Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài tập học kỳ luật chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.89 KB, 15 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Sau hơn 18 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã góp
phần rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế. Thị trường
chứng khoán là công cụ hữu hiệu huy động, phân bổ nguồn vốn cho nên kinh tế.
Nhờ đó, kinh doanh chứng khoán là lựa chọn thích hợp để các doanh nghiệp huy
động vốn, nâng cao khả năng đầu tư, sức cạnh tranh trên thị trường. Các nhà đầu
tư cũng có thêm thị trường đầu tư vào chứng khoán, tuy có tỉnh rủi ro nhưng tính
sinh lời của chứng khoán cũng rất lớn. Là một thị trường phức tạp nên thì đòi
hỏi pháp luật phải có những quy định để điều chỉnh các hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Để nghiên cứu về hoạt động kinh doanh chứng khoán, em xin
chọn đề tài số 02: “Thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của
các chủ thể kinh doanh chứng khoán hiện nay – đánh giá và nhận xét”.
NỘI DUNG
I. Lý luận chung về kinh doanh chứng khoán
1. Khái niệm kinh doanh chứng khoán
Theo Khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 quy định: “Kinh
doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán,, lưu
ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán”. Với định nghĩa này, khái niệm kinh doanh chứng khoán được
hiểu theo nghĩa khá rộng và cơ bản tương đồng với khái niệm kinh doanh chứng
khoán trong pháp luật của các nước trên thế giới, tức là kinh doanh chứng khoán
là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán,
công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến
hành nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình hoặc cho khách hàng vì mục
tiêu lợi nhuận tối đa.
2.Đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù, có liên


quan trực tiếp đến quyền,lợi ích của các nhà đầu tư là công chứng và các doah
nghiệp. Vì thế, những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này phải thỏa mãn
một số điều kiện đặc biệt về tài chính, về pháp lý, vè cơ sở vật chất, kỹ thuật.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các
chứng khoán- giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Đây là hàng hóa
2


và dịch vụ đặc biệt- thị trường chứng khoán và các dịch vụ đó phải tuân thủ quy
chế pháp lý đặc biệt do pháp luật quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên
tắc đặc thù của thị trường chứng khoán. Để đảm bảo thực hiện các nguyên tắc
này thì pháp luật đã thể chế hóa thành văn bản pháp luật, từ đó giúp đảm bảo
cho sự vận hành an toàn, hiệu quả của thị trường chứng khoán đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán.
3. Chủ thể kinh doanh chứng khoán
Các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán bao
gồm: công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty
đầu tư chứng khoán. Ngoài ra còn có ngân hàng thương mại.
Công ty chứng khoán là pháp nhân hoạt động dưới hình thức công ty cổ
phần hoặc công ty TNHH. Đây là hai mô hình có ưu thế hơn so với những loại
hình doanh nghiệp khác về chế độ sở hữu, quản trị khả năng huy động vốn.
Thực hiện nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và
các nghiệp vụ tài chính khác.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là pháp nhân hoạt động dưới
hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH, thực hiện hay nghiệp vụ là quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, tư vấn đầu
tư.
Công ty đầu tư chứng khoán hoạt động dưới hinh thức công ty cổ phần
theoq uy định của Luật doanh nghiệp để đầu tư chứng khoán. Phaáp luật quy

định về công ty đầu tư chứng khoán vì mục đích điều chỉnh hướng tới những
nhà đầu tư chuyên nghiệp.
II. Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán
1. Môi giới chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 20 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “ Môi
giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng”. Về bản chất kinh tế, môi giới chứng khoán là loại hình hoạt động
kinh doanh chứng khoán, theo đó bên môi giới cam kết làm đại diện cho khách
hàng (người mua hoặc người bán) trong việc thực hiện các giao dịch mua chứng
khoán trên thị trường chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng để nhận được
tiền thù lao dịch vụ (hoa hồng môi giới).
3


