Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Lý luận về con người trong các tác phẩm của c mác, ph ăngghen và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp cách mạng nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228 KB, 57 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong triết học, con người luôn là một đề tài lớn, việc nghiên cứu vấn đề con
người có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của thế giới, vì vậy nó được
các nhà triết gia của mọi thời đại bao gồm cả phương Đông và phương Tây quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên con người trong tư tưởng của các nhà triết học cổ đại
mới chỉ được định nghĩa đơn giản theo những quan niệm duy vật siêu hình hoặc là
duy tâm, thần thánh, chúa,….Chỉ đến triết học Mác – Lênin, vấn đề con người mới
được xem xét một cách toàn diện, khoa học, dựa trên lập trường duy vật biện
chứng.
Chủ nghĩa Mác không nghiên cứu vấn đề con người một cách cô lập mà gắn
vấn đề con người với cơ sở nảy sinh ra nó cùng những quan hệ gắn bó với nó. Mục
đích cao nhất của chủ nghĩa Mác là giải phóng con người vì thế vấn đề con người
được đặt ra và xem xét từ những góc độ khác nhau trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác: Triết học nghiên cứu quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội giúp ta
hiểu được cái bản chất nhất trong mối quan hệ tự nhiên – xã hội – con người; Kinh
tế chính trị nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội,phê phán xã hội Tư bản
chủ nghĩa đã mang nhiều thảm họa cho con người thông qua việc chiếm đoạt giá trị
thặng dư; Chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra những con đường và biện pháp tốt nhất
để giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác đã kết luận: Con người không chỉ là chủ
thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp phát
triển của lực lượng sản xuất mà còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ
xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài người ngày càng phát triển như hiện nay.
Trong thực tế những năm gần đây từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới
cũng là thời kì đặt ra những vấn đề bức xúc có liên quan tới con người và việc hình
thành con người mới. Có thể khẳng định rằng xây dựng thành công nền kinh tế thị


2



trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một việc dễ dàng bởi kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ. Mác nhắc
nhở chúng ta rằng trong quá trình phát triển nền kinh tế cần phải gắn “sự nghiệp
giải phóng con người” với cuộc đấu tranh chống lại thực tiễn cực đoan của sự thoái
hóa con người. Chỉ có như thế chúng ta mới không bị thoái hóa bởi những mặt trái
của cơ chế thị trường, mới tránh được nguy cơ đi chệch định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình phát triển.
Như vậy, phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện
nay đang là vấn đề cấp bách, nó cũng là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế, mở cửa hợp tác, xây
dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội do vậy mà vấn đề con người lại càng được
chú trọng quan tâm tạo nguồn lực cho đất nước phát triển. Trên cơ sở vận dụng
khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, tại hội nghị lần thứ 4
của Ban chấp hành trung ương khóa VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết
về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là động lực xây dựng
xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là: “ Con người phát
triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức”. Việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin là việc làm hết sức cần thiết và đó cũng chính là lý do mà em
chọn đề tài “Lý luận về con người trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen
và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp cách mạng nước ta” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.


3

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề con người luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, dưới đây là

một số tài liệu có liên quan đến vấn đề con người.
- Phạm Văn Chung, Triết học Mác về lịch sử - Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia.
- Nguyễn Trọng Chuẩn: Để phát triển con người một cách bền vững, Tạp
chí Triết học Tháng 1/2005.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội lần thứ IX, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001.
- Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện đại hội lần thứ XI, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
- Phạm Văn Đức, Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen về những tiền đề
của lịch sử trong “Hệ tư tưởng Đức” và ý nghĩa của chúng, tạp chí triết học
12/2005.
- Lê Thị Thanh Hà, Một số vấn đề triết học về con người trong “Hệ tư
tưởng Đức”, tạp chí triết học 1/2006.
- Lê Thị Hương: Sự phát triển con người trong cương lĩnh của Đảng cộng
sản Việt Nam,Tạp chí Triết học số 11/2012.
- Hà Đức Long: Quan điểm của Đảng về con người trong văn kiện đại hội
XI, Tạp chí triết học Tháng 2/2012.
- Hồ Sỹ Quý, Con người và phát triển con người trong quan niệm của
C.Mác và Ph. Ăngghen” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội.
- Vũ Quang Tạo,C.Mác và sự nghiệp giải phóng con người trong thời đại
hiện nay, Tạp chí Triết học số 5/2008.
- Lê Thi, C.Mác với vấn đề con người và xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa.
- Tiểu luận triết học: Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu



4

Mục đích nghiên cứu là làm rõ lý luận về con người trong các tác phẩm của
C.Mác, Ăngghen và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp Cách mạng nước ta.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về con người trong một số tác phẩm tiêu biểu của C.Mác,
Ph.Ăngghen.
- Làm rõ ý nghĩa của lý luận về con người trong một số tác phẩm tiêu biểu
của C.Mác, Ăngghen đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là lý luận về con người trong các tác phẩm của
C.Mác, Ph.Ăngghen và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp Cách mạng nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là lý luận về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen thể
hiện trong các tác phẩm: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Luận cương về
Phoiơbắc, Hệ tư tưởng Đức. Khi bàn về ý nghĩa của lý luận đó đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta, giới hạn được đưa ra là từ cuối thế kỷ XIX đến nay, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện
của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tài liệu, sách báo có liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc, quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích – tổng hợp,
quy nạp – diễn dịch, kết hợp lịch sử - lôgic, phương pháp so sánh,...
6. Kết cấu của luận văn



5

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CON NGƯỜI TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN


6

Con người là một thực thể tự nhiên và thực thể xã hội, chịu sự chi phối của
tiến trình phát triển tự nhiên “ sinh – lão – bệnh – tử” và sự chi phối của các quan
hệ xã hội. Con người cũng có thể chi phối được xã hội, chinh phục được tự nhiên
để phục vụ cho lợi ích của mình. Vì vậy con người là một phạm trù tự nhiên và xã
hội, nó cũng có bản chất và tính quy luật riêng vốn có của nó. Do đó phạm trù con
người được nghiên cứu rất nhiều trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của con
người kể từ khi nền triết học ra đời. Tựu chung lại từ nền triết học phương Đông
( Trung Quốc, Ấn Độ ) đến triết học phương Tây ( Hy Lạp, Tây Âu thời kỳ phục
hưng, triết học cổ điển Đức,....) đều có những định nghĩa, nghiên cứu về bản chất
con người. Tùy vào vùng lãnh thổ, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mà các nhà triết
học có những quan niệm, quan điểm khác nhau về con người và bản chất con
người. Quan điểm triết học phương Đông thường đi sâu vào nghiên cứu nguồn gốc
bản chất của con người, cho rằng bản chất con người là tâm linh, nặng về duy tâm,
con người do thượng đế tạo ra. Triết học phương Tây tập trung nghiên cứu một
cách khá toàn diện vấn đề con người, coi “con người là trung tâm của vũ trụ”,
thước đo của vạn vật. Quan niệm của các nhà triết học thường mang tính duy vật
chủ quan, hay vừa duy vật vừa duy tâm. Tuy nhiên cả hai nền triết học trênvẫn còn

tồn tại nhiều mâu thuẫn, chủ yếu là mâu thuẫn giữa hai hệ tư tưởng là duy vật và
duy tâm.
Kế thừa có phê phán và phát triển có chọn lọc hai nền triết học trên, triết học
Mác – Lênin có những nghiên cứu và lý luận về con người một cách riêng và cụ
thể hơn. Điểm xuất phát để nghiên cứu con người của triết học Mác đó là con
người trong hoạt động thực tiễn, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Sau đây
chúng ta sẽ cùng đi vào tìm hiểu một số tác phẩm kinh điển của Mác khi nghiên
cứu về vấn đề con người.
1.1. Tư tưởng triết học về con người của C. Mác trong tác phẩm “Bản
thảo kinh tế - triết học năm 1844”


