Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn tích hợp kĩ năng sống cho học sinh thông qua truyện ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng trong chương trình ngữ văn 6 nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS nguyễn du – huyện quảng xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.02 KB, 25 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Thế giới xung quanh ta luôn biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó đã và
đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người trong đó
đáng chú ý là trẻ em ở mọi lứa tuổi. Các em đang ở giai đoạn hình thành và phát
triển nhân cách, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những đổi thay
không ngừng của xã hội. Đặc biệt trước những tác động không lành mạnh, các em
dễ dàng bị sa ngã. Vì vậy cần trang bị cho các em những cách sống trong đó có kĩ
năng sống (KNS) để thích ứng với xã hội hiện đại.
Nhằm trang bị cho các em những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù
hợp, hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh,tích cực; loại bỏ
những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, trong các tình huống và
hoạt động hàng ngày, đồng thời tạo cơ hội thuận lợi để các em thực hiện tốt quyền
và bổn phận của mình, năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đưa giáo dục KNS vào
giảng dạy trong trường học. Giáo dục KNS trong nhà trường được thực hiện bằng
nhiều con đường và hình thức khác nhau. Một trong những con đường đó là giáo
dục KNS thông qua dạy và học các môn văn hóa trong đó có môn Ngữ văn. Ngữ
văn là một môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính chất là
môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả
năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo
dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm
thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Ngữ
văn là một môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục KNS cho HS.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay vẫn còn có nhiều em thiếu tự tin,
thiếu tự lập, sống ích kỉ, luôn tỏ ra rụt rè trong giao tiếp hoặc không biết cách xử lí
tình huống khi gặp phải khó khăn, thậm chí có cả nạn bạo lực học đường thường
xảy ra. Đây cũng là nỗi băn khoăn, lo lắng của các bậc phụ huynh trước tình trạng
đó của con em mình. Về GV, vẫn có một số GV coi giáo dục KNS cho HS là thuộc
các môn: GDCD, môn Lịch sử, môn Địa lí…hay một số công tác khác như: công
tác Đoàn – Đội, công tác chủ nhiệm… mà chưa thấy hết vai trò, vị trí của môn
Ngữ văn trong việc giáo dục KNS cho các em. Trong giờ học, GV còn nặng về


nâng cao kiến thức, rèn luyện các kĩ năng phân tích,cảm thụ chứ chưa chú trọng
đến giáo dục KNS. Vì thế chưa phát huy hết vai trò, khả năng giáo dục KNS của
môn Ngữ văn.
Hình thành kỹ năng sống (KNS) cho con em trong lứa tuổi thanh, thiếu niên
đang là vấn đề được các bậc cha mẹ, thầy cô và cả xã hội quan tâm. KNS cho học
sinh hiểu theo cách đơn giản, gần gũi nhất thì đó là việc trang bị cho các em
những kỹ năng học tập, làm chủ bản thân, thích ứng và hòa nhập với cuộc sống,
làm việc… Những kỹ năng “mềm” này càng trở nên quan trọng đối với học sinh
phổ thong giúp các em ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống sau
này.
1


Trong nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT và THCS nói
chung, đặc biệt là năm học 2017 – 2018 cả huyện Quảng Xương đang triển khai
thực hiện Đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ năng
sống” . Vì vậy khi dạy môn Ngữ văn lớp 6, tôi thấy phần truyện ngụ ngôn không
chỉ có giá trị là những bài học răn dạy quý báu, mà còn là cả một kho kĩ năng sống
nếu người giáo viên biết cách khai thác. Những vấn đề trên tuy không khó nhưng
để thực hiện được thì đòi hỏi người giáo viên phải có cái tâm nghề nghiệp, phải
thật sự tâm huyết với nghề và hết lòng vì học sinh thân yêu mới có khả năng giáo
dục các em tự tìm tòi, học hỏi, tự vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc
sống. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Tích hợp kĩ năng sống cho học sinh
thông qua truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng trong chương trình Ngữ Văn 6
nhằm nâng cao chất lượng dạy học tại trường THCS Nguyễn Du – huyện
Quảng Xương”.
1.2.Mục đích nghiên cứu
Đề tài giúp các em học sinh trước hết hiểu và thấy được cái hay, cái sâu sắc
của những câu truyện ngụ ngôn đã học, đặc biệt là câu truyện Ếch ngồi đáy giếng,
các em hứng thú với tiết học về truyện ngụ ngôn nói riêng và với giờ học Ngữ văn

nói chung. Thấy hết được tác dụng của môn Ngữ văn với việc hình thành nhân
cách và phát triển toàn diện của học sinh.
Hiện nay, dạy học phải bám sát mục tiêu là phải phát huy tính tích cực của
học sinh, đòi hỏi người học sinh phải tự mình khám phá, chinh phục kiến thức,
không chỉ có thế, qua những kiến thức đó, người giáo viên cần phải hướng các em
học sinh làm sao hình thành được cho các em những kĩ năng cơ bản trong cuộc
sống như kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng hợp tác….
Bên cạnh đó giúp học sinh có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm biết
ứng xử linh hoạt, hiệu quả và tự tin trong các tình huống giao tiếp hằng ngày, có
suy nghĩ và hành động tích cực, có quyết định đúng đắn trong so sánh, có quan hệ
tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước những nguy cơ ảnh
hưởng đến sự an toàn và lành mạnh của cuộc sống.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp nhằm nâng cao kết quả học tập phần truyện ngụ ngôn cũng
như cách tích hợp giáo dục Kĩ năng sống trong một tiết dạy truyện ngụ ngôn Ếch
ngồi đáy giếng sao cho đạt hiệu quả tốt đối với học sinh lớp 6 – trường THCS
Nguyễn Du – Quảng Xương.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
1.5 Những điểm mới của SKKN
2


