Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

ĐỀ tài NHẬN THỨC về DH TRONG TRƯỜNG MN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.17 KB, 57 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là khâu đầu tiên,
giáo viên mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc
đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội tương lai. Có thể nói nhân cách
con người trong tương lai như thế nào phụ thuộc phần lớn vào nền móng của
sự phát triển trong thời kỳ đầu này.
Dạy học trong trường mầm non là một loại hình lao động đặc thù, khác
với các loại hình khác về mục đích, đối tượng, công cụ, sản phẩm lao động.
Dạy học ở trường phổ thông là đào tạo học sinh, chuẩn bị cho các em bước
vào đời: trở thành người lao động, người học nghề trong các trường dạy nghề
bậc Trung học hay bậc Đại học. Còn dạy học ở trường mầm non là phát triển
những chúc năng tâm lý chung, chuẩn bị cho trẻ bước vào trường phổ thông,
thực hiện một cách thuận lợi hoạt động học tập để tiếp thu dễ dàng các tri
thức khoa học ở các lĩnh vực khác nhau. Dạy học ở trường mầm non có thể ví
như việc ươm những mầm non khoẻ mạnh, bụ bẫm, uyển chuyển, mềm mại
có sức sống mãnh liệt để trở thành cây cao bóng cả sau này. Trong hoạt động
dạy học đó, người giáo viên mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt
nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người cho xã hội tương lai.
Trong thực tế nhiều người có nhận thức chưa đúng về dạy học trong
trường mầm non, dẫn đến hiệu quả của quá trình này không cao. Vì thế nhận
thức về dạy học trong trường mầm non là một phần không thể thiếu được
trong hành trang của mỗi sinh viên khoa Giáo dục Mầm non. Việc nhận thức
đầy đủ, đúng đắn về dạy học trong trường mầm non sẽ giúp cho sinh viên có
thái độ học tập tích cực, chủ động, luôn luôn rèn luyện, tu dưỡng để đáp ứng
yêu cầu của nghề nghiệp, nhanh chóng thích ứng với nghề mình đã chọn.
Ngược lại, nếu sinh viên chưa có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nghề


1


mình đã chọn thì sẽ dẫn đến thái độ chán nản, thiếu tích cực trong học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, ảnh huởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nhận thức về dạy
học trong trường Mầm non của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non – Trường
Cao đẳng sư phạm Nghệ an” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy học và thực trạng nhận thức của sinh
viên về dạy học trong trường Mầm non. Từ đó đề xuất một số biện pháp nâng
cao nhận thức của sinh viên về dạy học trong trường Mầm non.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm
non – Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ an về dạy học trong trường Mầm non.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài khảo sát trên 104 sinh viên hệ cao đẳng
(K8A, K8B, K9A, K9B) khoa Giáo dục Mầm non – Trường Cao đẳng sư
phạm Nghệ an về các vấn đề: Nhận thức về vị trí, ý nghĩa, mục đích, nội
dung, hình thức, phương pháp, các nguyên tắc dạy học trong trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Xác định được biện pháp nâng cao nhận thức cho sinh viên về dạy học
trong trường Mầm non thì sẽ góp phần phát triển bậc học, ngành học Mầm
non cả về số lượng và chất lượng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy học và dạy học trong trường Mầm non.
- Khảo sát thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non –
Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ an về dạy học trong trường Mầm non.
- Đề xuất một số biện pháp pháp nâng cao nhận thức cho sinh viên về
dạy học trong trường Mầm non.
2



6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, khái quát
hoá, hệ thống hoá các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, trò chuyện,
nghiên cứu sản phẩm hoạt động, đàm thoại.
- Nhóm phương pháp hỗ trợ: thống kê toán học.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Về lý luận: Đề tài đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về dạy học và dạy
học trong trường mầm non, góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về
dạy học nói chung và dạy học trong trường mầm non nói riêng.
- Về thực tiễn: Đề tài đã làm sáng tỏ thực trạng nhận thức của sinh viên
khoa Giáo dục Mầm non – Trường Cao đẳng sư phạm Nghệ an về dạy học
trong trường Mầm non, chỉ rõ ảnh hưởng của thực trạng này và xây dựng biện
pháp nâng cao nhận thức cho sinh viên về dạy học trong trường Mầm non.
8. Dàn ý nội dung
Mở đầu
Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

Chương II: Thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm
non về dạy học trong trường mầm non
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

3



NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Giáo dục mầm non nói chung và dạy học trong trường mầm non nói
riêng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Có rất nhiều nhà
nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu về mục đích, nội dung, đối tượng, hình
thức tổ chức dạy học, các nguyên tắc dạy học,… ở bậc giáo dục mầm non.
1.1.1. Ở nước ngoài
Nhà Tâm lý học Thụy sĩ J.Piaget đã dày công nghiên cứu về tâm lý trẻ
em và dựa vào kết quả nghiên cứu này, ông đã xác định được đặc điểm trí tuệ,
tư duy của trẻ, vai trò của sự luyện tập và kinh nghiệm thu được thông qua
hoạt động với đối tượng.
Tác giả A.V.Petrovski (Liên Xô) đã xuất bản cuốn sách: “Tâm lý học lứa
tuổi và tâm lý học sư phạm”, trong đó đề cập tới những cơ sở tâm lý học của
dạy học và giáo dục.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tác giả Đào Thanh Âm, Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hoà, Đinh
Văn Vang đã xuất bản cuốn sách: “Giáo dục học mầm non” (tập 3), trình bày
một cách có hệ thống về mục đích, ý nghĩa, nội dung, hình thức tổ chức dạy
học trong trường mầm non.
Tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết (chủ biên) cùng với cuốn sách: “Tâm lý
học trẻ em lứa tuổi mầm non” đã trình bày một cách có hệ thống những đặc
điểm tâm lý của trẻ em lứa tuổi mầm non.
Năm 2004, tác giả Phạm Như Quỳnh đã nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu
nhận thức của sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học sư phạm Hà Nội về nghề
dạy học” (khoá luận tốt nghiệp), …


4


Như vậy, có thể nói rằng: dạy học ở bậc giáo dục mầm non nói chung và
dạy học trong trường mầm non nói riêng là một vấn đề luôn thu hút sự quan
tâm, chú ý của nhiều người. Đây sẽ là cơ sở khoa học, tạo điều kiện thuận lợi
cho những nghiên cứu khoa học sau này.
1.2.

