Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học địa lý THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.65 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Địa lí là một bộ môn khoa học mang tính liên ngành bao gồm các vùng
đất, địa hình, dân cư và tất cả những mối quan hệ phức tạp giữa con người và tự
nhiên, không chỉ đơn thuần là nơi có các đối tượng đó mà còn về cách chúng
thay đổi và đến được như thế nào. Địa lí đã được gọi là “ngành học về thế giới”
và cầu nối giữa con người và khoa học vật lí. Vì vậy dạy -học bộ môn phải có
phương pháp phù hợp và tương xứng. Đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ
thông tin, ứng dụng những thành tựu khoa học hiện đại vào giảng dạy môn Địa
lí.
Để đáp ứng những yêu cầu đổi mới về phương diện, phương pháp đáp ứng
tốt hơn chuẩn kiến thức và kĩ năng quy định thì việc làm phong phú, sinh động,
khắc sâu đề tài … bằng một kĩ thuật mới đó là tổ chức các đơn vị kiến thức trên
hệ thống sơ đồ, ta vẫn gọi là sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy. Nó không chỉ giúp
cho học sinh có sự hiểu biết sâu rông, dễ tái hiện kiến thức Địa lí mà còn góp
phần chấp cánh cho những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này.
Đồng thời, tạo hứng thú để học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động.
Thực tế vận dụng sơ đồ tư duy vào một số tiết dạy ở bộ môn Địa lí, chúng
tôi thấy nó đã đem lại những hiệu quả nhất định. Để tiến đến sử dụng sơ đồ tư
duy lâu dài và đem lại hiệu quả tối ưu, tôi tiến hành tìm hiểu những cơ sở khoa
học của nó để sử dụng cho phù hợp với đặc trưng của bộ môn Địa lí. Do đó tôi
chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm này là “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
Địa lí trung học cơ sở”. Mong rằng với những kinh nghiệm này có thể cùng trao
đổi, chia sẻ với đồng nghiệp ít nhiều làm phong phú thêm phương pháp, kĩ thuật
dạy học môn Địa lí , đồng thời tôi rất mong có sự góp ý chân thành của quý vị để
đề tài này được sâu sắc hơn về giá trị khoa học và tính hiệu quả của nó.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Việc phát triển tư duy cho học sinh luôn là một trong những ưu tiên hàng
đầu của mục tiêu giáo dục. Để hướng học sinh có cách thức học tập tích cực và
tự chủ chúng ta không chỉ cần giúp các em khám phá các kiến thức mới mà còn
phải giúp các em hệ thống được những kiến thức đó. Vì vậy mục đích của tôi


nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Địa lí
trong nhà trường giúp học sinh hiểu và nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng
và tư duy Địa lí, đạt kết quả cao nhất trong học tập bộ môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
-Một số tiết học Địa lí trong nhà trường.
-Học sinh trường THCS Quảng Thái
1.4. Phương pháp nghiên cứu
-Thông qua kinh nghiệm giảng dạy môn Địa lí cấp THCS trong nhiều năm
và kinh nghiệm nghiên cứu thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
-Phương pháp tìm hiểu nghiên cứu liên quan đến đề tài.
-Phương pháp khảo sát điều tra trên lớp thông qua các tiết dạy.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
1


Trên cơ sở những kết quả đạt được trong năm học 2016-2017 về thực hiện
nhiệm vụ cơ bản của ngành, năm học 2017-2018 ngành Giáo dục & Đào tạo tiếp
tục tập trung thực hiện thắng lợi chương trình hành động của chính phủ triển
khai Nghị quyết đại hội XII của Đảng. Năm học 2017-2018 là năm học mà toàn
ngành Giáo dục & Đào tạo đang nổ lực đổi mới phương pháp dạy hoc để đào tạo
ra những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, đẩy nhanh
sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Trước tình hình đó, đòi hỏi
đội ngũ giáo viên chúng ta phải không ngừng đổi mới, cải thiện nội dung,
phương pháp soạn giảng để trong mỗi tiết dạy, học sinh sẽ được họat động nhiều
hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trong là được suy nghĩ nhiều hơn trên con
đường chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để
thức hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ
động, tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học.
Quá trình dạy học bao gồm hai mặt liên quan chặt chẽ, hoạt động dạy của

