắng, Và một ngày dài hơn thế kỷ:
"Chúng ta chỉ nhận thấy hiện thực tuyệt vời của chúng ta, sự nghiệp của chúng
ta, lịch sử của chúng ta, cuộc sống của chúng ta. Nhưng theo tôi, cách nhìn nhận
hời hợt trong văn học lỗi thời rồi, cần phải có một cách nhìn bổ sung, cách nhìn
"từ phía bên", cách nhìn sâu thẳm, cách nhìn của quá khứ. Tất cả những cái đó
gộp lại làm cho sức mạnh của hình tượng nghệ thuật thêm cô đọng. Truyền
thuyết, huyền thoại, bài ca, toàn bộ kết cấu của chúng đã giúp tôi trong việc tìm
kiếm tính nhiều bình diện và tính nhiều chiều như vậy"(13).
4. Người Trung Quốc xưa đã có quan niệm rất hay về con người. Con người
là trung tâm của vũ trụ. Trời - cha ở trên. Đất - mẹ ở dưới. Sinh ra con người ở
giữa, hội tụ đủ mọi tinh hoa của trời đất. Nhưng để trở thành tinh anh, thì con

8


người phải vượt qua được thử thách của xã hội, có sức đề kháng với quá trình tha
hóa âm thầm nhưng khốc liệt của cuộc sống thường hằng. Con người chỉ có thể

“bản thiện” khi mới sinh ra; theo thời gian, do sự tiếp xúc với xã hội, tính thiện
ấy sẽ bị chi phối (theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực). Cùng với những nhà
văn cùng thời khác, Hồ Anh Thái đã nhận dạng ra biết bao kiểu con người: con
người anh hùng, sử thi, cao cả, con người thấp hèn, bản năng, tự nhiên, ích kỷ, cá
nhân, con người tâm linh, siêu phàm, trí tuệ… Không giống như một số cây bút
lớp trước, nhân vật thường đẹp đến tuyệt bích, không một tì vết bởi phần nhiều
đó là kiểu con người lý tưởng được đẩy tới hạn để đại diện cho cộng đồng, dân
tộc, thời đại (Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Tnú
trong Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Núp trong Đất nước đứng lên Nguyên Ngọc…), anh thấu hiểu những tâm tư, tình cảm, hành xử... rất người từ
những đứa con tinh thần của mình, nhất là những ai mang trên mình vầng hào
quang lịch sử - thời đại. Anh biết họ vẫn có một cuộc sống bình dị, giản đơn,
riêng tư cần được lên tiếng; những ước mơ nhỏ bé, những cơn sóng lòng đang
âm ỉ trào dâng bên cạnh một cuộc đời của chiến công, của lý tưởng. Nếu như
Nguyễn Huy Thiệp luôn để cho nhân vật của mình bô bô nói lên khát khao xác
thịt để rồi không ít lúc bị dục vọng đưa dắt vào địa hạt của sự phi luân (một ông
bố chồng lại có thể bắc ghế nhìn trộm con dâu tắm, một thằng em chồng lại cứ
muốn ngủ với chị dâu và cảm thấy sảng khoái khi chiếc cúc áo ngực của chị bị
tuột…(Không có vua)); nữ nhân vật chính trong Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu cứ
quay cuồng trong những đợt cưỡng hiếp tưởng tượng từ thế giới cõi âm; Phạm
Thị Hoài, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương… cũng tạo ra những cái
“rùng mình” của văn hóa dân tộc thì Hồ Anh Thái vẫn thủy chung trong hành
trình tìm kiếm những hạt mầm thiên lương đang le lói trên những gương mặt
méo mó, dị dạng, trong những tâm hồn đang tha hóa, kéo họ về với cõi người
dẫu không ít cay nghiệt, bất như ý nhưng vẫn rất bao dung, đáng sống, đáng để
được nâng niu, đưa họ tới bến đỗ của tình yêu thương, của niềm tin vào khả năng
phục thiện, hướng thiện ở mỗi con người. Thực tiễn sáng tác của Hồ Anh Thái là
một minh chứng cho thấy tư duy nghệ thuật đang trở về với con người cá nhân
với những cái "lăn tăn", "khổ đau ngậm ngùi nho nhỏ" của nó. Đây là nguyên
nhân cơ bản làm thay đổi nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật, cấu trúc của
sáng tác, đổi thay nguyên tắc thể hiện viễn cảnh trong truyện ngắn và tiểu thuyết

thời đổi mới.
Văn đàn đương đại không chỉ thâu nhận Hồ Anh Thái với vị trí của một
nghệ sĩ, mà còn ghi tên anh vào công cuộc đổi mới, cách tân văn xuôi đương đại
nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Cũng như sáng tác của một số cây bút văn xuôi
thời Đổi mới (Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Bình Phương,...), tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, ở một vài chỗ, cũng mang dấu ấn
của chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây. Vì vậy, nhân vật trong tác phẩm của anh
phần đông là những con người đa cực, đa trị, bất bình thường. Mỗi người với
nhiều ngã rẽ, không đơn tuyến, nhất phiến và ai cũng mải mê đi tìm cho mình

9


một điểm tựa, một mục tiêu để phấn đấu. Chính bởi lí do đó nên cái tôi được coi
trọng trong tác phẩm của anh. Điều này đã tạo nên sức nặng, giá trị vĩnh hằng
cho tiểu thuyết của Hồ Anh Thái; qua đó thổi vào văn đàn đương đại một luồng
sinh khí mới: táo bạo và mới lạ. Cây bút với trữ lượng sáng tác dồi dào, đa dạng
về phong cách này đã làm cho văn xuôi đương đại nói chung, tiểu thuyết nói
riêng đang khởi sắc càng khởi sắc thêm, đã sôi động lại càng thêm náo động,
những giá trị lại tiếp nối giá trị. Những biểu hiện trong quan niệm nghệ thuật về
con người trên đây là một (trong nhiều) chìa khóa để độc giả mở cánh cửa bước
vào thế giới tiểu thuyết Hồ Anh Thái với một đánh giá không võ đoán rằng đó
cũng chính là đóng góp quan trọng của nhà văn vào quá trình hiện đại hóa văn
xuôi đương đại, góp phần đưa tiểu thuyết Việt Nam tự tin bước ra thế giới.
Huế, tháng 10-2008
Nguồn: Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 51/2009
------------------------(1) Nhiều tác giả: Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu
và giảng dạy, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2005; tr 195.
(2) Trần Đình Sử: Dẫn luận thi pháp học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội; 1998;
tr.46.

(3), (4) Hồ Anh Thái: Người và xe chạy dưới ánh trăng, Nxb. Hội Nhà văn,
Hà Nội, 2005; tr. 177, 179.
(5), (6) Hồ Anh Thái: Mười lẻ một đêm, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2006;
tr.19, 61.
(7), (9) Hồ Anh Thái: Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Nxb. Đà Nẵng, Đà
Nẵng, 2007; tr.129, 35.
(8) Hồ Anh Thái: Cõi người rung chuông tận thế, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng,
2004; tr.160.
(10), (11) Hồ Anh Thái: Cõi người rung chuông tận thế - Tác phẩm và dư
luận, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2003; tr.269, 261 - 269.
(12) Hồ Anh Thái: Họ trở thành nhân vật của tôi, Nxb.Hội Nhà văn, Hà
Nội, 2003; tr.12.
(13) Lê Sơn: Lời giới thiệu Và một ngày dài hơn thế kỉ, Nxb Lao động, Hà
Nội, 1986.

10



×