Khái quát chung về nhận thức
1.2.1. Khái niệm về nhận thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: “Nhận thức là sự phản ánh
hiện thực khác quan vào bộ óc con người” (Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo
dục, 1997).
Hiện thực khách quan bao gồm tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại độc
lập với ý thức chủ quan của con người. Khi các sự vật, hiện tượng này tác
động vào bộ não, não nhận tác động của hiện thực khách quan và để lại dấu
vết của nó trên não. Qua đó con người nắm được các thuộc tính, tính chất, đặc
điểm, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng, tạo ra hệ thống kiến thức về
thế giới khách quan.
Theo C.Mac – Ph.Ăngghen: “Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc của con người. Sự phản ánh đó không phải là hành động nhất
thời, máy móc, giản đơn và thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt
động trí tuệ tích cực và sáng tạo” (C.Mac – Ph.Ăngghen, Tuyển tập tuổi trẻ,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1959).
Theo V.I.Lenin: “Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con
người, nhưng nó không phải chỉ là sự phản ánh đơn thuần, trực tiếp, hoàn
chỉnh mà là cả quá trình, cả một chuỗi sự trừu tượng, sự cấu thành và sự hình

thành các khái niệm, các quy luật và chính xác các khái niệm, quy luật bao
quát một cách có điều kiện gần đúng, tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên
vĩnh viễn vận động, phát triển” (V.I.Lenin, Bút kí triết học, NXB Sự thật, 1963).
Dưới góc độ Tâm lý học: nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời
sống tâm lý con người (nhận thức, tình cảm, hoạt động). Trong đó nhận thức
5


có vị trí rất quan trọng, nó có quan hệ chặt chẽ, chi phối các mặt tình cảm,
hoạt động của con người. Nhận thức giúp con người nắm bắt được các thuộc
tính, đặc điểm, các quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó
con người không chỉ thích ứng với tự nhiên, xã hội mà còn cải tạo thế giới và
cải tạo chính bản thân mình. Nhờ có nhận thức mà con người có cơ sở bày tỏ
thái độ của mình đối với tự nhiên, xã hội, từ đó tiến hành các hoạt động, hành
động cho phù hợp. Ngược lại, nếu không có nhận thức hoặc nhận thức không
phù hợp thì con người sẽ không thể thành công trong hoạt động thực tiễn. Do
đó nhận thức càng sâu sắc thì tình cảm càng nồng nàn, ý chí sẽ mãnh liệt và
hoạt động, hành động sẽ đạt kết quả cao.
Xét về đặc trưng của nhận thức thì đây là một quá trình phản ánh hiện
thực khách quan. Ở con người, quá trình này thường gắn với mục đích nhất
định, nên nhận thức của con người là một dạng hoạt động. Đặc trưng nổi bật
nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Quá trình này
phản ánh để lại dấu vết trên não, đó là sự hiểu biết của con người về tự nhiên,
xã hội và tư duy. Tức là thông qua quá trình phản ánh hiện thực khách quan sẽ
đem lại cho con người hệ thống kiến thức về tự nhiên, xã hội, con người, tư duy.
1.2.2. Các giai đoạn nhận thức
Căn cứ vào tính chất phản ánh, ta có thể chia toàn bộ hoạt động nhận
thức thành hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính: là giai đoạn đầu, sơ đẳng trong quá trình nhận thức
của con người. Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này là phản ánh vào đầu óc

của con người những thuộc tính bề ngoài, những mối quan hệ, liên hệ bên
ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan,
cho ta những hình ảnh bề ngoài về chúng (hình dáng, kích thước, màu sắc, âm
thanh, …).
Nhận thức cảm tính bao gồm hai quá trình cảm giác và tri giác.

6


Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của
sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Nhận thức cảm tính là điều kiện quan trọng cho sự định hướng cho hành
vi và hoạt động của con người trong môi trường xung quanh, đồng thời cung
cấp nhiên liệu cho các hình thức nhận thức cao hơn.
Nhận thức lý tính là giai đoạn nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính,
phản ánh những thuộc tính bản chất bên trong, những mối liên hệ, quan hệ có
tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước
đó con người chưa biết.
Nhận thức lý tính bao gồm hai quá trình: tư duy và tưởng tượng.
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh các thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ, quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó con người chưa biết.
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ
sở những biểu tượng đã có.
Hai giai đoạn nhận thức trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. V.I.Lenin
đã tổng kết mối liên hệ này thành quy luật của hoạt động nhận thức: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó

là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực
khách quan” (V.I.Lenin, Bút kí triết học, NXB Sự thật, 1963).
Lứa tuổi sinh viên, từ 18 – 25 tuổi, cơ thể đã đạt đến sự hoàn chỉnh về
cấu trúc và sự phối hợp giữa các chức năng, hoạt động thần kinh cấp cao đạt
đến mức độ trưởng thành, nhân cách đang được chuẩn bị để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của các nhà chuyên gia theo sự phân công lao động xã hội.
7


Mặt khác, đây cũng là thời kỳ có nhiều biến đổi mạnh mẽ về động cơ, các
bảng thang giá trị xã hội. Hầu hết họ đã xác định cho mình một hướng đi đúng
đắn trong tương lai, chuẩn bị hành trang là vốn tri thức cần thiết và bắt đầu
thử nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhận thức của sinh viên diễn ra từ thấp đến cao. Tính độc lập, tính sáng
tạo của các quá trình nhận thức ở lứa tuổi này đã khác xa so với các lứa tuổi
trước. Tư duy hình tượng và tư duy lý luận phát triển ở mức độ cao. Năng lực
nhận thức và phản ứng nhanh nhạy là nét đặc trưng trong khả năng nhận thức của
sinh viên.
1.3.