thầy và hoạt động học của trò. Một hướng đang được quan tâm trong lí luận dạy
học là nghiên cứu sâu hơn về hoạt động học của trò rồi dựa trên việc học của trò
mà thiết kế hoạt động dạy của thầy. Điều này khác với các phương pháp dạy học
truyền thống là chỉ tập trung nghiên cứu kĩ nội dung bài học để thiết kế cách
truyền đạt kiến thức của thầy.
Trong hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tập trung thiết kế
các hoạt động của trò sao cho các em có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri
thức mới dưới sự hướng dẫn của thầy. Bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt động
học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học không chủ
động tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nổ lực của thầy sẽ không
đem lại kết quả tốt. [1]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trong những năm qua hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước nói
chung, ở các trương trong tỉnh, trong huyện nói riêng đã được tham dự các lớp
tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới phương pháp dạy học do
sở, phòng Giáo dục & Đào tạo tổ chức với nội dung triển khai một số phương
pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng Sơ đồ tư duy ( SĐTD). Có
thể nói rằng đây là một phương pháp dạy học rất quan trọng, vừa rất mới, rất
hiện đại lại rất hiệu quả đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc
tìm hiểu và sử dụng phương pháp dạy học bằng Sơ đồ tư duy trong quá trình
dạy học, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này đã thật sự đem lại luồng sinh
khí mới cho học sinh trong quá trình dạy học bộ môn Địa lí. Bước đầu đã giảm
bớt được tâm lí chán học Địa lí, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn
học, đồng thời đem đến cho các em cách nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng
phấn, lôi cuốn đối với môn học Địa lí .
Tuy nhiên, việc ứng dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học là vấn đề
còn khó khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn
Địa lí. Họ tỏ ra băn khoăn không biết sử dụng sơ đồ tư duy vào khâu nào trong
quá trình dạy học? Phương pháp thiết kế sơ đồ tư duy, hướng dẫn cách thức sử
dụng cho học sinh ra sao? …Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những

giáo viên chưa quen với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
2


Đầu năm học 2016 – 2017, tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công
day môn Địa lí khối 7-8 và hai lớp 6, hai lớp 9. Tất cả các em học sinh này ở
năm học trước học sinh còn ít được học tập bằng phương pháp sử dụng Sơ đồ tư
duy trong dạy học và kết quả học tập đạt được như sau:
Kh¶o s¸t chÊt lîng ®Çu n¨m nh sau: (Sĩ số: 415 em)
*Học lực:
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
2%
28%
61,2%
8,8%
0%
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước
hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:
2.3.1. Khái niệm: [2].
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi,
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu

cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh,
chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi
em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do
đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
2.3.2. Cấu tạo:
Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ
chủ đề.
Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý
chính.
Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó. [3].

3


2.3.3. Các bước thiết kế một SĐTD: [4].
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh
minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ
đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt
tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ
mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.

Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo
tác động trực quan, dễ nhớ.
Lưu ý:
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.
Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút
sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng
thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết
góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô
màu...
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
2.3.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học
sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.

2.3.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí:
Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy
4


học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ
đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em
chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài
nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên
hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa
phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất
chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không
biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều
học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để
lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn
kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong
quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy
tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Sơ đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu,
nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn
ngữ của mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực,
huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi
cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó
là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được
tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách
máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh
để phát triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào

hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung
quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng
(các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu
trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức
mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến
thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút.
Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với
bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì
ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách
sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm
Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như
Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần
mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông
tin.
*Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
5