Từ câu truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng quen thuộc, các em học sinh
không chỉ thấy được những bài học sâu sắc cho mình mà còn tự rút ra và rèn luyện
được những Kĩ năng sống cho bản thân một cách tốt nhất để các em có thể tự tin
thể hiện mình trước đám đông, biết cách xử lí các tình huống đơn giản hay phức
tạp, thể hiện khả năng tiềm ẩn của mình và phát triển một cách toàn diện trong xã

hội năng dộng và hiện đại ngày nay.
Tất cả các kĩ năng mà truyện có thể đề cập đến đều là các kĩ năng tối thiểu
cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất cần thiết cho một con người thời hiện
đại.Khi lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống trong phần truyện ngụ ngôn, chắc chắn
sẽ được học sinh tiếp nhận một cách hứng thú và không bị gò ép mang tính áp đặt.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận
Vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn cấp Trung học cơ sở là một trong
những nội dung đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học trong chương trình
sách giáo khoa mới mà chúng ta đã thực hiện trong những năm qua. Trong chương
trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn không chỉ cần có sự tích hợp nội dung kiến
thức, kĩ năng của ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn mà còn phải tích
hợp nội dung kiến thức, kĩ năng của các môn học khác có liên quan, các vấn đề
trong thực tiễn đời sống và đặc biệt là các nội dung giáo dục thái độ tư tưởng cho
học sinh một cách linh hoạt, uyển chuyển và tinh tế. Đồng thời qua đó tăng cường
các kỹ năng “mềm” cho HS như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề với
hành vi và thái độ đúng mực, kỹ năng trình bày ý kiến, kỹ năng kiểm soát cảm
xúc, kỹ năng tạo thói quen tích cực, kỹ năng tự chăm sóc bản thân… từ đó hình
thành được nhân sinh quan, thế giới quan,thái độ sống tích cực và hành vi đúng
đắn cho học sinh.
Bước vào thời kỳ công nghệ 4.0 giáo dục thời đại mới đã và đang phấn đấu
đổi mới về nội dung, chất lượng và phương pháp sao cho đạt được 2 mục tiêu lớn
là đào tạo nguồn nhân lực và đào tạo kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên bên
cạnh những thành tựu đạt đuợc của toàn ngành thì gần đây chúng ta thường thấy
thực trạng trẻ vị thành niên có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về phạm
tội, về liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh, dễ mắc các tai tệ nạn xã hội, sống ích
kỷ, vô tâm, khép mình,….Đồng thời rèn kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng giải quyết vấn đề, khả năng tự phục vụ bản thân cũng là nhu cầu cần thiết…
Hơn thế nữa đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải tự tin; phải
nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống

lành mạnh, giỏi lập trình, giỏi tiếng Anh…
Kĩ năng sống, một vấn đề không mới trong giai đoạn hiện nay đối với giáo
dục, còn Truyện ngụ ngôn cũng là mảng truyện dân gian rất đỗi quen thuộc đối với
văn học nói chung. Nhưng để tích hợp kĩ năng sống trong khi dạy truyện ngụ ngôn
lại là đề tài chưa hề được thực hiện. Tất cả các kĩ năng mà truyện ngụ ngôn có thể
đề cập đến đều là các kĩ năng tối thiểu cho mỗi cá nhân, hơn thế nữa nó còn rất
3


cần thiết cho một con người thời hiện đại. Trong chương trình Ngữ văn lớp 6 có
ba truyện ngụ ngôn, đa phần đều là những câu chuyện rất quen thuộc với các em
học sinh, tuy nhiên việc chỉ ra Kĩ năng sống, hướng dẫn tích hợp, lồng ghép để
giáo dục kĩ năng sống có hiệu quả lại không đơn giản. Vậy tích hợp giáo dục Kĩ
năng sống trong khi dạy phần truyện ngụ ngôn, đặc biệt là truyện Ếch ngồi đáy
giếng ra sao để đạt hiệu quả, đó chính là một trong những lí do để tôi thực hiện đề
tài này.
2.2 Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
Trong những năm giảng dạy môn Ngữ văn ở cấp THCS huyện Quảng Xương,
tôi nhận thấy vấn đề tích hợp kĩ năng sống vào bộ môn không phải là điều mới, đa
số giáo viên đã thực hiện. Đặc biệt hơn trong năm học 2017-2018 tất cả các nhà
trường thực hiện Đề án “Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kĩ
năng sống” với 09 trường thí điểm, nên vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
được quan tâm hơn nhiều vì lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những
giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá, song còn
thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích
động. Nếu không được giáo dục KNS các em sẽ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu
cực, bạo lực và lối sống ích kỉ, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Chính vì vậy
vấn đề giáo dục kĩ năng sống và tích hợp giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học
trong đó có môn Ngữ văn rất được quan tâm.

Việc tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường THCS được tiến hành thông
qua môn học (nội khoá, ngoại khoá), thông qua việc dạy học tự chọn, qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp và hoạt động câu lạc bộ cũng không còn xa lạ với giáo viên
bởi họ đã được làm quen với cách thức tổ chức này (qua các đợt tập huấn tích hợp
một số mặt giáo dục khác của Phòng GD&ĐT ). Đây là một trong những điều kiện
thuận lợi cho việc đưa hoạt động giáo dục này vào nhà trường.
Hình thức tổ chức giáo dục Kĩ năng sống đã bước đầu được thực hiện trong
một số môn học, thông qua hoạt động ngoại khoá và sinh hoạt câu lạc bộ với nội
dung khá đa dạng. Lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống cho đối tượng học sinh lớp 6
– một lớp đối tượng khá non nớt nhưng cũng đủ nhận thức để rèn luyện các kĩ
năng cho bản thân mình là khá phù hợp.
Các trường trong huyện đều rất chú ý đến nội dung giáo dục Kĩ năng sống tích
hợp trong các hoạt động ngoại khóa, trong môn Hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong
tiết sinh hoạt và đặc biệt là lồng ghép trong khi dạy các môn văn hóa. Bản thân tôi,
luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các em học sinh khi thực hiện triển khai
đề tài này trong năm học 2017 – 2018.
2.2.2. Khó khăn
Vấn đề thời gian cũng là vấn đề quan trọng trong việc lồng ghép kĩ năng sống
vào tiết dạy, một tiết học thường đi rất nhanh phần lí thuyết, đôi khi hết giờ mà
học sinh chưa thực hiện được một kĩ năng nào, ngoài ra không có một tiết dạy kĩ
4


năng riêng cho học sinh, điều này cũng khó với giáo viên vì nếu quá chú trọng vào
giáo dục kĩ năng sống thì lại chậm tiến độ bài dạy theo Phân phối chương trình,
mà dạy cho kịp nội dung bài đôi khi lại rất khó lồng ghép Kĩ năng sống.
Khi thực hiện nhiệm vụ lồng ghép giáo dục Kĩ năng sống vào các môn học,
đặc biệt với môn Ngữ văn, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn (chưa có tài liệu cho
giáo viên và học sinh, kế hoạch thực hiện, tiêu chí đánh giá,…).
Tổ chức giáo dục kĩ năng sống có những đặc thù riêng khác với các hoạt

động giáo dục khác, nội dung giáo dục không chỉ diễn ra trong môn học mà còn
thông qua một số hoạt động khác (hoạt động ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho
nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện, điều này cũng không dễ thực
hiện.
Thói quen chú trọng vào kiến thức mang tính lý thuyết của giáo viên sẽ là
cản trở lớn khi triển khai giáo dục kĩ năng sống, loại hình giáo dục nhằm tạo thói
quen, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống.
Kết quả khảo sát KNS khi chưa áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
Lớp Tổng
Chưa biết
Nhận biết
Hiểu các
Vận dụng
Hs
KNS
được KNS
KNS
KNS
SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ


SL

Tỉ lệ

6C1

35

5

14,2%

13

37,2%

10

28,6%

7

20 %

6C2

36

7


19.4%

15

41.6%

9

25%

5

14 %

2. 3 Các giải pháp giải quyết đề tài
2.3.1. Nắm vững các KNS cơ bản được giáo dục trong mỗi bài học Ngữ văn
Mỗi bài học Ngữ văn đều có một số KNS cơ bản. GV cần căn cứ vào mục
tiêu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ ở mỗi bài học để xác định.
Mục tiêu KNS cần đạt của bài học Ếch ngồi đáy giếng là: Biết trao đổi, trình bày ý
kiến cá nhân về hiện trạng, về giải pháp để đấu tranh chống cái nhìn phiến diện,
một chiều về sự vật hiện tượng…
2.3.2. Thiết kế câu hỏi đảm bảo tính giáo dục để HS được làm và được trải
nghiệm
Để đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục trong một bài học Ngữ văn,
người GV phải thiết kế những câu hỏi phù hợp với yêu cầu đó nhằm nâng cao tư
duy và rèn luyện kĩ năng sống cho các em.Muốn hình thành kĩ năng sống là phải
làm và phải trải nghiệm nên khi tìm hiểu nội dung các bài học, tôi thường thiết kế
những câu hỏi có mục đích giáo dục như vậy.
2.3.3. Thực hiện tốt các hình thức hoạt động dạy học
Trong quá trình dạy học, tôi thường tổ chức một số hình thức hoạt động

như:
5


- Thảo luận nhóm: Tổ chức thảo luận nhóm để các em trao đổi và học hỏi lẫn
nhau. Thông qua hoạt động này không chỉ phát huy tính tích cực, tính trách nhiệm
mà còn phát triển kĩ năng hợp tác làm việc và kĩ năng giao tiếp cho HS. Vì thế, ở
hình thức này, tôi thường chú ý đến đối tượng HS yếu kém, tính còn rụt rè, thiếu
mạnh dạn, thiếu tự tin, nói năng còn lúng túng, vụng về. Khi đại diện nhóm lên
trình bày, tôi thường gọi những em này để rèn kĩ năng giao tiếp cho các em.
- Đóng vai nhân vật để xử lí tình huống: qua hình thức hoạt động này, HS biết
quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để
giải quyết vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Như vậy, kĩ năng giải quyết vấn
đề cho các em đã được hình thành.
- Tổ chức trò chơi : Hái hoa dân chủ: Tôi tổ chức trò chơi hái hoa dân chủ.
Trong mỗi bông hoa là mỗi câu hỏi hoặc yêu cầu về truyện Ngụ ngôn Ếch ngồi
đáy giếng mỗi HS hái một hoa và trình bày theo yêu cầu nội dung câu hỏi.
Đây là một trong những hoạt động dạy học mà HS yêu thích nhất vì nó kích
thích sự hứng thú học tập, làm cho tiết học thêm sinh động và hấp dẫn. Đồng thời
qua hình thức này GV cũng rèn được một số kĩ năng sống cho HS. Đó là kĩ năng
lắng nghe tích cực, kĩ năng thể hiện sự tự tin,kĩ năng giao tiếp, ứng xử.
Tổ chức tốt các hình thức dạy học là một trong những khâu quan trọng của
GV trong quá trình dạy học trên lớp. GV cần vận dụng linh hoạt để rèn các KNS
cho HS.
2.3.4. Kết hợp dạy học trên lớp với các hình thức ngoại khóa văn học
Ngoại khóa văn học có rất nhiều hình thức. Trong quá trình dạy học, tôi đã vận
dụng một số hình thức sau:
- HS trình bày trước lớp về bài thuyết trình như giới thiệu, phân tích, phát
biểu cảm nghĩ, đánh giá của chính mình về tác phẩm.
Sau mỗi bài thuyết trình, tôi cho các em nhận xét, đánh giá, đóng góp ý

kiến. GV tổng kết, ghi nhận những ý kiến của các em về phần thuyết trình.
- Đố vui để học văn: Đố vui là hỏi để thử trí thông minh đồng thời cũng nhằm
khắc sâu lại kiến thức đã học. Với hình thức này, tôi thường tổ chức lồng
ghép vào các tiết học phụ đạo. Các em rất thích thú và tìm tòi ra những câu
đố rất vui và hay để đố bạn.
- Những hình thức ngoại khóa như thế sẽ rèn thêm cho các em về các kĩ năng
như : giao tiếp, lựa chọn tìm tòi, tư duy sáng tạo, lắng nghe tích cực…
2.3.5: Tích hợp với các môn học khác
Một số văn bản trong chương trình Ngữ văn THCS có nội dung liên quan đến
những kiến thức của bộ môn học khác, GV cần nắm vững để liên hệ.
2.3.6. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về nguồn gốc truyện ngụ ngôn
Ngụ ngôn là một trong những thể loại tự sự cổ xưa nhất, ở Văn học dân gian của
mọi dân tộc đều có thơ hoặc truyện ngụ ngôn [1]. Ngụ ngôn xuất hiện trước công
nguyên trong kho tàng văn hóa các dân tộc như Hy Lạp, Ấn Độ, Ai Cập, Trung
Hoa... và xa xưa nhất có thể tính đến là những tác phẩm ngụ ngôn nửa thực nửa
6


truyền thuyết tương truyền do Ezop sáng tác, có tầm ảnh hưởng sâu rộng sang cả
vùng Trung Đông rồi ngược về phương Tây với Panchatantra của Ấn Độ thế kỷ 3
trước công nguyên...).
Ở Trung Quốc, ngụ ngôn cổ đại thâm nhập vào sách triết luận và chính luận của
"chư tử" như Trang Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử..., vào các truyện kể trung đại như
Bình thoại, Thoại bản và vào cả tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng
Long.
Ở Việt Nam, ngụ ngôn dân gian [3] tồn tại và nhiều truyện đã trở thành điển cố
văn học, như “Đẽo cày giữa đường”, “Thầy bói xem voi” v.v. Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc trong “Truyện cổ nước Nam” có chép một số ngụ ngôn dân gian. Trong
văn học viết có thể kể đến những tác phẩm như “Truyện hai ông Phật cãi nhau”
trong “Thánh Tông di thảo”, các truyện “Lục súc tranh công”, “Trinh thử” …