Khái niệm về dạy học và dạy học trong trường mầm non
1.3.1. Khái niệm về dạy học

Từ xa xưa người ta đã quan niệm: “Dạy học là một quá trình truyền đạt
những tri thức, kinh nghiệm cho học sinh”. Nếu quan niệm như vậy thì chỉ
đúng về mặt hình thức, còn về bản chất của nó thì không đúng.
Quan niệm khác cho rằng dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo
viên và học sinh. Quan niệm này còn chung chung vì không phải bất cứ sự tác
động nào của thầy giáo cũng kích thích học sinh tích cực hoạt động.
Theo chúng tôi, “Dạy học là một quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động

nhận thức của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hoá xã hội, tạo ra sự phát
triển tâm lý – nhân cách”.
Dạy học là một quá trình bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy của thầy
và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này không tách rời nhau mà diễn ra
đồng thời.
Hoạt động dạy: là hoạt động của thầy giáo tổ chức và điều khiển sự lĩnh
hội nền văn hoá xã hội của học sinh, nhằm tạo ra sự phát triển tâm lý, nhân
cách cho các em.

8


Hoạt động học: là hoạt động của học sinh nhằm tổ chức các điều kiện
bên trong và bên ngoài đảm bảo cho việc lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo có hiệu quả.
1.3.2. Khái niệm về dạy học trong trường mầm non
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dạy học trong trường mầm non.
Tác giả Trịnh Dân cho rằng: “Dạy học trong trường mầm non là quá trình
phát triển có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích các năng lực nhận thức của
trẻ, trang bị cho trẻ hệ thống tri thức sơ đẳng, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng và trên cơ sở đó góp phần hình thành nhân cách cho trẻ mầm non”.
Tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết cho rằng: “Dạy học trong trường mầm
non là một quá trình sư phạm bao gồm hoạt động học của trẻ và hoạt động dạy
của người lớn phối hợp cùng nhau nhằm phát triển tâm lý và hình thành nhân
cách cho trẻ em”.
Dạy học trong trường mầm non là một quá trình bao gồm hai hoạt động:
hoạt động học và hoạt động dạy cùng diễn ra đồng thời.
Hoạt động học trong trường mầm non:
Khái niệm “học” có nhiều nghĩa, dưới đây là hai nghĩa cơ bản thường
được sử dụng nhiều nhất.

Theo nghĩa rộng: học có nghĩa là tiếp thu một điều mới cho bản thân hay
tiếp thu một kinh nghiệm xã hội – lịch sử nào đó trong kho tàng văn hoá của
nhân loại.
Theo nghĩa hẹp: trẻ em phát triển đến một trình độ văn hoá nhất định mới
lĩnh hội được tri thức khoa học trong các thành tựu khoa học của nhân loại,
việc lĩnh hội đó cũng được gọi là học. Học ở đây cũng là tiếp thu kinh nghiệm
xã hội - lịch sử, nhưng những kinh nghiệm này không có ngay trong đời
thường mà nằm trong các lĩnh vực khoa học đã được các nhà khoa học nghiên

9


cứu, lựa chọn, sắp xếp thành hệ thống chương trình học tập của học sinh. Kiểu
học như vậy được gọi là học tập.
Trẻ em dưới 6 tuổi, các chức năng sinh lý và tâm lý còn non nớt chưa thể
lĩnh hội được các khái niệm khoa học nên chưa thể học tập được. Chỉ khi đến
6 tuổi, vào lớp 1, trẻ mới bắt đầu lĩnh hội được tri thức khoa học và lúc đó trẻ
mới bắt đầu học tập.
Theo cách hiểu đó thì trẻ em dưới 6 tuổi mới biết học theo nghĩa rộng, ở
mọi lúc, mọi nơi và về cuối tuổi mẫu giáo mới xuất hiện một số yếu tố của
hoạt động học tập hay còn gọi là học tập ở dạng sơ khai.
Hoạt động dạy trong trường mầm non:
Theo nghĩa rộng: Dạy là hoạt động mà trong đó, người này (thường là
người lớn) tác động một cách có ý thức tới một hay nhiều người khác (thường
là trẻ em) nhằm giúp họ hiểu biết một kinh nghiệm xã hội – lịch sử nào đó mà
họ chưa biết hay hình thành một phẩm chất tâm lý nào đó cần thiết trong đời
sống tâm lý của họ.
Theo nghĩa hẹp: dạy còn gọi là giảng dạy, được hiểu là hoạt động của
giáo viên có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, có tổ chức nhằm điều khiển
hoạt động học tập của học sinh, giúp các em lĩnh hội được các tri thức khoa

học, luyện tập những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng tạo cơ sở cho sự hình thành
và phát triển nhân cách của trẻ.
Theo hai cách hiểu trên thì hoạt động dạy trong trường mầm non được
hiểu theo nghĩa rộng.
1.4.

Mục đích của dạy học trong trường mầm non

Dạy học trong trường mầm non nhằm thực hiện các mặt giáo dục: thể
chất, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, phát triển toàn diện các chức năng tâm lý người.
1.4.1. Đối với sự phát triển thể chất

10


Dạy học trong trường mầm non giúp trẻ thực hiện những vận động cơ
bản, những hành vi văn hoá, vệ sinh và bồi dưỡng những tố chất: khoẻ mạnh,
nhanh nhẹn, dai sức, khéo léo cho một cơ thể đang phát triển và còn non nớt.
1.4.2. Đối với sự phát triển trí tuệ
Dạy học trong trường mầm non giúp trẻ ham hiểu biết, có óc quan sát, trí
nhớ tốt, trí tưởng tượng phong phú, phát triển khả năng tư duy, các phẩm chất
trí tuệ khác nhau như: sự nhanh trí, óc phê phán…
1.4.3. Đối với sự phát triển đạo đức
Dạy học trong trường mầm non giúp trẻ hình thành những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp như: lòng nhân ái, tính thật thà, dũng cảm, biết cách ứng xử với
những người xung quanh…
1.4.4. Đối với sự phát triển thẩm mỹ
Dạy học trong trường mầm non giúp trẻ biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu,
mong muốn làm ra cái đẹp để mang đến niềm vui cho mọi người.
Tóm lại, dạy học trong trường mầm non là tạo ra nhũng cơ sở ban đầu

trong nhân cách của trẻ, bước đầu giúp trẻ học làm người, chuẩn bị tốt cho
những bước phát triển sau này của cả một đời người.
1.5.