6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
2.3.6. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:
+ Đối với giáo viên:
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có
liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu

liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind
Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện
ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...);
đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên
phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm
để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc
về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững
phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc
dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng,
liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
+ Đối với học sinh:
Người xưa có câu “Chưa học bò, chớ lo học chạy”. Quả đúng như vây.
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình
dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy
có sẵn, để các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt
chước” vẽ nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều
giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế,
học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo
lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do
các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt
đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình
cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm
quen” với SĐTD, theo cách sau đây:
* Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng
dẫn cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham
mưu cho Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận
lợi ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư
duy” (Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ chức theo
khối lớp giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn trường) để giới

thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em.(Lưu ý
rằng đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với
một phương pháp, kĩ thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành công, giáo
viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch,
trên bảng phụ... sau đó chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung .
2.3.7.Tổ chức dạy học với bản đồ tư duy
6


Bản đồ tư duy là phương pháp hỗ trợ tích cực cho tiết dạy, trong đó nó
bao gồm các hoạt động chủ yếu của học sinh, rèn luyện cho các em cách làm
việc nhóm, khả năng thuyết trình, liên hệ với thực tế, hệ thống hoá được kiến
thức, tránh được kiểu học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc. Với phương
pháp này không chỉ phát triển được trí tuệ của học sinh qua khả năng vẽ và viết
ngắn gọn, cô đọng nội dung bài học trên bản đồ tư duy, mà các em học sinh còn
hệ thống được kiến thức khi tổng hợp và chọn lọc ý để trình bày trên lược đồ.
Đối với các giáo viên dạy học bằng sơ đồ tư duy cũng giúp công việc dạy học đỡ
vất vả hơn, hạn chế được chữ viết chuyển sang hình thức kênh màu, kênh hình.
* Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra:
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ
đối với rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các
đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn
khoăn khi nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay
kiểm tra một tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
+ Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ

đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết
hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định
hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.
Ví dụ : kiểm tra bài cũ sau khi dạy bài 14 lớp 9. [5].
Em hãy điền đầy đủ thông tiên về cơ cấu ngành dịch vụ vào sơ đồ sau? [3].

Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận
xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành sơ đồ và đạt được nội dung kiến thức
sau:
[3].

Khi làm xong được bài tập này các em sẽ hình dung được cơ cấu ngành
dịch vụ của nước ta. Dịch vụ nước ta bao gồm: dịch vụ sản xuất, dịch vụ tiêu
dùng và dịch vụ công cộng.
Lưu ý:
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động
cá nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn
kiến thức đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các
em. Hết thời gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong
trước, có thể cần lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu
dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo không khí học
tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà
không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản,
7


nên những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian

kiểm tra bài cũ có hạn.
+ Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy
học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc
sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá,
chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến
thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua
trao đổi với anh chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm
trường ở những buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung
quan niệm xem SĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ,
minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng không thể dùng SĐTD thay cho
phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp
chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm chúng
trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm
được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học
bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết
kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học
sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp
phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới
thiệu, cung cấp kiến thức. Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ: Giáo viên dạy bài 22 môn Địa lí lớp 6. [5], [3].

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy học
bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi.
Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước
phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học,
có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm
kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá,
tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch,
có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học

được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng
đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh
tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra
mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội
dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho
phép chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy.
Mặt khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng
phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên
đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp, các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của
bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên
8


cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình,
“đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.
+Sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà theo nhóm học sinh:
Để củng cố và khắc sâu kiến thức thì việc làm một bài tập sẽ giúp học sinh
dễ dàng hơn. Khi làm một bài tập buộc các em phải động não tư duyvà nhớ lại
các kiến thức đã học để xâu chuỗi nó và hoàn thành. Vì làm bài tập về nhà sẽ có
nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên
giao cho học sinh (hoặc nhóm học sinh ) trước hết phải gắn với nội dung bài học
và trong điều kiện cho phép ( trình độ học sinh, điều kiện kinh tế …). Yêu cầu
của bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cũng cần sự đầu tư lớn
hơn( cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin…), qua đó còn thể hiện
cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệuhọc tập của học sinh. Bài tập về
nhà nên thiên về tính mở vì vậy giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm
kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu.
Để học sinh có thể chia sẻ với nhau về cách vẽ sơ đồ tư duy và tiết kiệm
thời gian khi tổ chức các hoạt động dạy học, cuối tiết học giáo viên tổ chức vẽ sơ