2.3.7.Tìm hiểu các truyện ngụ ngôn trong chương trình Ngữ văn 6 THCS
Truyện: Ếch ngồi đáy giếng[2]
a. Đặc điểm nội dung và nghệ thuật
- Truyện kể về một con ếch, sống trong môi trường có giới hạn nên hiểu biết
hạn hẹp mà huênh hoang. Khi thay đổi môi trường sống mà vẫn giữ thói cũ, nó bị
một con trâu dẫm bẹp.
- Sử dụng nghệ thuật kể chuyện ngụ ngôn: Mượn câu chuyện nhỏ về loài
vật để đưa ra bài học rất có ý nghĩa đối với con người.
- Truyện có nhiều hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
b. Bài học
Kể câu chuyện về con ếch, tác giả dân gian muốn gửi gắm người đọc những
bài học trong cuộc sống, trong ứng xử để có được những kinh nghiệm hay.
- Trước hết đó là bài học về tinh thần học hỏi. Dù cho môi trường sống có
hạn hẹp, có những giới hạn khó khăn, vẫn phải cố gắng mở rộng sự hiểu biết của
mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Phải biết những hạn chế của mình và phải
biết nhìn xa, trông rộng, đừng như con ếch kia, không có được những hiểu biết cần
có, để có được một kết cục không được tốt đẹp.
- Thứ hai, đó là bài học về tính cách. Không được chủ quan, kiêu ngạo, coi
thường những đối tượng chung quanh mình. Kẻ chủ quan, kiêu ngạo phải trả giá
đắt, có khi là tính mạng của chính mình.
2.3.8. Cách tích hợp cụ thể trong giờ dạy truyện ngụ ngôn
Có thể tích hợp lồng ghép trong khi giảng bài: Nghĩa là khi giáo viên dạy
đến nội dung nào, có khả năng liên hệ đến kĩ năng sống, giáo viên có thể rút ra kết
luận hoặc gợi mở để học sinh nhận thấy kĩ năng sống đó.
Khi dạy bài “ Ếch ngồi đáy giếng”, hình ảnh con ếch trong giếng huênh
hoang, tự cho mình là chúa tể, coi thường các con vật bé nhỏ như cua, nhái, ốc, lúc
nào cúng kêu ồm ộp và tự cho mình là chúa tể, giáo viên có thể liên hệ với cuộc
sống thực tế của học sinh trong gia đình. Nếu các em được bố mẹ, ông bà nuông
chiều, đôi khi các em cũng tự cho mình là “ chúa tể”, nghĩ mình là giỏi, là to nhất
7



và có những lời nói, hành vi không đúng mực. Điều đó sẽ làm cho ông bà, bố mẹ
phiền lòng. Vậy Kĩ năng sống rút ra đó là chúng ta cần nhận thức đúng về bản
thân, cần biết vị trí của mình trong gia đình, có cách nói năng, giao tiếp, ững xử
phù hợp để mọi người yêu quý. Đó là kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhân thức.
Kĩ năng sống cũng có thể được tích hợp trong phần Luyện tập, củng cố
cuối bài: Sau khi đã giảng xong nội dung chính của bài, giáo viên có thể gợi mở
để học sinh từ đó rút ra các kĩ năng sống có liên quan.
Tích hợp giáo dục Kĩ năng sống không chỉ sử dụng trong các văn bản
truyện ngụ ngôn ở lớp 6, mà còn có thể áp dụng với rất nhiều văn bản khác trong
chương trình Ngữ văn lớp 6 nói chung.
2.3.9. Một sô kĩ năng sống rút ra qua truyện ngụ ngôn: Ếch ngồi đáy giếng
- Kĩ năng giao tiếp: Con ếch trong câu chuyện có thái độ huênh hoang, nghĩ
mình là chúa tể, coi thường những con vật bé nhỏ sống xung quanh. Chính thái độ
ứng xử này trong giếng đã tạo thành thói quen nên khi ra khỏi giếng, vẫn giữ cách
ứng xử, giao tiếp như vậy mà nó đã bị trâu giẫm bẹp. Bài học Kĩ năng rút ra đó là
cần có thái độ ứng xử đúng mực, biết cảm thông, quan tâm đến người khác sẽ
được mọi người tin tưởng, yêu quý.
- Kĩ năng tự nhận thức bản thân: Con ếch chỉ sống trong giếng, thấy mình
là lớn nhất nên tưởng là chúa tể, nó không biết rằng trong cuộc sống rộng lớn thì
nó chỉ là một con vật bé nhỏ, tầm thường. Vì không biết mình, biết hoàn cảnh nên
nó đã phải trả giá đắt. Bài học Kĩ năng sống rút ra là cần biết mình, hiểu mình, xác
định những cảm xúc, nhu cầu, đặc điểm…của bản thân để có cách ứng xử tích cực
với cuộc sống.
- Kĩ năng xác định giá trị: Con ếch tự đề cao bản thân, có tính huênh
hoang, tự kiêu, nó đã “ phát huy” không đúng lúc tính cách của mình nên phải
chết. Bài học Kĩ năng sống là cần xác định điểm mạnh của bản thân để phát huy
nhưng cũng phải thấy được điểm yếu của mình để sửa chữa. Phát huy điểm mạnh,
hạn chế điểm yếu cần đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.

- Kĩ năng tư duy sáng tạo: Cuộc sống không phải lúc nào cũng theo ý muốn
của chúng ta, hoàn cảnh đôi khi sẽ đẩy chúng ta đến những vấn đề phức tạp, lúc
này cần suy nghĩ để tìm ra cách thích ứng và giải quyết tốt nhất chứ không như
con ếch khi ra khỏi giếng, không suy nghĩ, giữ cách sống bảo thủ mà phải mất
mạng. Bài học Kĩ năng sống rút ra là cần thích ứng nhanh với môi trường sống
mới, mà muốn thích ứng được thì phải suy nghĩ, tư duy, sáng tạo.