Chủ thể: Hoạt động môi giới được thực hiện bởi chủ thể đặc thù là tổ
chức, cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Ở Việt Nam
chủ yếu được thực hiện bởi công ty chứng khoán. Để thực hiện hoạt động này,
nhà môi giới phải được cấp phép thành lập và hoạt động môi giới chứng khoán
đồng thời phải đăng ký kih doanh dịch vụ chứng khoán tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Ngân hàng cũng tham gia vào hoạt động môi giới chứng khoán
thông qua việc thành lập công ty chứng khoán độc lập bằng vốn tự có để công ty
chứng khoán này tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán độc lập và
chuyên biệt trên thị trường.
Hình thức: Hoạt động môi giới được thực hiện thông qua hợp đồng môi giới
chứng khoán Hợp đồng được giao kết giữa bên môi giới với bên được môi giới
(khách hàng) là người mua hoặc người bán chứng khoán. Tuân thủ các quy định
này, các công ty chứng khoán hiện nay đều soạn thảo các mẫu hợp đồng, bao
gồm các điều khoản luật định và điều khoản bổ sung nhằm giúp cho hoạt động
đăng ký diễn ra nhanh hơn, đáp ứng kịp thời cho số lượng khách hàng lớn.

Ngoài ra, luật quy định các trường hợp đặc biệt đối với nhân viên công ty chứng
khoán mở tài khoản giao dịch, công ty sẽ có trách nhiệm thông báo mã số tài
khoản của nhân viên cho UBCKNN, Trung tâm hoặc Sở giao dịch chứng khoán,
từ đó kiểm soát được hoạt động đầu tư chứng khoán của nhân viên, đảm bảo
công bằng với mọi khách hàng. Tuân thủ những quy định đó, các công ty chứng
khoán đều soạn thảo các mẫu hợp đồng, bao gồm các điều khoản luật định và
điều khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đăng ký tài khoản nhanh chóng cho số
lượng lớn khách hàng và đảm bảo bình đẳng giữa họ.
Nội dung: Nhà môi giới sử dụng chuyên môn nghiêp vụ và những hiểu
biết sâu rộng về chứng khoán để thực hiện công việc cho khách hàng. Trong quá
trình đó nhà môi giới có bổn phận phải đem hết khả năng để giúp khách hàng
theo đúng yêu cẩu và lợi ích của họ. Nhà môi giới có vai trò trung gian giữa
người mua và người bán chứng khoán. Bổi phận này chỉ được xem là hoàn
thành khi người mua đã mua được chứng khoán cần mua và người bán đã bán
được chứng khoán cần bán.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể:
- Yêu cầu khách hàng chuyển giao cho mình số chứng khoán cần bán hoặc số
tiền cần sử dụng để mua chứng khoán.Trả phí dịch vụ môi giới chứng khoán và
các khoản chi phí hợp lý khác

4


- Thực hiện việc mua hộ hoặc bán hộ chứng khoán theo đúng số lượng, loại
chứng khoán, giá cả theo yêu cầu
- Bảo quản các tài sản, hàng hóa của khách hàng nhờ môi giới,bí mật về thông
tin khách hàng….
2. Tự doanh chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 21 Điều 6 Luật chứng khoán : “Tự doanh chứng
khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”.

Tức là công ty chứng khoán tiến hành hoạt động mua bán chức khoán cho chính
mình, bằng nguồn vốn cả mình để thu lợi nhuận cho mình trên thị trường chứng
khoán.
Hoạt động này có bản chất kinh tế là nghề nghiệp kinh doanh, bàn chất
pháp lý là hành vi thương mại. Do bản chất đặc thù nên tự doanh chứng khoán
phải được cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh tại UBCKNN.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể : Đảm bảo đủ tiền và chứng khoán để
thanh toán; Sự tách biệt giữa nghĩa vụ tự doanh và nghĩa vụ môi giới; Ưu tiên
cho khách hàng khi thực hiện nghĩa vụ tự doanh (lập lệnh cho khách hang
trước); Phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác trong giao dịch trực
tiếp với khách hàng
Công ty chứng khoán có thể tiến hành hoạt động tự doanh trên cơ sở trực
tiếp ký kết các hợp đồng mua bán chứng khoán với khách hàng, hoặc đặt lệnh
mua, bán trên thị trường cho các nhà môi giới chứng khoán thực hiện thông qua
hợp đồng mua bán chứng khoán.
Thực tiễn cho thấy, công ty chứng khoán có vai trò rất lớn đối với hoạt
động tự doanh. Hầu như các công ty chứng khoán đều thực hiện nghiệp vụ tự
doanh chứng khoán. Với vai trò không chỉ là nhà đầu tư đơn thuần mà còn là
nhà tạo lập thị trường. Điều này thể hiện ở việc chứng khoán của công ty chứng
khoán phát hành tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường chứng khoán nhất định,
thu huýt được nhiều nhà đầu tư tới một loại chứng khoán chưa niêm yết.
3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán:“ Bảo lãnh phát
hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết việc tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán nhận mua một phần
hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua một số
5


chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức pháp hành, hoặc hỗ

trợ phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chứng”.
Bản chất: là hành vi cung ứng dịch vụ có tính chất thương mại để kiếm lời
chứ không phải hành vi đảm bảo nghĩa vụ dân sự giống như cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh…Hoạt động bảo lãnh chứng khoán cần phải thỏa mãn một số điều kiện
theo quy định của pháp luật.
Chủ thể thực hiện: công ty chứng khoán hoặc các chủ thể khác được phép
cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Các chủ thể này phải được
cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh với chính quyền về hoạt động.
Nghiệp vụ này giúp công ty chứng khoán tiếp cận sớm hơn với thông tin
phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành, thu phí từ việc cung cấp dịch vụ
này, đồng thời có nhiều khả năng đầu tư vào chính chứng khoán đó. Đối với tổ
chức phát hành, họ được thuận lợi trong việc chào bán khi được bảo lãnh, khả
năng cao chào bán thành công. Hơn nữa, trước khi thực hiện bảo lãnh, công ty
chứng khoán đồng thời có thể tư vấn phát hành cho chủ thể phát hành, giúp họ
không tốn phí lớn và thu về lượng vốn hợp lý từ đợt phát hành.
Lợi ích có được từ hoạt động bảo lãnh chứng khoán và phát hành chứng
khoán đều lớn, nhưng về rủi ro, thì phát hành chứng khoán ra công chúng khng
thành công hoặc tổ chức phát hành sau khi mua chứng khoán của tổ chức phát
hành lại mà không phân phối được cũng rất lớn. Để hạn chế rủi ro đó, pháp luật
đã đạt ra giới hạn tổng giá trị chứng khoán phát hành bảo lãnh không quá 30%
vốn tự có của tổ chức phát hành.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể:
- Yêu cầu tổ chức phát hành cung cấp các loại giấy tờ, tài liệu thong tin liên
quan đến thủ tục phát hành, số lượng, chủng loại chứng khoán dự kiến phát
hành; Quyền yêu cầu tổ chức phát hành chứng khoán thanh toán phí dịch vụ bảo
lãnh phát hành chứng khoán theo thỏa thuận
- Nghĩa vụ thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục chào bán và phân phối
chứng khoán ra công chúng; Nghĩa vụ mua lại số chứng khoán chưa được phân
phối hết cho người đầu tư trong trường hợp cam kết bảo lãnh chắc chắn; Thanh
toán số tiền thu được từ việc phát hành chứng khoán cho tổ chức phát hành

chứng khoán.

6


4. Tư vấn đầu tư chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 23 Điều 6 Luật chứng khoán: “Tư vấn đầu tư là
việc cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và
khuyến nghị liên quan đến chứng khoán”.
Chủ thể: công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Nội dung: công việc chủ yếu là phân tích các thông tin về chứng khoán,
cung cấp các kết quả phân tích về chứng khoán và thị trường chứng khoán; đưa
ra khuyến nghị cần thiết đối với khách hàng là đầu tư giúp họ có được các quyết
định đầu tư hợp lý và hiệu quả.
Hình thức: luôn luôn thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng dịch vụ tư
vấn đầu tư chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh đặc thù và có ảnh hưởng đến quyết định cuối
cùng của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thực tế, việc thưc hiện tư vấn
đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán được thực hiện bởi các chuyên gia
về chứng khoán với tư cách người đại diện cho công ty chứng khoán. Đối với
các tổ chức tín dụng nếu muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán với
nghiệp vụ tư vẫn chứng khoán thì phải thành lập công ty chứng khoán độc lập để
tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các công ty chứng khoán do
tổ chức tín dụng lập hoạt động với tư cách là công ty con của tổ chức tín dụng,
nhưng có hoạt động độc lập và nhân danh chính nó để giao dịch với khách hàng.
Với số người đầu tư vào chứng khoán ngày càng đông những kỹ năng,
kinh nghiệp thì có rất ít, sẽ đặt ra yêu cầu cần tư vấn chứng khoán,cũng vì thế là
nghiệp vụ này có tiềm năng phát triển rất lớn.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể:
- Nghĩa vụ thu thập, tìm hiểu thông tin về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư,