Nguyên tắc dạy học trong trường mầm non
1.5.1. Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục

Nhiệm vụ của dạy học không chỉ cung cấp cho trẻ hệ thống tri thức mà
phải thông qua đó hình thành thái độ đúng đắn đối với cuộc sống, đối với lao
động và đối với thực tiễn xung quanh. Dạy học phải là phương tiện để hình
thành nhân cách xã hội chủ nghĩa, dạy học và giáo dục phải là hai quá trình
thống nhất. Dạy học ở trường mầm non phải thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
trong trường mầm non.
1.5.2. Nguyên tắc dạy học vừa sức

11


Dạy học chỉ đạt kết quả khi nó vừa sức, dễ hiểu đối với trẻ. Tính vừa sức
phải được thể hiện trong nội dung và phương pháp dạy học. Nguyên tắc tính
vừa sức lần đầu tiên được I.A.Kômenxki trình bày như sau: “Từ gần đến xa,
từ đơn giản đến phức tạp, từ cái đã biết đến cái chưa biết”. Chương trình học
tập cho trẻ mẫu giáo trước hết phải đảm bảo tính vừa sức. Khi cho trẻ lĩnh hội
tri thức mới phải dựa trên cơ sở những cái trẻ đã được quan sát, đã biết, đã có
trong kinh nghiệm của chúng.
1.5.3. Nguyên tắc dạy học mang tính phát triển
Dạy học trong trường mầm non muốn thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra
cho nó thì dạy học phải đảm bảo sự phát triển.
Theo nguyên tắc này, dạy học không chỉ đưa ra cho trẻ những nhiệm vụ
dễ dàng, quen thuộc mà phải đưa ra cho trẻ những nhiệm vụ đòi hỏi sự nỗ lực

hoạt động trí tuệ. L.X.Vưgôtxki đã khẳng định: “Dạy học không được đi sau
sự phát triển, dạy học phải đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển”.
1.5.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính liên tục
Nguyên tắc này đòi hỏi việc sắp xếp tài liệu học tập, chương trình học
tập và cả trong việc tổ chức hoạt động trong thực tiễn, đảm bảo một trình tự
logic, liên tục. Các tài liệu mới phải dựa trên cái đã biết, các giờ học theo mức
độ khó dần, các tài liệu sau có mối liên hệ với các tài liệu học từ trước, tri thức
được hệ thống hoá trên cơ sở các mối liên hệ cơ bản giữa các sự vật, hiện
tượng trong một lĩnh vực tri thức nhất định.
1.5.5. Nguyên tắc phát huy tính tích cực, tính tự giác của trẻ
Nguyên tắc này đòi hỏi trong việc dạy học phải làm cho trẻ hứng thú,
ham thích, hăng say học tập làm cho trẻ tự mình ra sức hoàn thành các nhiệm
vụ học tập, tự mình khắc phục khó khăn để nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và
vận dụng tri thức. Dạy học phải thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ.
1.5.6. Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan
12


Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình dạy học cho trẻ mẫu giáo phải xuất phát
từ tri giác sự vật, hiện tượng cụ thể (thông qua trực quan hay hành động trực
tiếp với đối tượng) hay từ những biểu tượng đã có về sự vật và hiện tượng để
nhận thức cái trừu tượng, khái quát. Thực hiện nguyên tắc này trong việc dạy
trẻ mẫu giáo phải dùng nhiều hình thức trực quan khác nhau. Quan sát các
sinh vật, xem xét các sự vật, tranh ảnh, hình mẫu, vận dụng các phương tiện dạy
học khác nhau.
1.5.7. Nguyên tắc đối xử cá biệt
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học chung cho cả tập thể phải
chú ý đến đặc điểm cá nhân của mỗi trẻ. Trong quá trình nhận thức, trẻ em
bộc lộ sự khác biệt nhau về nhiều mặt. Trẻ em khác nhau về mức độ linh hoạt
của tư duy và khác nhau ở tốc độ tiếp thu tri thức cũng như sự hình thành kỹ

năng, kỹ xảo. Sự khác nhau này thể hiện ở sự khác nhau về thời gian, số lần
lặp lại các thao tác để hình thành các kỹ năng khác nhau. Bởi vậy trong quá
trình dạy học, giáo viên phải có phương pháp, biện pháp đối xử cá biệt, linh hoạt.
1.6.

Nội dung dạy học trong trường mầm non

Nội dung dạy học trong trường mầm non trước hết là những tri thức về
đời sống, xã hội, bao gồm: những quy tắc sống trong xã hội (như đi đường thì
phải đi về bên tay phải, phải rửa tay trước khi ăn,…), cách ứng xử giữa con
người với nhau, những hiểu biết về sự vật, hiện tượng gần gũi xung quanh,…
Nội dung dạy học trong trường mầm non còn bao gồm cả những tri thức
về sự vật và hiện tượng trong môi trường xung quanh, những mối liên hệ và
quan hệ giữa chúng. Đó là tri thức mà L.X.Vưgôtxki gọi là “tri thức tiền khoa
học” hay “tri thức tiền khái niệm”. So với tri thức đời sống thì tri thức tiền
khoa học chiếm khối lượng không nhiều, nhưng nó giữ một vị trí đáng kể
trong quá trình phát triển trí tuệ của trẻ mầm non.
Nói tóm lại, đó là tất cả những gì trẻ biết để sống như một con người. Đó
cũng là những tri thức mà con người cần để tồn tại và phát triển trong xã hội.
13


1.7.