Như vậy để một tiết dạy học Ngữ văn nói chung, tiết dạy truyện ngụ ngôn
lồng ghép nội dung giáo dục Kĩ năng sống nói riêng thành công đòi hỏi người
giáo viên phải có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp mới vào từng
bài soạn, từng tiết dạy cụ thể:
- Giáo viên phải xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể cho môn mình dạy, tích
hợp Kĩ năng sống trong bài nào? Tiết nào?. Trên cơ sở sách giáo khoa, sách giáo
8


viên, tài liệu giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp theo đúng chuẩn kiến
thức – kĩ năng, bám sát vào đặc trưng bộ môn, bám sát yêu cầu, nguyên tắc tích
hợp không được biến giờ dạy ngữ văn thành tiết Hoạt động ngoài giờ hay ngoại
khóa về Kĩ năng sống.
- Không ngừng tìm tòi, tham khảo tài liệu để thiết kế một hệ thống câu hỏi hợp lí
nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Trong bài soạn cần xác định
rõ nội dung cần tích hợp, tích hợp trong phần nào của bài, liên hệ cụ thể như thế
nào cho hợp lí và có hiệu quả.
- Phải có sự vận dụng linh hoạt từng kiểu bài, đa dạng hóa các kiểu dạy học, các kĩ
thuật dạy học phù hợp. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học để
tiết học Ngữ văn sinh động, không nhàm chán.
2.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm:
ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNG
( Truyện ngụ ngôn )

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Mức độ cần đạt
Giúp HS :
- Có hiểu biết bước đầu về truyện ngụ ngôn
- Hiểu và cảm nhận được nội dung, ý nghĩa của truyện “Ếch ngồi đáy giếng”
- Nắm được những nét chính về nghệ thuật của truyện
2. Trọng tâm kiến thức
a. Kiến thức
- Đặc điểm của nhân vật, sự kiện, cốt truyện trong một tác phẩm ngụ ngôn
- Ý nghĩa giáo huấn sâu sắc của truyện ngụ ngôn
- Nghệ thuật đặc sắc của truyện : mượn chuyện loài vật để nói chuyện con người,
ẩn bài học triết lý; tình huống bất ngờ, hài hước, độc đáo
b. Kĩ năng
- Đọc – hiểu văn bản truyện ngụ ngôn
- Liên hệ các sự việc trong truyện với những tình huống, hoàn cảnh thực tế
- Kể lại được truyện
c. Thái độ
- Nhận thức được tác hại của chủ quan kiêu ngạo
- Có thái độ khiêm tốn, học hỏi trong cuộc sống
d. Định hướng hình thành năng lực :
- Nắm được được nội dung, ý nghĩa, đặc điểm nhân vật, sự kiện, cốt truyện và một
số nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngụ ngôn “ Ếch ngồi đáy giếng”.
-Rút ra được kĩ năng tự nhận thức bản thân, tư duy sáng tạo, xác định giá trị….và
liên hệ được các sự việc trong truyện với những tình huống, hoàn cảnh thực tế.
B. CÁC KNS CƠ BẢN ĐƯỢC GIÁO DỤC TRONG BÀI
- KN tự nhận thức
- KN giao tiếp
9



- KN lắng nghe tích cực
- KN xác định giá trị
- KN quản lý thời gian
- KN thương lượng
- KN ra quyết định
C. CÁC PHƯƠNG PHÁP/KỸ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
- Động não
- Khăn trải bàn
- Viết tích cực
- Phương pháp vấn đáp
D. CHUẨN BỊ
- Thầy : Giáo án điện tử
- Trò : Bài soạn, giấy khổ to, bút dạ, nam châm
E.TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Ổn định tổ chức
Kiểm tra bài cũ
Chọn đáp án đúng nhất :
1. Vì sao “ Thánh Gióng” được xếp vào thể loại truyền thuyết?
A. Đó là câu chuyện được kể truyền miệng từ đời này sang đời khác.
B. Đó là câu chuyện dân gian kể về các anh hùng thời xưa
C. Đó là câu chuyện có yếu tố tưởng tượng kì ảo
D. Đó là truyện dân gian, có nhiều yếu tố tưởng tượng kì ảo, có liên quan đến sự
thật lịch sử
2. Hình tượng Thánh Gióng thể hiện quan điểm và ước mơ của nhân dân ta về
người anh hùng đánh giặc.
A. Đúng
B. Sai
3. Ý nào không đúng khi nêu ý nghĩa của chi tiết tiếng nói đầu tiên của Gióng là
tiếng nói đòi đi đánh giặc ?
A. Ý thức đánh giặc cứu nước được đặt lên đầu tiên đối với người anh hùng

B. Ý thức đánh giặc cứu nước tạo cho người anh hùng những khả năng, hành động
khác thường, thần kỳ
C. Thể hiện người anh hùng phải khổng lồ cả về thể xác, sức mạnh, chiến công
D. Gióng là hình ảnh của nhân dân sẵn sàng đứng lên cứu nước
4. Chi tiết nào sau đây không là chi tiết tưởng tượng, kì ảo?
A. Gióng vươn vai biến thành một tráng sĩ
B. Bà con làng xóm góp gạo nuôi cậu bé
C. Đánh xong giặc, Gióng và ngựa từ từ bay lên trời
D. Tráng sĩ nhổ những cụm tre bên đường quật vào giặc
Tổ chức dạy và học bài mới
1 . KHỞI ĐỘNG
- Mục tiêu : Tạo tâm thế
10


- Thời gian : 2 phút
- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình
- Kỹ thuật : động não
Những tiết học trước các em đã được làm quen với một thể loại truyện dân
gian đó là truyền thuyết. Bài học hôm nay chúng ta đi vào tìm hiểu một thể loại
truyện dân gian khác qua văn bản “Ếch ngồi đáy giếng” .
(?) Em đã biết những gì về truyện “Ếch ngồi đáy giếng” ?
HS Thảo luận, cá nhân tự do phát biểu ( nhân vật chính, thể loại, phương thức biểu
đạt, tác giả…)
GV Nhận xét, dẫn vào nội dung chính
2. KẾT NỐI
HOẠT ĐỘNG 1 : Tìm hiểu chung
- Mục tiêu : Tìm hiểu chung về tác phẩm
- Thời gian : 10 phút
- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình

- Kĩ thuật : động não
Thầy
Trò
Kiến thức cần đạt
Yêu cầu HS đọc chú thích Giới thiệu thể loại I. TÌM HIỂU CHUNG
trong SGK
truyện ngụ ngôn
1. Chú thích
Chú thích này nói về nội
a. Thể loại truyện ngụ ngôn
dung gì?
(?) Nêu những đặc điểm
của thể loại truyện ngụ
ngôn?
Giảng : ngụ: hàm ý kín
đáo, ngôn: lời nói ; ngụ
ngôn : lời nói hàm chứa ý
kín đáo để người đọc,
người nghe tự suy ra mà
hiểu. Vì vậy truyện ngụ
ngôn thường có hai lớp
nghĩa. Lớp nghĩa đen:
nghĩa bề ngoài dễ nhận ra
: chuyện con vật, đồ vật ,
con người. Lớp nghĩa
bóng: bài học,ý tưởng sâu
kín trong câu chuyện.