7

“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” là bản sơ thảo đầu tiên trong cuốn
sách của C.Mác “Phê phán chính trị và khoa kinh tế chính trị”. Tác phẩm này được
Mác viết vào thời gian từ tháng Tư đến tháng Tám năm 1844 bằng tiếng Đức.
Trong lời tựa, C.Mác đã nói “ Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” là tác phẩm
nhằm phê phán lý luận đương thời về kinh tế, chính trị, pháp quyền và một phần
phê phán quan niệm của Phoiơbắc và Hêghen, tức là ở đây C.Mác không có ý định
bàn về chủ đề con người, do vậy vấn đề con người ở đây không được trình bày
trong một hệ thống chặt chẽ. Tuy nhiên những tư tưởng về con người trong tác
phẩm này nảy sinh qua đối thoại với các học giả đương thời và qua phê phán
Phoiơbắc và Hêghen lại rất phong phú. Đó là các tư tưởng về con người – một thực
thể tự nhiên có tính chất người, về tính loài của con người, con người cá nhân và
con người xã hội, về bản chất con người, về lao động tha hóa của con người và về
giải phóng con người,...
Sau đây chúng ta sẽ lần lượt đi vào tìm hiểu các khía cạnh cụ thể khi C.Mác
đề cập đến vấn đề con người:
1.1.1. Bản chất con người

Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, trên cơ sở nghiên cứu những
quan điểm về con người và về bản chất con người, C.Mác đã đi đến nghiên cứu các
vấn đề như lao động bị tha hóa, chế độ tư hữu và việc xóa bỏ chế độ tư hữu, vấn đề
giải phóng con người dưới chủ nghĩa Cộng sản,...từ đó hình thành nên quan niệm
duy vật về lịch sử. Mác cho rằng con người chủ yếu xuất phát từ những con người
đang lao động sản xuất ra của cải vật chất. Đặt vào hoàn cảnh trong xã hội tư sản
lúc đó, người lao động là người công nhân, người vô sản, đang tồn tại, hoạt động
trong điều kiện lao động bị tha hóa và tự tha hóa. Thông qua việc xem xét tình
trạng lao động bị tha hóa của người công nhân, C.Mác đã trình bày tư tưởng của


8

mình về bản chất con người và về tồn tại người nói chung, điều này liên quan chặt
chẽ với quan niệm về con người hiện thực và con người xã hội.
Khi khám phá con người hiện thực, C.Mác hiểu rằng con người chính là một
“ sinh vật có tính loài”, là “ thực thể tự nhiên có tính chất người, nghĩa là thực thể
tồn tại cho bản thân mình và do đó là thực thể loài”. Phân tích tồn tại của sinh vật
có tính loài này, C.Mác nhận ra rằng nó có hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Mặt tự nhiên là thể xác, là cơ thể sinh vật của con người cùng mối liên hệ hữu cơ
của nó với giới tự nhiên ở bên ngoài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện
đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, “Giới tự nhiên... là thân thể vô
cơ của con người... đời sống thể xác và đời sống tinh thần của con người gắn với
giới tự nhiên”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con
người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt
xã hội.Mặt xã hội chính là hoạt động lao động, là liên hệ giữa con người với nhau
và là tất cả những gì hình thành trên cơ sở hoạt động và liên hệ ấy, như nhà nước,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, ý thức,... Hai mặt này liên hệ hữu cơ với nhau trong
cùng một thực thể là con người. C.Mác cho rằng ở cả hai mặt tự nhiên và xã hội,

con người đều có những đặc trưng làm cho nó phân biệt đối với loài vật, đó là tính
người. Ông nhận thấy những đặc trưng này tồn tại ở hai trạng thái ( hai mặt). Trạng
thái thứ nhất là những lực lượng bản chất, là cái tiềm năng, tiềm ẩn, còn trạng thái
thứ hai là cái thể hiện ra trong đời sống hiện thực, trước hết là trong hoạt động lao
động của con người. Bản chất của con người xét từ hai mặt, hai trạng thái tự nhiên
và xã hội của nó, chính là tính người của nó. Tuy nhiên, C.Mác thấy tính người của
con người về cơ bản là ở mặt xã hội của nó.