Hình thức tổ chức dạy học trong trường mầm non

Các hình thức dạy học là những biểu hiện bên ngoài của sự phối hợp
giữa giáo viên và trẻ nhằm thực hiện một nội dung dạy học nhất định.
Hình thức tổ chức dạy học trong trường mầm non có những đặc điểm
riêng, khác với hình thức dạy học trong trường phổ thông. Ở trường mầm non,

việc tiến hành dạy học cho trẻ thường tổ chức theo hai hình thức sau đây:
1.7.1. Hình thức tổ chức dạy học ở mọi lúc, mọi nơi
Dạy học được tiến hành trong cuộc sống hàng ngày, giáo viên biết sử
dụng đồ vật quen thuộc, dạy trẻ biết cách ứng xử với những người xung quanh
một cách có văn hoá, biết giữ gìn vệ sinh, biết nói năng mạch lạc,…Giáo viên
dạy trẻ trong các trò chơi, trong các cuộc đi dạo, đi tham quan, đặc biệt là
trong các tình huống mới xảy ra. Tuy dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi nhưng nội
dung dạy học phải tuân theo chương trình “Chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non” do
Bộ giáo dục ban hành.
1.7.2. Hình thức tổ chức dạy học trong “Tiết học”
“Tiết học” là một khoảng thời gian ngắn trong chế độ sinh hoạt hằng
ngày dùng để dạy cho trẻ theo một nội dung nhất định, được quy định trong
chương trình “Chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non” bổ sung cho hình thức dạy
học mọi lúc, mọi nơi.
Việc tổ chức các tiết học trong trường mầm non khác hẳn với trường phổ
thông. Thời gian dành cho tiết học, số lượng các tiết học, sự phân bố trong
tuần, tần số lặp lại, thời điểm thích hợp cho mỗi môn, đều được xem xét cẩn
thận và sắp xếp hợp lý.
Các tiết học cần được bố trí vào khoảng thời gian trẻ có sức chịu đựng
hoạt động trí tuệ tốt nhất. Các tiết học nên bố trí vào buổi sáng và trong những
ngày giữa tuần (thứ 3, thứ 4, thứ 5) do khả năng làm việc trí não của trẻ lúc
này là cao nhất. Tiết học cần được tiến hành trong điều kiện vệ sinh được đảm
14


bảo: phong học rộng rãi, thoáng mát, bàn ghế phù hợp với tầm vóc của trẻ,
phòng đủ ánh sáng.
1.8.

Hệ thống các phương pháp dạy học trong trường mầm non

1.8.1. Nhóm phương pháp dạy học dùng lời

Căn cứ vào lời nói và chữ viết với tư các là nguồn tri thức phong phú,
người ta xây dựng các phương pháp dạy học dùng lời. Ở trường mầm non,
nhóm này gồm có các phương pháp trao đổi (hay trò chuyện), kể và đọc.


Kể: Là hình thức truyền thụ tri thức có hiệu quả và dễ hiểu đối với

trẻ mẫu giáo. Trong lời kể, tri thức được truyền thụ cho trẻ dưới dạng hình
thức hình ảnh hay một câu chuyện sinh động, hấp dẫn.


Trao đổi (hay trò chuyện): Là một hình thức khác của phương pháp

dùng lời nói. Trong phương pháp trao đổi, giáo viên giao tiếp với trẻ bằng
những câu hỏi đã được lựa chọn nhằm kích thích trẻ hoạt động nhận thức theo
hướng dẫn cần thiết.
1.8.2. Nhóm phương pháp dạy học trực quan
Phương pháp dạy học dựa vào việc sử dụng những đối tượng và hiện
tượng hiện thực gọi là phương pháp trực quan. Nhóm này bao gồm phương
pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan.
Phương pháp quan sát: Là tri giác các sự vật hiện tượng trong thế giới
xung quanh một cách có mục đích, có kế hoạch và tương đối lâu dài. Quan sát
không chỉ giúp cho trẻ nhận biết các thuộc tính bề ngoài của các sự vật, hiện
tượng mà còn giúp trẻ nhận xét những sự biến đổi của hoàn cảnh xung quanh
trong một quá trình. Quan sát được sử dụng trong các giờ học và cả trong
cuộc sống hằng ngày, nó có thể tiến hành trong một thời gian ngắn hoặc dài.
Phương pháp trình bày trực quan: Là phương pháp sử dụng các phương
tiện trực quan trong dạy học. Nó được biểu hiện ở các phương pháp trình bày


15


các đồ vật, trình bày tranh ảnh, trình bày vật mẫu, sử dụng phim ảnh và các
phương tiện kỹ thuật.
1.8.3. Nhóm phương pháp dạy học thực tiễn
Là những phương pháp trong đó các hoạt động của trẻ được cô giáo
hướng dẫn trong quá trình nắm tri thức mới mang tính chất thực tiễn. Hoạt
động ấy mang hình thức biến đổi sự vật một cách thực tiễn và tạo ra khả năng
tách ra những thuộc tính và những mối liên hệ không thể tri giác trực tiếp
được. Các phương pháp thực tiễn tạo điều kiện cho trẻ tham gia trực tiếp vào
các hoạt động, biến đổi và tác động vào các sự vật, hiện tượng và từ đó mà
nhận thức được tri thức mới. Như vậy, trẻ sẽ nhận thức được sâu sắc hơn, độc
lập hơn, phát huy được tính tích cực tư duy và còn rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo.
1.8.4. Nhóm phương pháp dùng trò chơi
Thực tiễn giáo dục trẻ mầm non chỉ rõ: việc giáo dục trí tuệ cho trẻ được
thực hiện không chỉ trong các giờ học. Nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học, nhà giáo dục và những kinh nghiệm của giáo viên mầm non
trong quá trình dạy trẻ nắm vững và vận dụng kiến thức cho ta thấy trò chơi
học tập giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ và dạy học.
1.9.

Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên

mầm non
Giáo viên mầm non có vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục nhân
cách con người mới. Để hoàn thành sứ mệnh của người xây dựng nền móng
ban đầu cho nhân cách con người và đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp, giáo
viên mầm non cần phải có những phẩm chất và năng lực sau:

1.9.1. Yêu cầu về phẩm chất đối với người giáo viên mầm non
Phẩm chất được hiểu là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các
mối quan hệ xã hội cụ thể của con người và được thể hiện ra ở hành động,
hành vi, cách ứng xử của họ.
16


Những phẩm chất nhân cách của người giáo viên mầm non bao gồm:
- Thế giới quan khoa học: Thế giới quan là hệ thống quan điểm về tự
nhiên, xã hội, về nguyên tắc, quy tắc ứng xử. Thế giới quan của người giáo
viên là thế giới quan khoa học, bao gồm toàn bộ những quan điểm duy vật
biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy. Nó chi phối
nhiều mặt hoạt động và thái độ của giáo viên đối với các mặt hoạt động đó.
- Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ: Là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của
người giáo viên. Nó giúp giáo viên nhận rõ được giá trị lao động của mình có
ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách trẻ. Biểu hiện là: có lòng say
mê nghề nghiệp, tận tụy với công việc, có lối sống giản dị, tinh thần trách
nhiệm cao đối với trẻ,…
- Lòng yêu trẻ: là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý của con
người, là phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của giáo viên. Lòng yêu người,
yêu trẻ càng sâu sắc bao nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu.
Lòng yêu trẻ của người giáo viên được biểu hiện ở chỗ: quan tâm, ân cần, chu
đáo, yêu thương trẻ như con em mình, say sưa với công việc và cảm thấy sung
sướng khi được tiếp xúc với trẻ thơ,…
- Lòng yêu nghề: Là lòng yêu công việc của mình, luôn nghĩ rằng việc
cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ là hạnh phúc cao cả của đời mình.
Biểu hiện là: luôn luôn cải tiến nội dung, phương pháp dạy học, không tự thoả
mãn với trình độ của bản thân, có hiểu biết sâu rộng,…
- Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người giáo viên:
Tâm lý, nhân cách của trẻ chịu ảnh hưởng lớn về đạo đức, tác phong, trí tuệ,

…của người giáo viên. Trẻ thường bắt chước cách nói năng, hành vi, cử chỉ
của giáo viên trong cuộc sống của mình. Do vậy, người giáo viên cần có
những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết như: có thái độ công
bằng, chính trực, ngay thảng, giản dị, khiêm tốn, có tính tự chủ và biết tự điều

17


khiển bản thân mình, có sức khoẻ tốt, không mắc bệnh truyền nhiễm, có lập
trường, tư tưởng vững vàng,...
1.9.2. Yêu cầu về năng lực đối với người giáo viên mầm non
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả.
Năng lực sư phạm của người giáo viên bao gồm:
- Năng lực hiểu trẻ trong quá trình dạy học và giáo dục: là khả năng
“thâm nhập” vào thế giới tâm hồn để hiểu được diễn biến tâm lý của trẻ thơ.
Đây là kết quả của cả một quá trình lao động đầy trách nhiệm, yêu thương sâu
sắc đối với trẻ, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu đầy đủ về đặc
điểm tâm – sinh lý trẻ của người giáo viên mầm non.
- Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên: là một năng lực cơ bản,
năng lực trụ cột, có tác dụng mạnh mẽ tạo ra uy tín của người giáo viên. Biểu
hiện ở năng lực tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện về mọi mặt để có thể đáp ứng
những yêu cầu luôn thay đổi của xã hội, thời đại và đối với nghề nghiệp.
- Nắm vững kỹ thuật dạy học: là nắm vững kỹ thuật tổ chức và điều khiển
hoạt động nhận thức của trẻ. Điều đó thể hiện ở chỗ: nắm vững cách tổ chức,
điều khiển hoạt động của trẻ để giúp chúng chiếm lĩnh nền văn hoá xã hội.
- Năng lục ngôn ngữ: là năng lực biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩ và
tình cảm của mình bằng lời nói, chữ viết, điệu bộ, nét mặt.
Năng lực ngôn ngữ là một trong những năng lực quan trọng của người
giáo viên. Ngôn ngữ là công cụ sống còn đảm bảo cho người giáo viên thực

hiện chức năng dạy học và giáo dục. Do đặc thù của dạy học trong trường
mầm non, đòi hỏi ngôn ngữ của người giáo viên phải chính xác, phát âm
chuẩn, giàu hình ảnh, có khả năng diễn cảm và truyền cảm.
- Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách trẻ em: là năng lực biết dựa
vào mục đích giáo dục, yêu cầu đào tạo, hình dung trước cần phải giáo dục trẻ
18


những phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt tới mẫu
hình nhân cách đó. Năng lực này biểu hiện ở chỗ người giáo viên biết lập kế
hoạch giáo dục trẻ.
- Năng lực “cảm hoá” trẻ thơ: là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp
của mình đối với trẻ về mặt tình cảm và ý chí. Khả năng này làm cho trẻ nghe,
tin và làm theo mình bằng tình cảm, bằng niềm tin.
- Năng lực khéo léo ứng xử sư phạm: được hiểu là kỹ năng trong bất cứ
trường hợp nào cũng tìm ra được các tác động sư phạm đúng đắn nhất như là
một nghệ thuật, được xem như là một thành phần quan trọng trong “tài năng
sư phạm” của giáo viên. Cơ sở hình thành nên năng lực này là do lương tâm
nghề nghiệp, niềm tin yêu và tôn trọng trẻ của người giáo viên.
1.10. Nhận thức về dạy học trong trường mầm non
1.10.1. Nhận thức về tầm quan trọng của dạy học trong trường
mầm non đối với sự phát triển của trẻ
Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Với vị trí đó, dạy học trong trường mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhằm tạo ra những cơ sở ban đầu trong nhân cách của trẻ, bước đầu giúp trẻ
học làm người, chuẩn bị tốt cho những bước phát triển sau này của cả một đời
người. Vì thế nhận thức về tầm quan trọng của dạy học trong trường mầm non
chính là việc nhận thức về giá trị của dạy học và ý nghĩa của nó đối với sự phát
triển của trẻ.
1.10.2.