Cá nhân phát biểu


- Hình thức : loại truyện kể bằng
văn xuôi hay văn vần
- Nội dung: Mượn chuyện về loài
vật, đồ vật hoặc chính con người
để nói bóng gió, kín đáo chuyện
con người
- Mục đích : Khuyên nhủ, răn dạy
con người ta bài học nào đó trong
cuộc sống

11


(?) Giải thích từ “nhâng
nháo”? Tìm những từ trái
nghĩa với từ “nhâng
nháo”

b.Chú thích khác

Cá nhân phát biểu
2. Đọc, kể
Hướng dẫn đọc

1 hs đọc

Yêu cầu một học sinh đọc HS khác nhận xét,
đọc lại
Yêu cầu hs quan sát 6 bức
tranh, sắp xếp lại các bức

tranh theo đúng trình tự
các sự việc trong truyện

4-5-1-6-2-3

a. Đọc
- Chậm rãi, xen chút hài hước, kín
đáo
b.Kể

Yêu cầu học sinh nhìn
tranh kể lại truyện: rõ
ràng, diễn cảm
Nhận xét, cho điểm
(?) Truyện được chia làm
mấy phần? nêu nội dung
Cá nhân phát biểu
từng phần?

c. Bố cục: 2 phần:
- Từ đầu….vị chúa tể: ếch ở đáy
giếng
- tiếp theo…hết: ếch ra ngoài giếng

HOẠT ĐỘNG 2 : Đọc – hiểu văn bản
- Mục tiêu : Tìm hiểu chung về tác phẩm
- Thời gian : 20 phút
- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình
12



- Kĩ thuật : Khăn trải bàn
Thầy
Trò
II. Hướng dẫn phân tích II. Đọc – hiểu VB
(?) Ếch sống trong môi
trường như thế nào?

Kiến thức cần đạt
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Ếch ở đáy giếng
- Môi trường:

Nhận xét của em về môi
trường , hoàn cảnh sống
ấy?

+ Sống lâu ngày trong giếng
+ Xung quanh chỉ có vài con vật
bé nhỏ
Nhỏ bé, chật hẹp, tăm tối
- Hành động: cất tiếng kêu ồm ộp
làm các con vật khác hoảng sợ

(?)Môi trường sống ấy đã
khiến Ếch có hành động,
suy nghĩ như thế nào?

- Suy nghĩ:


( ?)Thế nào là “chúa tể” ?
Những chi tiết trên cho
em thấy thái độ gì của
Ếch ?

+ Bầu trời chỉ bé bằng chiếc vung
+ Nó oai như một vị chúa tể
Trao đổi, thảo luận,Thái độ chủ quan, kiêu ngạo
cá nhân PB
Nhận xét , bổ sung

( ?)Qua phần đầu truyện, HS thảo luận cặp đôi
 Tầm nhìn của ếch hạn hẹp, hiểu
em hãy nêu những nhận chia sẻ
biết nông cạn do sống trong môi
xét về nhân vật chính ?
Đại diện phát biểu trường chật hẹp, nhỏ bé trong 1
thời gian dài.
Ếch chủ quan, kiêu ngạo, ảo tưởng,
ngộ nhận về mình .
Đáng tiếc sự chủ quan, kiêu ngạo
ngu ngốc ấy đã trở thành thói
quen, căn bệnh của ếch.
Môi trường hạn hẹp dễ khiến
13


Qua hình ảnh con Ếch
trong giếng em thấy môi
trường, hoàn cảnh sống

ảnh hưởng như thế nào
đến tính cách con người ?
Tác giả bày tỏ thái độ gì
đối với những con người
giống như con Ếch trong
giếng kia ?

người ta kiêu ngạo, không biết
thực chất về mình.
Phê phán những kẻ thiếu hiểu biết
nhưng chủ quan, kiêu ngạo.

* Liên hệ, mở rộng KNS :
( ?) Gia đình em có mấy
người ? em là con thứ
mấy trong gia đình ? em
có được bố mẹ quan tâm,
chăm sóc nhất nhà
không ?khi được cả nhà
quan tâm nhiều, em có
nghĩ mình là người quan
trọng nhất (chúa tể) của
gia đình không ?
Em có cách cư xử với mọi
người như thế nào ?
Kết luận : sống yêu
thương, hòa thuận với
mọi người chính là KNS
biết giao tiếp, ứng xử có
văn hóa, chung sống hòa

bình. Khi các em có KNS
này, các em sẽ được mọi
người tôn trọng, yêu quý.
Số phận của Ếch sẽ thay
đổi như thế nào khi ếch ra
khỏi giếng. Hãy đọc phần

2. Ếch ra ngoài giếng

14


2

Đọc phần 2

(?) Khi Ếch ra khỏi giếng,
môi trường, hoàn cảnh có Cá nhân phát biểu
sự thay đổi không? Thay
đổi như thế nào?

- Môi trường sống: Mênh mông
rộng lớn  hoàn cảnh thay đổi
nhiều.

(?) Khi hoàn cảnh đã thay
đổi, Ếch vẫn có hành
động, thái độ ra sao?
Nhận xét của em về thái
Cá nhân phát biểu

độ ấy?

- Hành động, thái độ:

(?) Ở thế giới mới này,
ếch đã nhận được kết cục
như thế nào? Kết cục này
có đau đớn, đáng thương,
đáng tiếc hay không?

+ Nhâng nháo nhìn bầu trời

(?) Theo em, Ếch có thể
không bị chết như vậy
không?

+ Nghênh ngang đi lại khắp nơi
+ Cất tiếng kêu ồm ộp

 Thái độ, nhận thức không thay
đổi.
Cá nhân phát biểu

- Kết cục bị một con trâu giẫm bẹp
Đau đơn, đáng thương, đáng tiếc

Chốt lại: Chúng ta cũng
như con Ếch kia nếu
không biết mình thì phải
biết người, tức là nếu

chúng ta thiếu KN tự
nhận thức thì chúng ta sẽ Thảo luận: Ếch có
nhận lấy những hậu quả thể không bị chết
nếu:
trong cuộc sống?
- Quan sát phải nhìn
ngắm đường đi và
(?) Qua cái chết không mọi sự xung quanh
đáng có của con Ếch, em
thấy tác giả muốn khuyên - Nhận thức được
mình chỉ là một con
chúng ta điều gì ?
vật bé nhỏ, thế giới
xung quanh thật
Mở rộng :
rộng lớn, mới lạ.
(?) Khi tham gia giao
15


thông ngoài đường, em
cần chú ý điều gì?
GV Định hướng các KNS
tự bảo vệ mình, KN tìm
kiếm sự hỗ trợ
Câu hỏi thảo luận: Qua
truyện ngụ ngôn “Ếch
ngồi đáy giếng”, em rút ra
được những bài học gì
Khái quát các KNS:

Kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tự nhận thức, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng thể
hiện sự tự tin