khả năng chấ p nhận rủi ro của khách hàng,bảo đảm các khuyến nghị, tư vấn phù
hợp với khách hàng.
- Nghĩa vụ cung cấp cho khách hàng các kết quả phân tích, công bố báo cáo
phân tích về chứng khoán và đưa ra khuyến nghị cụ thể về đầu tư chứng khoán.
- Quyền yêu cầu khách hàng trả phí dịch vụ tư vấn theo thỏa thuận trong hợp
đồng.

7


5. Lưu ký chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 24 Điều 6 Luật chứng khoán: “Lưu ký chứng
khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng,
giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán”. Đây
là nghiệp vụ phù trợ của UBCKNN cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu
ký, được trung tâm lưu ký chứng khoán chấp nhận là thành viên. Với giấy chứng
nhận đăng ký, các chủ thể được phép thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán phát
hành riêng lẻ, làm đại lý chuyển nhượng theo yêu cầu của tổ chức phát hành đối
với chứng khoán phát hành riêng lẻ.
Chủ thể: thực hiện bởi tổ chức kinh tế có đủ điều kiện tiến hành nghiệp vụ
lưu ký chứng khoán, bao gồm: Trung tâm lưu ký chứng khoán,công ty chứng
khoán và ngân hàng thương mại đã đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán.
Nội dung: Nhận ký gửi chứng khoán của khách hàng để bảo quản, chuyển
giao chứng khoán theo yêu cầu của khách hàng; giúp khách hàng thực hiện các
quyền của họ liên quan đến chứng khoán. Mỗi khách hàng có tài khoản lưu ký
cứng và chỉ có một tài khoản duy nhất. Các thông tin của khách hàng liên quan
đến nghiệp vụ lưu ký đều được bảo mật. Hành vi tiết lộ thông tin hay hành vi
khác xâm hại quyền lợi khách hàng đều dẫn đến nghĩa vụ bồi thường của chủ
thể thực hiện lưu ký.
Hình thức: thực hiện thông qua hợp đồng dịch vụ lưu ký chứng khoán.

Quyền và nghĩa vụ của chủ thể:
- Quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện
việc lưu ký chứng khoán. Quyền thu phí dịch vụ lưu ký chứng khoán đối với
khách hàng sử dụng dịch vụ.
- Nghĩa vụ thực hiện cho khách hàng các công việc liên quan đến dịch vụ lưu ký
chứng khoán đã cam kết; Bảo mật thông tin liên quan đến tài sản chứng khoán
của khách hàng đang lưu ký tại tổ chức.
Hiện nay, lưu ký chứng khoán được thực hiện theo hai cấp; trung tâm lưu
ký và thành viên lưu ký. Cả hai chỉ thể này đều được phép lưu ký chứng khoán
của công ty đại chúng, các thành viên phải tái lưu ký chứng khoán đó tại trung
tâm. Quy định này được đặt ra nhằm thực hiện lưu ký tập trung chứng khoán của
các công ty đại chúng.

8


6. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
Theo quy định tai Khoản 26 Điều 6 Luật chứng khoán: “Quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán là việc quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong
mua, bán, nắm, giữ chứng khoán”
Chủ thể: là quan hệ pháp sinh giữa hai chủ thể bao gồm bên cung ứng
dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán- bên được ủy quyền và bên sử
dụng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán- bên ủy quyền
Nội dung: thực hiện các hoạt động như thay mặt nhà đầu tư để tiến hành
các hoạt động mua, bán, nắm giữ chứng khoán và các tài sản đầu tư khác của
nhà đầu tư, vì quyền lợi của nhà đầu tư.
Hình thức: hoạt động thông qua hình thức pháp lý hợp đồng dịch vụ ủy
thác quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Việc ký hợp đồng này có thể xem
như cách thức duy nhất để công ty quản lý quỹ và khách hàng của họ thỏa mãn
nhu cầu của mình khi tham gia thị trường chứng khoán.