Nhận thức về nguyên tắc dạy học trong trường mầm non

Quá trình dạy học với tư cách là một hệ thống toàn vẹn, luôn luôn vận
động và phát triển nhằm mang lại kết quả tối ưu. Để cho quá trình này mang
lại hiệu quả và đảm bảo chất lượng, con người phải tổ chức và điều khiển
được quá trình dạy học. Nhận thức về nguyên tắc dạy học trong trường mầm
non chính là việc nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và khoa học của sinh
viên khoa giáo dục mầm non về ý nghĩa, tầm quan trọng của các nguyên tắc
19


dạy học trong trường mầm non, định hướng toàn bộ quá trình giảng dạy và
học tập phù hợp với mục đích dạy học nhằm thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ
dạy học đề ra.
1.10.3. Nhận thức về nội dung dạy học trong trường mầm non
Mục đích của dạy học trong trường mầm non là hình thành cơ sở ban đầu
của nhân cách ở mỗi đứa trẻ. Do đó nội dung dạy học đối với trẻ mẫu giáo
phải đảm bảo được mục đích chăm sóc và giáo dục trẻ. Cụ thể là: hình thành
và phát triển các chức năng phù hợp với sự phát triển của từng độ tuổi, trau
dồi những tình cảm, tri thức, kỹ năng, thói quen cần thiết cho trẻ.
Nhận thức về nội dung dạy học trong trường mầm non chính là nhận
thức của sinh viên về những nội dung cần dạy cho trẻ. Cụ thể đó là những tri
thức nào? Từ đó giúp họ có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tầm quan trọng
của nội dung dạy học trong trường mầm non đối với sự phát triển của trẻ.
1.10.4. Nhận thức về hình thức tổ chức dạy học trong trường mầm
non
Là sự hiểu biết của sinh viên về các hình thức tổ chức dạy học được sử
dụng để dạy học và giáo dục trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo. Hình thức nào được sử
dụng thường xuyên, thỉnh thoảng, hay không sử dụng? Các hình thức tổ chức

dạy học này có ý nghĩa, vai trò ra sao đối với sự phát triển tâm lý của trẻ?
1.10.5. Nhận thức về phương pháp dạy học trong trường mầm non
Phương pháp dạy học trong trường mầm non là cách phối hợp có hiệu
lực giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của trẻ em. Tính hiệu
lực của phương pháp dạy học đó phụ thuộc vào việc nắm vững đặc điểm phát
triển của trẻ mẫu giáo, nắm vững mục đích, nguyên tắc, nội dung dạy học
trong trường mầm non của giáo viên. Nhận thức về phương pháp dạy học
trong trường mầm non chính là nhằm giải quyết vấn đề: sử dụng những
phương pháp nào để tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động, tiếp thu những tri thức

20


tiền khoa học nhằm phát triển các chức năng tâm lý, tạo nên cơ sở ban đầu
nhân cách của trẻ.
1.10.6.

Nhận thức về yêu cầu của dạy học trong trường mầm

non đối với các phẩm chất và năng lực của người giáo viên
- Nhận thức về yêu cầu của dạy học trong trường mầm non đối với các
phẩm chất của người giáo viên.
Có thể nói không có một bậc học nào mà giữa người dạy và người học lại
có mối quan hệ gắn bó mật thiết như bậc học mầm non. Quan hệ giữa giáo
viên và trẻ em vừa là quan hệ thầy trò, vừa là quan hệ mẹ con, vừa là quan hệ
bạn bè cùng học, cùng chơi. Trong những mối quan hệ ấy, tâm lý, nhân cách
của trẻ được hình thành và phát triển. Với vai trò quan trọng trong quá trình
giáo dục nhân cách con người mới, để hoàn thành sứ mệnh của người xây
dựng nền móng ban đầu nhân cách con người, mỗi sinh viên khoa Giáo dục
Mầm non cần phải trang bị cho mình những kiến thức đầy đủ, đúng đắn về

các phẩm chất của người giáo viên mầm non trong tương lai. Đó là sự hiểu
biết về các phẩm chất mà người giáo viên mầm non cần phải có để dạy học và
giáo dục, biểu hiện của các phẩm chất đó như thế nào? Chúng có vị trí, vai trò
gì đối với sự thành công hay thất bại của hoạt động dạy học trong trường mầm
non. Để từ đó giúp mỗi sinh viên có ý thức học tập, rèn luyện, tu dưỡng các
phẩm chất nhân cách nhằm đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp.
- Nhận thức về yêu cầu của dạy học trong trường mầm non đối với các
năng lực của người giáo viên.
Đó là sự hiểu biết về những năng lực mà người giáo viên mầm non cần
phải có để dạy học và giáo dục. Biểu hiện của những năng lực đó như thế
nào? Mức độ quan trọng đối với từng năng lực đó ra sao? Các năng lực đó có
vị trí và vai trò gì đối với sự thành công hay thất bại của hoạt động dạy học
trong trường mầm non và đến việc thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non đề
ra. Từ đó giúp cho sinh viên khoa Giáo dục Mầm non có nhận thức đầy đủ,
21


đúng đắn hơn trong việc bồi dưỡng, rèn luyện các năng lực cần thiết để phục
vụ cho nghề nghiệp tương lai.

22


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON VỀ DẠY HỌC TRONG TRƯỜNG MẦM NON

2.1. Vài nét về sinh viên khoa giáo dục mầm non
Khoa Giáo dục Mầm non là một khoa có số lượng sinh viên lớn, đào tạo ở
hai hệ: cao đẳng sư phạm Mầm non và trung học sư phạm Mầm non trong đó
100% sinh viên là nữ.