Khuyên nhủ con người không nên
chủ quan, kiêu ngạo, phải mở rộng
tầm hiểu biết của mình
Thảo luận kỹ thuật3. Bài học
khăn trải bàn:
- Dù môi trường, hoàn cảnh sống
Đại diện ba nhómhạn hẹp, khó khăn vẫn phải cố
treo bảng
gắng mở rộng sự hiểu biết của
mình, cần biết nhìn xa trông rộng
Các nhóm khác nhận
xét chéo
- Không được chủ quan, kiêu ngạo,
coi thường xung quanh.
- Không chủ quan,
kiêu
ngạo,
coi- Kẻ chủ quan, kiêu ngạo dễ bị trả
thường xung quanh giá đắt, thậm chí bằng cả tính
mạng
- Cần biết chung
sống hòa bình, hợp
tác có văn hóa với
mọi người
- Cần biết tích cực

học hỏi, tìm tòi mở
rộng vốn kiến thức
của mình dù hoàn
cảnh hạn hẹp, khó
khăn như thế nào.
- Cần biết quan sát,
lắng nghe những sự
thay đổi của cuộc
sống
- Cần thay đổi cách
sống, cách ứng xử
trong từng hoàn
16


cảnh khác nhau
- Nếu ở mãi trong
môi trường nhỏ bé
hạn hẹp, không được
giao lưu sẽ hạn chế
tầm hiểu biết của
mình
Ghi chú :
HOẠT ĐỘNG 3 : Tổng kết
- Mục tiêu : khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Thời gian : 3 phút
- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình
- Kĩ thuật : động não, trình bày
Thầy
Trò

Kiến thức cần đạt
III. Hướng dẫn tổng kết III. Tổng kết
III. TỔNG KẾT
Giáo viên chiếu câu hỏi:
Dòng nào nêu đúng
những nghệ thuật đặc sắc
của truyện?

1. Nghệ thuật

1. Biện pháp nghệ thuật
nhân hóa sinh động hấp
dẫn.

- Hình tượng ẩn dụ gần gũi với đời
sống, giàu ý nghĩa tượng trưng

2. Hình tượng ẩn dụ, giàu
ý nghĩa tượng trưng

- Biện pháp nghệ thuật nhân hóa
sinh động hấp dẫn.

- Lối kể bất ngờ, hài hước, kín đáo
- Lời văn ngắn gọn, giản dị

3. Lối kể bất ngờ, hài
hước, kín đáo
4. Nhiều chi tiết tưởng
tượng kỳ ảo ( ko đúng)

5. Hình tượng gần gũi với
đời sống
6. Lời văn ngắn gọn, giản
dị
17


Qua lớp nghĩa đen kể về
truyện con ếch, truyện
muốn khuyên nhủ, răn
dạy con người điều gì?

2. Nội dung

Ngoài thành ngữ “Ếch
ngồi đáy giếng” còn có
thành ngữ nào liên quan
tới bài học?

- Phê phán những kẻ hiểu biết cạn
hẹp mà lại huyênh hoang
- Khuyên nhủ con người phải cố
gắng mở rộng tầm nhìn, không
được chủ quan kiêu ngạo
Cá nhân phát biểu

Ghi chú :
Hoạt động 4. Luyện tập
- Mục tiêu : Củng cố kiến thức
- Thời gian : 5 phút

- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình
- Kĩ thuật : Thảo luận nhóm
Thầy
Trò
IV. Hướng dẫn luyện IV. Luyện tập
tập

Yêu cầu đọc bài tập

Quan sát, thực hiện
Cá nhân phát biểu
Nhận xét

Kiến thức cần đạt
IV. LUYỆN TẬP
Bài 1 : Khoanh tròn vào chữ cái đầu
của đáp án đúng
1. Mục đích chủ yếu của truyện ngụ
ngôn là gì ?
A. Kể chuyện
xúc

B. Thể hiện cảm

C. Gửi gắm ý tưởng bài học
D. Truyền đạt kinh nghiệm
2. Con người, con vật, đồ vật đều có
thể là nhân vật trong truyện ngụ ngôn.
A. Đúng


B. Sai
18


Bài 2: Tìm hai câu văn trong truyện
mà em cho là quan trọng nhất trong
việc thể hiện nội dung, ý nghĩa của
truyện
- Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé
bằng cái vung và nó thì oai như một vị
chúa tể : Môi trường nhỏ hẹp của ếch
và sự ngộ nhận, ảo tưởng về bản thân
của ếch

Yêu cầu đọc đề bài
Thảo luận cặp đôi

- Nó nhâng nháo đưa cặp mắt lên nhìn
bầu trời , chả thèm để ý đến xung
quanh nên đã bị một con trâu đi qua
giẫm bẹp : Thái độ chủ quan kiêu ngạo
của ếch và hậu quả nó phải chịu.

Ghi chú :
4. VẬN DỤNG
- Mục tiêu : Củng cố kiến thức
- Thời gian : 5 phút
- Phương pháp : Vấn đáp, thuyết trình
- Kĩ thuật : Viết tích cực
Viết một đoạn văn ngắn nêu một kỹ năng sống em nhận thức sâu sắc sau khi học

xong truyện này.
- Gợi ý : các KNS giao tiếp, tự nhận thức
IV. Hướng dẫn học bài và chuẩn bị bài
1. Hoàn thành bài tập phần vận dụng
2. Soạn bài “Thầy bói xem voi” – Suy nghĩ về các KNS trong văn bản
2.5. Hiệu quả của SKKN
Trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã cố gắng vận dụng tích hợp các
KNS và kĩ thuật dạy học tích cực vào một số bài có thể, đặc biệt là các tiết Ếch
ngồi đáy giếng. Kết quả cho thấy, học sinh đã bắt đầu quen với các thao tác của
các kĩ thuật dạy học, biết cách vận dụng các KNS vào tiết học làm cho tiết học sôi
nổi, hào hứng, cởi mở và đạt kết quả cao hơn.
Học sinh hứng thú học tập, được hoạt động một cách tích cực. các em nắm
vững lí thuyết biết vận dụng vào thực hành làm bài.Tôi rất phấn khởi vì các em
không chỉ có kiến thức mà còn có ý thức học tập yêu thích học môn Ngữ văn.
Kết quả KNS sau khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm:
19


Lớp

Tổng
Hs

Chưa biết
Nhận biết
Hiểu các
Vận dụng
KNS
được KNS
KNS

KNS
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
6C1
35
1(KT) 2,8 % 4
11,4%
10 28,6% 20 57.2%
6C2
36
0
0%
7
19.4%
9
25% 20 55.6 %
Chất lượng bộ môn: Kết quả khảo sát khi chưa áp dụng SKKN
Lớp Tổng
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Hs
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ

SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
6C1

35

5

13.5%

14

37.8%

17

45.9%

1

2.8%

6C2

36

3

8.3%


14

38.8%

18

50%

1

2.9%

Kết quả khảo sát sau khi áp dụng SKKN
Lớp Tổng hs
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
SL Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
6C1
35
8 22,8% 14
40%