đồ tư duy thao cặp nhóm dựa vào các bước sau:
-Bước 1: Giáo viên chia nhóm học sinh và giao nhiệm vụ cho các nhóm
( học sinh nhóm đó phải khác nhau về trình độ và năng khiếu hội hoạ..).
-Bước 2: Học sinh trao đổi trong nhóm để vẽ sơ đồ tư duy. Giáo viên yêu
cầu các học sinh trong nhóm làm việc cá nhân trước, sau đó tập hợp lại và chia
sẻ thông tin với nhau. Giáo viên giám sát thảo luận phát hiện vấn đề còn gây
tranh luận ở mỗi nhóm nhưng không giải đáp thắc mắc ngay.
-Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày trước lớp nội dung bản đồ tư duy của
nhóm mình. Các nhóm khác nhận xét đúng sai hoặc đề xuất quan điểm của nhóm
mình. Giáo viên tổng kết, nhận xét ưu nhược điểm về nội dung và hình thức
trình bày của sơ đồ tư duy.
*Kết quả làm việc của học sinh sau khi học bài “Ô nhiễm môi trường ở đới
ôn hoà” môn Địa lí lớp 7 tại trường THCS Quảng Thái:
Nhóm 1:
Nhóm 2:
Nhóm 3:

Tổ chức cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo cặp, nhóm sẽ tạo ra nhiều sản
phẩm sơ đồ tư duy khác nhauvới cùng một nội dung. Như ba hình trên cùng một
nội dung của bài “Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hoà”, nhưng khi hoạt động
nhóm thì lại có nhiều sản phẩm khác nhau. Qua đó giáo viên có thể yêu cầu học
sinh tìm ra các phương pháp thể hiện ưu việt để các em học tập lẫn nhau cách vẽ
sơ đồ tư duy và động viên khuyến khích những nhóm học sinh có sản phẩm tốt
bằng cách cho điểm tối đa.
9


Tổ chức học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo cặp nhóm giúp các em biết cách lập kế
hoạch, phân công công việc, hợp tác với bạn để hoàn thành yêu cầu của giáo
viên đưa ra, học sinh có cơ hội phát huy tối đa sáng tạo của mình.

+ Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc ôn tập kiến thức:
Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và
hệ thống kiến thức đã học cho các em. Sau đây là một vài ví dụ:
Ví dụ 1: [5]. [3].
Ví dụ 2: Ôn tập Địa lí 9. [5]. [3].

Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một
công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử
dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động,
tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào
hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ
về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều
đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức
trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học
qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên
đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học.
Sử dụng sơ đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một
cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ
cần nhìn vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết
trình được nội dung bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một thời gian ứng dụng sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy
học môn Địa lí, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan. Trước
hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng sơ đồ tư
duy trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng sơ đồ tư duy một
cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài
cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thống kiến thức

các chương, phần....Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa
học hơn, nhanh hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng sơ đồ tư
duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung bình đã
biết dùngứơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan
trọng hơn là các em học tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Các em không còn tâm lý
chán học, ngại học môn Địa lí vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng
10


với việc học tập. Vì việc ứng dụng Sơ đồ tư duy không chỉ tạo tác động trực
quan lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn,
nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây.
Không những thế, nếu giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh sử dụng Sơ
đồ tư duy trong dạy học nhóm giúp thì nó sẽ giúp các em phát huy được tính
sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các
cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách
hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và
phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn.
Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh
tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp
phần đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với học sinh trường THCS
Quảng Thái chúng tôi.
Bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân tôi cùng với sự quan tâm của BGH và
tất cả các thầy cô trong nhà trường . Học sinh đã đạt được kết quả qua 2 kì học
tập bằng phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:
*Học lực kì I năm học 2017-2018 ( Sĩ số 413em)
Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