9

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động
sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác thấy bản chất của con người kể cả mặt tự nhiên
và xã hội của nó được biểu hiện rõ nhất trong quá trình lao động nhất là lao động
công nghiệp. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn
ngữ tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Do đó phải xem xét bản chất con người ngay
trong quá trình lao động của họ.
Với việc khẳng định một cách chính diện và rõ ràng sự tồn tại của con người
cá nhân và bản chất xã hội của nó, C.Mác đã cụ thể hóa quan niệm của ông về con
người hiện thực, con người xã hội. C.Mác hiểu bản chất con người chính là tính
người của nó. Khái niệm tính người được C.Mác nêu ra với hai nội dung, hai ý
nghĩa. Thứ nhất, nó thể hiện ở cả hai mặt tự nhiên xã hội của con người nhưng rõ
ràng và đầy đủ nhất ở mặt xã hội. Về mặt tự nhiên, tính người của con người thể
hiện ở chỗ con người có những yếu tố, đặc điểm tồn tại cao hơn tự nhiên bên ngoài
nó. Về mặt xã hội, tính người của con người là cái phân biệt với tự nhiên thuần túy
gồm cả thể xác con người , nó là cái được tạo nên trong hoạt động xã hội, lịch sử
của con người. Thứ hai, tính người của con người còn được hiểu theo nghĩa là cái
hòa đồng giữa con người và tự nhiên, giữa xã hội với tự nhiên, giữa con người và

xã hội và giữa con người và con người. Trong sự hòa đồng ấy, tính người của con
người thể hiện ra ở tính chủ thể, ở vai trò chủ thể của con người đối với hoạt động
lịch sử của nó. Theo C.Mác, tính người này đã được xác lập lần đầu tiên khi con
người mới xuất hiện. Trong điều kiện lao động bị tha hóa, tính người đó đã bị đánh
mất, bị tha hóa và nó sẽ được xác lập lại trong xã hội Cộng sản tương lai nhưng ở
trình độ cao hơn.


10

Trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, quan niệm của C.Mác về con
người, bản chất con người đã trở thành một yếu tố rất quan trọng của nội dung tư
tưởng triết học khoa học về lịch sử. Con người hiện thực, con người xã hội không
chỉ được xác định về mặt tự nhiên, sinh vật, là cái tồn tại phân biệt nó với con vật,
mà chủ yếu còn được xác định với tư cách là con người hoạt động hiện thực, trước
hết là con người lao động sản xuất. Trong tác phẩm này, con người được đề cập
đến trước hết là một thực thể tự nhiên. Lý giải điều này, C.Mác đã chỉ rõ, một là
giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người về mặt thể xác, con người được cấu
tạo nên từ giới tự nhiên. Hai là con người sống bằng giới tự nhiên. Cụ thể: “ giới tự
nhiên là tư liệu sinh sống trực tiếp đối với con người”, “ giới tự nhiên là vật liệu,
đối tượng, công cụ của hoạt động sinh sống của con người”, “ con người phải ở lại
trong quá trình thường xuyên giao tiếp với giới tự nhiên để tồn tại” [17, tr135].
Giới tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người, là điều kiện
đầu tiên thường xuyên và tất yếu của sự tồn tại người, của quá trình con người lao
động sản xuất ra của cải vật chất và do đó cũng là sự tồn tại của xã hội.
Con người trước hết là một sinh vật nhưng là một sinh vật khác với tất cả
những sinh vật khác ở khả năng tự ý thức về mình. Điều đó khẳng định, con người
là một sinh vật có tính loài, có ý thức. C.Mác viết: Nếu như con vật đồng nhất trực
tiếp với hoạt động sinh sống của nó và không tự phân biệt nó với hoạt động sinh
sống khác thì con người lại làm cho bản thân hoạt động sinh sống của mình trở

thành đối tượng của ý chí và của ý thức bản thân mình. Vì vậy, hoạt động sinh sống
của con người là hoạt động sinh sống có ý thức,..... Chỉ vì thế mà con người là một
sinh vật có tính loài... chỉ vì thế mà hoạt động của con người là hoạt động tự do
[ 17, tr 136]. Như vậy, cùng là thực thể tự nhiên nhưng sự khác nhau cơ bản giữa
con người và con vật là ở chỗ: con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người
thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, sản phẩm của con vật trực tiếp gắn với cơ