Quyền và nghĩa vụ:
- Quyền yêu cầu khách hàng chuyển giao cho mình các khoản tiền mà khách
hàng quyết định đầu tư vào chứng khoán, các loại chứng khoán, các tài sản đầu
tư khác cần được quản lý; yêu cầu khách hàng trả phí dịch vụ ủy thác quản lý
danh mục đầu tư chứng khoán.
- Nghĩa vụ thực hiện các công việc mà khách hàng ủy thác trong hợp đồng.
7. Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Theo quy định tại Khoản 27 Điều 6 Luật chứng khoán: “Quỹ đầu tư
chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi
nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản khác, kể cả bất
động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc
ra quyết định đầu tư của quỹ.”
Chủ thể: được thực hiện bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
Nội dung bao gồm các hoạt động: làm thủ tục thành lập quỹ đầu tư chứng
khoán; trực tiếp quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư của quỹ để đầu tư vào các
chứng khác và các tài sản khác trên thị trường vì quyền lợi của các nhà đầu tư,
thực hiện phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro cho các nhà đầu tư của quỹ đầu tư
chứng khoán.
9


Hình thức: thể hiện qua hợp đồng dịch vụ ủy thác quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể:
- Quyền yêu cầu các nhà đầu tư cung cấp cho mình những thông tin, tài liệu,
giấy tờ cần thiết cùng với nguồn vốn đầu tư để làm thủ tục thành lập quỹ đầu tư
chứng khoán. Yêu cầu khách hàng là các nhà đầu tư trả phí dịch vụ quản lý quỹ
đầu tư và các khoản tiền thưởng (nếu có) theo thỏa thuận trong hợp đồng.
- Nghĩa vụ thực hiện các công việc theo sự ủy thác của các nhà đầu tư trong hợp
đồng

III. Một số đánh giá, nhận xét về thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán và phương hướng
hoàn thiện
1. Đánh giá, nhận xét
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, các chủ thể kinh doanh
chứng khoán đã vận dụng một cách linh hoạt pháp luật, cùng với sự hỗ trợ của
nhà nước để tồn tại, phát triển nhanh chóng trong thị trường chứng khoán. Ví dụ
như, thực hiện quy định của Luật chứng khoán về đảm bảo yêu cầu vốn pháp
định, các chủ thể kinh doanh không đủ vốn đã rút nghiệp vụ hoặc tăng vốn để
đảm bảo yêu cầu. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán đã được UBCKNN cấp
phép. Đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính khác, trước khi thực hiện các chủ
thể thường báo cáo UBCKNN phương án, quy trình thực hiện, các biện pháp
quản trị rủi ro và tuần thủ các quy định của pháp luật.Việc thực hiện tốt các quy
định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh doanh
chứng khoán đã khiến hiệu quả của việc áp dụng pháp Luật chứng khoán tăng
lên.
Song song với việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật thì các chủ
thể kinh doanh chứng khoán còn hoạt thông theo nguyên tắc nghề nghiệp do
Hiệp hội chứng khoán đặt ra trên thị trường. Hiệp hội tập trung tham gia ý kiến
để nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán với tư cách là một kênh huy
động vốn; phát hành chứng khoán ra công chúng; tham gia vào việc xây dựng
chính sách nhằm bảo vệ tốt hơn các nhà đầu tư đơn lẻ, nhằm giúp các chủ thể
kinh doanh nhỏ lẻ vươn lên phát triển về cả quy mô và chất lượng. Nhờ đó mà
các hoạt động kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh doanh góp phần lớn
điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường.
10


Hiện nay, hầu hết các công ty chứng khoán đều có hoạt động tự doanh.
Hoạt động tự danh ngoài mục đích đem lại lợi nhuận cho công ty mà còn góp