Kém

8,8%

38,5%

52,2%

0,5%

0%

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua quá trình giảng dạy và xây dựng sáng kiến kinh nghiệm tôi nhận thấy
sử dụng sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong dạy học bộ môn Địa lí ở
trường THCS vì nó giúp giáo viên và học sinhtrong việc trình bày các ý tưởng
một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, tích cực và độc lập. Học sinh sẽ học được
phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo
viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng
nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua sơ đồ tư duy thể hiện các
liên kết chặt chẽ của tri thức. Nhìn chung có thể sử dung tất cả các khâu của quá
trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao
bài tập về nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến

phức tạp; từ việc học cá nhân đến nhóm … . Vì vậy, việc tăng cường sử dụng sơ
đồ tư duy trong quá trình dạy học nói chung, trong đó có dạy học Địa lí là việc
làm rất cần thiết, hướng tới lấy người học làm trung tâm góp phần quan trọng
giúp học sinh hoàn thiện phương pháp tự học đáp ứng yêu cầu của phong trào
đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.2. Kiến nghị.
11


Muốn thực hiện thành công các ý tưởng, phương pháp dạy học mới phải
có sự hỗ trợ tích cực từ phía nhà trường, tổ chuyên môn, đồng nghiệp và sự nổ
lực của bản thân. Vì vậy tôi xin có những kiến nghị sau:
* Đối với ban giám hiệu nhà trường:
Hiệu phó chuyên môn phải là người gương mẫu, đi đầu trong đổi mới
phương pháp dạy học ( PPDH). Tổ chức, hướng dẫn giáo viên tích cực đổi mới
PPDH. chuẩn bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện phục
vụ công tác đổi mới PPDH.
Hiệu trưởng phải đánh giá đúng năng lực, trình độ giáo viên trong trường
để động viên, khen thưởng kịp thời đối với giáo viên luôn đổi mới PPDH tích
cực hiệu quả.
*Tổ chuyên môn:
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cốt cán để thực hiện đổi mới PPDH.
Tích cực dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn
đúng kế hoạch.
Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn.
Đánh giá, xếp loại giáo viên đúng năng lực, trình độ và đề xuất khen
thưởng kịp thời đối với những giáo viên tích cực trong đổi mới PPDH.
* Với giáo viên:
- Nhiệt tình, say mê với nghề, tận tuỵ với học sinh, luôn tạo hứng thú
trong học tập đặc biệt đối với môn Địa lí.

Cần nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản về Sơ đồ tư duy: Khái
niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp
và những tiện ích.
Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng SĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra
đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ
môn Địa lí.
Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế SĐTD tức là
phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết.
Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các SĐTD cần
thiết cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học.
* Đối với Sở, phòng GD&ĐT:
Cần tổ chức các lớp chuyên đề thường xuyên về đổi mới phương pháp dạy
học, sử dụng công nghệ thông tin và phần mềm sơ đồ tư duy.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá trình giảng dạy
ở trường THCS Quảng Thái - một ngôi trường mà nhiều học sinh còn khó khăn
trong cuộc sống như bố mẹ đi làm ăn xa phải sống tự lập khi đang còn nhỏ.
Nhưng bằng sự nổ lực của BGH, thầy cô giáo đặc biệt là các em học sinh, nhà
trường đã và đang cố gắng đưa sự nghiệp giáo dục xã nhà đi lên. Nhân đây rất
mong được sự góp ý chân thành của lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để
sáng kiến kinh nghiệm của tôi được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Thái, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
12


người khác.

Người viết

Trần Thị Bình

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lí luận dạy học địa lí – NXB đại học sư phạm Hà Nội của Nguyễn trọng
Phúc.
13


[2]. Phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực – nhà xuất bản Đại học sư
phạm Hà Nội 2004.
[3]. Phần mềm vẽ Sơ đồ tư duy Mind Map
[4]. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí THCS- nhà xuất bản GD Hà Nội 2006
[5]. Sách giáo khoa ,sách giáo viên Địa lí lớp 6,7,8,9.

MỤC LỤC
Nội Dung
1: MỞ ĐẦU

Trang
1
14


1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3.Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử
dụng để giải quyết vấn đề
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệmđối với hoạt
động giáo dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

1
1
1
1
1
1
2
3 - 14
14
15
15
16
18

15




×