Nhiệm vụ của khoa là đào tạo giáo viên Mầm non cho tỉnh nhà. Sinh viên
trong khoa hầu hết là con em của các huyện trong tỉnh, thuộc nhiều dân tộc
khác nhau: Kinh, Tày, Thái,… Đa số họ là những người có thái độ học tập tích
cực, chịu khó học hỏi, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tác phong
nghề nghiệp. Với đặc thù của khoa: 100% sinh viên là nữ và đầu vào có thi
tuyển năng khiếu nên đa số các bạn sinh viên rất năng nổ, tích cực tham gia các
hoạt động văn hoá, văn nghệ thể thao do Đoàn, trường phát động. Vì vậy, khoa
Giáo dục Mầm non ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong toàn
trường, với những thành tích đáng kể trong học tập và đạt giải cao trong các đợt
liên hoan văn hóa, văn nghệ, thể thao, các cuộc thi nghiệp vụ sư phạm,…Từ đó
khoa Giáo dục Mầm non đã có những đóng góp nhất định vào bảng thành tích
chung của toàn trường.
2.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về
dạy học trong trường mầm non
Nhận thức về dạy học trong trường mầm non là cơ sở, là nguồn gốc của
động cơ, thái độ, hứng thú học tập và nỗ lực rèn luyện các phẩm chất, năng lực
cần thiết của mỗi sinh viên khoa Giáo dục Mầm non. Đồng thời nó còn là tiền
đề quan trọng cho hoạt động nghề nghiệp diễn ra có hiệu quả. Thực tế hiện nay,
còn một số sinh viên khoa Giáo dục Mầm non có nhận thức chưa đầy đủ, đúng
đắn về dạy học trong trường mầm non. Các bạn còn chưa hiểu rõ được mục
đích, những nguyên tắc và phương pháp dạy học trong trường mầm non, những
23


yêu cầu cũng như những đòi hỏi đối với các phẩm chất và năng lực của người
giáo viên. Do vậy, xuất phát từ thực tiễn đó, cần phải khảo sát thực trạng nhận
thức về dạy học trong trường mầm non để có được những thông tin thực tiễn, từ
đó có biện pháp nâng cao nhận thức về nghề nghiệp cho sinh viên.
Trong quá trình khảo sát chúng tôi đã sử dụng phương pháp điều tra bằng
anket là phương pháp chính. Với hệ thống câu hỏi xác định, sinh viên có thể trả

lời một cách trung thực những vấn đề thuộc phạm vi nhận thức về dạy học
trong trường mầm non. Đồng thời thông qua quá trình trò chuyện trực tiếp với
các bạn sinh viên trong khoa Giáo dục Mầm non, bước đầu chúng tôi đã thu
thập được những thông tin về nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non
về dạy học trong trường mầm non. Kết quả điều tra như sau:
2.2.1. Nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về tầm
quan trọng của dạy học trong trường mầm non
Để tìm hiểu nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về tầm quan
trọng của dạy học trong trường mầm non, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Theo bạn
dạy học trong trường mầm non có tầm quan trọng như thế nào đối với sự phát
triển của trẻ em?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về
tầm quan trọng của dạy học trong trường mầm non
Sinh viên

Năm thứ 2

Năm thứ 3

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ


quan trọng

lượng

%

lượng

%

lượng

%

Rất quan trọng

49/51

96,07

46/53

86,79

95/104

91,35

Quan trọng


2/51

3,93

7/53

13,21

9/104

8,65

Không quan trọng

0/51

0

0/53

0

0/104

0

Tầm

Qua bảng số liệu trên ta thấy:


24

Chung


Có 91,35% sinh viên đánh giá cao tầm quan trọng của dạy học trong
trường mầm non đối với sự phát triển của trẻ em. Các bạn cho rằng: dạy học
trong trường mầm non có vai trò “Rất quan trọng” đối với sự phát triển của trẻ
em và 8,65% sinh viên cho rằng dạy học trong trường mầm non có vai trò
“Quan trọng”. Điều đó chứng tỏ rằng, sinh viên đã nhận thức rõ tầm quan trọng
của dạy học trong trường mầm non.
Như vậy, 100% sinh viên năm thứ 2 và năm thứ 3 đã nhận thức được tầm
quan trọng của dạy học trong trường mầm non. Tuy vậy số ý kiến cho rằng: dạy
học trong trường mầm non có vai trò “Quan trọng” ở sinh viên năm thứ 3 nhiều
hơn sinh viên năm thứ 2 (năm thứ 2: 3,93% sinh viên; năm thứ 3: 13,21% sinh
viên). Điều này thể hiện rằng: đến năm thứ 3 vẫn còn sinh viên chưa đánh giá
cao về vị trí, tầm quan trọng của dạy học trong trường mầm non. Nhận thức
như vậy sẽ có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng và hiệu quả công tác nghề
nghiệp sau này.
2.2.2. Nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về mục
đích của việc dạy học trong trường mầm non
Để tìm hiểu nhận thức của sinh viên khoa Giáo dục Mầm non về mục đích
của dạy học trong trường mầm non, chúng tôi đưa ra câu hỏi: “Bạn vui lòng
cho biết: mục đích của dạy học trong trường mầm non là gì?”. Kết quả thu
được thể hiện ở bảng 2.
Qua bảng số liệu ta thấy:
Có 81,73% sinh viên cho rằng: dạy học trong trường mầm non nhằm:
“Hình thành những cơ sở ban đầu trong nhân cách của trẻ, bước đầu giúp trẻ
học làm người, chuẩn bị tốt cho những bước phát triển sau này”. Đây là nhận

thức hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu của dạy học trong trường mầm
non đã được ghi trong quyết định số 55 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định
mục tiêu, kế hoạch đào tạo nhà trẻ - mẫu giáo là: “…hình thành ở trẻ những cơ

25


×