phần can thiệt, điều tiết giá chứng khoán, tạo lập thì trường chứng khoán cho các
công ty chứng khoán mới phát hành và thu gom cổ phiếu lo lẻ cho khách hàng
mình.Tuy nhiên, với lợi thế về thông tin, không loại trừ khả năng các công ty
này sẽ “làm giá” cổ phiếu để thu lợi. Để tư vấn cho nhà đầu tư, các công ty
chứng khoán thường xuyên đưa ra các bản phân tích về thị trường. Trong các
bản báo cáo này, doanh nghiệp đưa ra những mã cổ phiếu tiêu biểu để nhà đầu tư
tham khảo và lựa chọn cổ phiếu để mua. Các công ty chứng khoán đang có
chiêu thức làm giá một vài mã cổ phiếu bằng cách cung cấp phân tích tốt về một
mã cổ phiếu nào đó rồi tư vấn cho khách mua vào. Sau đó, nhờ phương tiện
truyền thông đưa tin để PR, khi giá cổ phiếu này đạt đỉnh thì họ tung ra bán.
Mảng tư vấn phát hành cổ phiếu cũng là điều kiện thuận lợi cho các công ty
chứng khoán tiếp cận nguồn thông tin nội bộ của các doanh nghiệp. Với hoạt
động này, công ty chứng khoán có thể nhận mua một phần hay toàn bộ chứng
khoán của doanh nghiệp để đầu tư. Sau khi mua số cổ phiếu này, công ty chứng
khoán tiến hành công bố những mức lợi nhuận đáng mớ ước có thể có và không
công bố những mặt yếu kém của doanh nghiệp, để bản thân kiếm nhiều lời. Với
những hoạt động này, các công ty chứng khoán đã có hành vi đầu cơ cổ phiếu,
tạo lợi nhuận cho chính mình nhưng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Hiệu quả của việc áp dụng các quy định
của pháp luật về kinh doanh chứng khoán nói chung và quy định về hoạt động tự
doanh nói riêng vì thế bị giảm sút đi rất nhiều.
Tính minh bạch trên thị trường chứng khoán chưa cao, dẫn đến mức hiệu
quả thị trường chứng khoán còn thấp; tình trạng đầu tư theo tâm lý số đông còn
khá phổ biến. Những vấn đề này làm cho thông tin trên thị trường không phản
ánh hết qua giá hứng khoán. Do đó, việc xây dựng và quản lý danh mục đầu tư
theo lý thuyết về danh mục đầu tư còn nhiều hạn chế1.
Một số công ty chứng khoán phản ánh về tình trạng nhân viên công ty có
hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán. Nhiều nhân
viên chuyển công tác sang công ty mới ,lôi kéo khách hàng của họ sang công ty
mới, đồng thời đưa ra thông tin bất lợi về công ty cũ.

Tình trạng các nhân viên CTCK mở nhiều tài khoản tại chính công ty của
mình. Theo quy định của pháp luật kinh doanh chứng khoán, nếu các nhân viên
1 Học

viện ngân hàng, Luận án Tiến sĩ: Trần Văn Trí, Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam, Hà Nội, 2015,tr.122
11


của CTCK muốn đầu tư, chỉ được phép mở một tài khoản tại chính đơn vị mình.
Quy định mở và giao dịch trên một tài khoản duy nhất cũng áp dụng chung cho
tất cả các nhà đầu tư, cá nhân khác trên thị trường, không chỉ đối với nhân viên
công ty chứng khoán. Tuy nhiên tại nhiều sàn chứng khoán đã phát hiện nhiều
nhân viên công ty chứng khoán vi phạm vì lợi ích cá nhân hoặc thông đồng với
những nhà đầu tư lớn để trục lợi.
2. Một số phương hướng hoàn thiện việc áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán
Để tiếp tục thu hút và đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư, cần phải thay
đổi, khắc phục những hạn chế trên. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán cần
liên tục cải tiến công nghệ, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro, không ngừng
nâng cao chất lượng tư vấn đầu tư; triển khai những sản phẩm mới cho thị
trường, cung cấp cho nhà đầu tư các công cụ đa dạng để có thể bảo vệ cho
khoản đầu tư của mình, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, coi đó là
công tác trọng tâm trong hoạt động hàng ngày của công ty. Đồng thời, thay đổi
cơ sở hạ tầng, cải tiến hơn nữa để bắt kịp các chuẩn mực của khu vực.
Các công ty chứng khoán sẽ tăng nguồn thu từ dịch vụ giữ vai trò chủ
đạo, giảm dần sự phụ thuộc vào hoạt động từ doanh thu tự doanh và nguồn
doanh thu này mang tính không ổn định, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thị
trường. Cần xem xét hoàn thiện hơn quy định của pháp luật chứng khoán nhằm
tạo nên những quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu hơn tạo điều kiện thuận lợi cho