12
34,3%
1
2,9%
6C2
36
9
25%
15 41,7%
11
30,5 %
1
2.8%
Trên đây là kết quả khảo sát hai lớp 6C1, 6C2. Khi chưa áp dụng SKKN,
nhìn chung các em mới chỉ dừng lại ở việc nhận biết được một số Kĩ năng sống,
thậm chí còn có em không phát hiện được các kĩ năng sống cơ bản, số em hiểu và
vận dụng Kĩ năng sống vào thực tế rất ít. Kết quả học tập của học sinh chưa cao,
điểm khá, giỏi của các em còn ít, chủ yếu đạt điểm trung bình. Điều đó chứng tỏ
các em chưa thấy hết được ý nghĩa giáo dục của truyện ngụ ngôn cũng như chưa
thấy được truyện ngụ ngôn giúp các em hình thành kĩ năng sống rất tốt.
Đối chiếu kết quả khảo sát khi đã áp dụng đề tài này, tôi thấy các em không
chỉ nhận biết được các Kĩ năng cơ bản mà còn hiểu và áp dụng các kĩ năng đã học
vào thực tế. Chất lượng học tập các văn bản truyện ngụ ngôn của hai lớp 6C1, 6C2
nâng lên rõ rệt. Kết quả điểm khá, giỏi, trung bình phản ánh đúng năng lực của các
em. Điều quan trong, các em say mê và hứng thú với văn chương, nhất là với Văn
học dân gian và truyện ngụ ngôn, thấy môn Ngữ văn không chỉ là những bài học
triết lí, đạo đức mà còn là giúp hình thành những kĩ năng vô cùng cần thiết cho
thực tế cuộc sống của các em.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

Qua thực tế giảng dạy và áp dụng sáng kiến này, tôi thấy muốn nâng cao
chất lượng dạy và học phần truyện ngụ ngôn, nâng cao hiệu quả giáo dục Kĩ năng
sống và tích hợp giáo dục Kĩ năng sống khi dạy truyện ngụ ngôn cho học sinh lớp
6, người giáo viên phải xác định đúng tầm quan trọng của mảng văn học này, nắm
được những nội dung , ý nghĩa cũng như đặc điểm thi pháp của truyện ngụ ngôn.
Đối với Kĩ năng sống cũng cần nắm chắc các kĩ năng cần thiết và phương pháp
20


dạy kĩ năng, phương pháp tích hợp, lồng ghép kĩ năng vào bài giảng. Có như vậy
mới đạt được kết quả tốt sau tiết học, các em học sinh sẽ không chỉ nắm được nội
dung, nghệ thuật của truyện mà còn biết rút ra các kĩ năng sống cần thiết, biết áp
dụng các kĩ năng này vào thực tế cuộc sống.
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào bài giảng thì không thể thiếu phần quan
trọng của các em học sinh, các em học sinh hai lớp 6C1 và 6C2 đã rất tích cực
tham gia các hoạt động kĩ năng, giúp đỡ tôi trong quá trình dạy trên lớp, hăng hái
học tập và sưu tầm tài liệu cho bài học….Quá trình nghiên cứu đề tài, tôi còn nhận
được sự giúp đỡ của các đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn của tổ đã góp ý để tôi
thực hiện đề tài.
Đề tài này chỉ là kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ quá trình tôi dạy
môn Ngữ văn lớp 6, đặc biệt là dạy phần truyện ngụ ngôn cho học sinh. Rất mong
nó sẽ đóng góp một phần nhỏ trong quá trình giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh,
quá trình cảm thụ các tác phẩm để giáo viên có thể truyền đạt được những kĩ năng
cần thiết, truyền đạt được cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc của tác phẩm ngụ ngôn và
người học có thể lĩnh hội được nhiều kiến thức truyện ngụ ngôn dân gian, có thêm
nhiều kĩ năng sống cho bản thân mình.
3.2.Kiến nghị
- Phòng GD&ĐT: cần mở thêm các lớp chuyên đề về dạy học tích hợp lồng
ghép các KNS cho học sinh thong qua bộ môn Ngữ văn.
- Nhà trường: cần tổ chức sinh hoạt chuyên môn với các tiết dạy đối chứng

chuyên đề tích hợp các KNS thong qua các bộ môn xã hội, nhất là môn Ngữ văn.
Đề tài này đã được dạy thực nghiệm và đạt được kết quả nhất định. Trong
phạm vi của đề tài không tránh khỏi những hạn chế, tôi rất mong nhận được sự
góp ý của các bạn đồng nghiệp để việc dạy phần truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy
giếng, đặc biệt là tích hợp nó với giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 6 và học
sinh THCS đạt hiệu quả cao nhất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Quảng Xương , ngày 26 tháng 4 năm 2018
Xác nhận của chuyên môn
Người viết:
Phó Trưởng Phòng GD&ĐT

Lê Hữu Quang

Nguyễn Hồng Cường

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khắc Phi ( Tổng chủ biên) – “Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6” – Tập
một – Nhà xuất bản Giáo dục
2. “Sách giáo viên Ngữ văn lớp 6” – Tập một – Nhà xuất bản Giáo dục
3. “Văn học dân gian Việt Nam” – Sách giáo trình Cao đẳng sư phạm – Nhà xuất
bản Giáo dục – 1998
4.Trương Chính – “Bình giải ngụ ngôn Việt Nam” – Nhà xuất bản Giáo dục –
1997
5. Ths tâm lí Đinh Đoàn – “Tài liệu tập huấn cho Tập huấn viên về Kĩ năng sống
cho trẻ em” – tài liệu của tổ chức World vision ( Tổ chức Tầm nhìn thế giới).
6. “Tài liệu tập huấn Xây dựng câu lạc bộ, tăng cường Kĩ năng sống cho học sinh

“– Tài liệu của dự án PTGDTHCS II.

22


7. Đoàn Thị Kim Nhung - “Phương pháp dạy học ngữ văn ở trường THCS theo
hướng tích hợp và tích cực” - NXB Đại học quốc gia TPHCM
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn ngữ văn trung học sơ sở ,
năm học 2010-2011– NXB Giáo dục Việt Nam

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lí chọn đề tài

1

1. 2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2


1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.5. Những điểm mới của SKKN

3

2. NỘI DUNG SKKN

3

2.1 Cơ sở lí luận của SKKN

3
23


2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

2.2.1. Thuận lợi
2.2.2. Khó khăn
2.3 Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

5

2.4. Thiết kế giáo án thực nghiệm: Ếch ngồi đáy giếng


9

2.5. Hiệu quả của SKKN

19

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

20

3.1. Kết luận

20

3.2 Kiến nghị

20

24


25


×