các chủ thể kinh doanh chứng khoán trong quá trình áp dụng pháp luật kinh
doanh chứng khoán. Nếu xét đến nội dung hoạt động đầu tư chứng khoán thông
qua chứng chỉ quỹ đầu tư thì cơ chế hoạt động của công ty quản lý quỹ là cơ chế
ba bên: công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát, nhà đầu
tư. Thực tiễn thị trường thời gian qua cho thấy chưa có nhiều công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán nào chính thức ra đời. Pháp luật chỉ quy định đây là
pháp nhân thực hiện hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nhưng bản chất
của nó có phải công ty chứng khoán không lại chưa có khẳng định rõ ràng.Pháp
luật cần có quy định rõ ràng hơn về vấn đề này.
Pháp luật nên có quy định rõ ràng về biện pháp cũng như chế tài cần thiết
trong áp dụng và thực thi pháp luật về kinh doanh chứng khoán nhằm bảo vệ
quyền lợi của các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Điển hình như việc pháp
luật chưa có quy định rõ ràng về biện pháp thực hiện cũng như chế tài cần thiết
mặc dù Luật chứng khoán đã quy định về việc tách bạch hoạt động môi giới với
12


hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán. Không làm được điều đó, những
quy định khác nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư sẽ giảm hiệu quả.
Tính toán và công bố rộng rãi thông tin kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho
các chủ thể kinh doanh cũng như nhà đầu dễ dàng tiếp cần. Hoàn thiện hơn nữa
hệ thống công bố thông tin điện tử để hỗ trợ cho hoạt động thu thập, theo dõi
thông tin trên thị trường chứng khoán, tạo điều kiện để thị trường phản ứng
nhanh và đầy đủ giá chứng khoán.2
Tăng cường công tác giám sát thị trường chứng khoán thông qua vai trò
của công ty chứng khoán. Phát huy vai trò của công ty chứng khoán trên thị
trường. Đội ngũ nhân viên, chuyên gia có trình độ chuyên sâu, vững vàng trong
lĩnh vực chứng khoán có thể phát hiện và ngăn chặn từ đầu các hành vi giao dịch
bất thường.Công ty chúng khoán cùng Sở Giao dịch Chứng khoán, Ủy ban
chứng khoán Nhà nước tạo thành hệ thốn giám sát thị trường chặt chẽ và hiệu

quả.3
Yêu cầu pháp luật về đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp của những người
làm hoạt động tư vấn. Hoạt độngtư vấn đầu tư có thể mang lại nguồn lợi nhuận
lớn cho nhà đầu tư, nhưng cũng có thể dẫn họ đến những hậu quả xấu, thậm chí
là phá sản. Vì vậy, yêu cầu chuyên môn đạo đức, nghề nghiệp của những nhà tư
vấn thường đòi hỏi rất cao để đảm bảo cho hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
chứng khoán trong kinh doanh chứng khoán cũng như hoạt động tư vấn đầu tư
chứng khoán Có thể thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả áp dụng pháp
luật về KDCK. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc áp dụng pháp luật về
kinh doanh chứng khoán cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố khác nhau.
Việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về KDCK có ý nghĩa quan trọng trong
việc thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam.

2 Học viện ngân hàng, Luận án Tiến sĩ: Trần Văn Trí, Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư

chứng khoán ở Việt Nam, Hà Nội, 2015, tr.128.
3 Học viện ngân hàng, Luận án Tiến sĩ: Trần Văn Trí, Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư

chứng khoán ở Việt Nam, Hà Nội, 2015,tr.135.

13


KẾT LUẬN
Trên đây là những tìm hiểu về quy định của pháp luật kinh doanh chứng
khoán cũng như thực tiễn áp dụng của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán chưa phải là lĩnh vực thế mạnh trong nền kinh tế của
Việt Nam nhưng những quy định hiện nay của luật chứng khoán và các văn bản
hướng dẫn cơ bản phù hợp với thị trường chứng khoán Việt Nam. Góp phần
quản lý và điều hòa hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh đó, cũng có

một số hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các chủ thể kinh doanh chứng khoán trong quá trình áp dụng pháp luật.

14


1.
2.
3.
4.
5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Chứng khoán Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2014
TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ kinh doanh và đầu tư chứng khoán,
Nxb.Thống kê, Hà Nội, 2009.
Học viện ngân hàng, Luận án Tiến sĩ: Trần Văn Trí, Xây dựng và quản lý
danh mục đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, Hà Nội, 2015
Luật chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010
/>
15



×