11

thể, thể xác của nó, còn con người thì đối diện một cách tự do với sản phẩm của
mình [17, tr137].
Quan điểm giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người là một tư tưởng độc
đáo bởi giới tự nhiên mà C.Mác nói ở đây không phải là tự nhiên hoang sơ mà tự
nhiên đó nằm trong mối quan hệ với xã hội. C.Mác nhấn mạnh “ con người trực
tiếp là thực thể tự nhiên” [17,tr 232]. Ông đi vào giải thích: Với tính cách là thực
thể tự nhiên, hơn nữa lại là thực thể tự nhiên sống, con người một mặt được phú
cho sức mạnh tự nhiên dưới hình thức các năng lực thiên bẩm. Nhưng mặt khác
con người còn bị quy định và bị hạn chế bởi những đối tượng tự nhiên bên ngoài
nó, những đối tượng không phụ thuộc vào nó nhưng lại cần biết và căn bản để nó
thể hiện và khẳng định mình.
Như vậy, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội, cũng
như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt tự
nhiên là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất
để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang
giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly
khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào
nhau để tạo thành con người tự nhiên - xã hội .
1.1.2. Sự tha hóa lao động
Quan niệm của C.Mác về lao động sản xuất được hình thành thông qua xem

xét lao động bị tha hóa, sự tha hóa của người công nhân trong điều kiện của sản
xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác hiểu lao động bị tha hóa, tự tha hóa chính là việc lao
động, tư liệu lao động, đối tượng lao động và sản phẩm của lao động, những cái mà
vốn trước đây thuộc về người lao động thì giờ đây đã tách khỏi và trở thành xa lạ,
thậm chí chống lại người lao động là công nhân. Theo sự xem xét của C.Mác thì


12

bản chất của lao động bị tha hóa chính là việc người lao động bị tách khỏi những
điều kiện căn bản nhất của quá trình lao động, tức là những công cụ lao động, tư
liệu lao động nói chung và nguyên nhân trực tiếp của sự tách rời ấy là chế độ tư
hữu tư sản. Từ việc xem xét quá trình lao động ấy của người công nhân, C.Mác đã
chỉ ra nội dung, vai trò của các yếu tố, điều kiện tất yếu cấu thành hoạt động lao
động và bản chất của lao động.
C.Mác đã cho thấy rõ tư tưởng của ông về bản chất lao động thông qua sự
phân tích các yếu tố và điều kiện tự nhiên của quá trình lao động. Theo ông, lao
động trước hết là quá trình đối tượng hóa con người, bản chất con người. Trong
bản thảo kinh tế triết học năm 1844, C.Mác đã làm rõ nội dung và thực chất của
các phạm trù “ sự tha hóa của lao động”, “ lao động bị tha hóa”, “ sở hữu tư nhân”
và mối quan hệ của chúng trên cơ sở lấy sự kiện kinh tế làm điểm xuất phát. Sự
kiện đó là “ người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối lượng
sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo. Người công nhân càng tạo ra
nhiều hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm
càng tăng thêm giá trị thì thế giới con người càng mất giá trị” [17, tr 128]. Ngay từ
đầu C.Mác đã lý giải sự tha hóa của con người từ chính đời sống xã hội của con
người, từ điều kiện sống và các quan hệ xã hội của họ, từ hoạt động thể hiện sức
mạnh bản chất của con người đó là lao động.
Khác với các đại biểu của triết học cổ điển Đức, những người coi sự xuất
hiện của chế độ tư hữu là do bản tính tham lam, ích kỷ của con người. C.Mác đã

tập trung lý giải sự tha hóa của lao động với tư cách là một tất yếu lịch sử, ông cho
rằng: sự tồn tại và phát triển của “ lao động bị tha hóa” gắn liền với chế độ tư hữu.
Chế độ tư hữu đó được sinh ra do “lao động bị tha hóa” và khi “ lao động bị tha
hóa” xuất hiện đã làm nảy sinh sự tha hóa của lao động và dẫn đến “ con người bị
tha hóa”, “ đời sống bị tha hóa”. Để khắc phục sự tha hóa này, C.Mác khẳng định


13

chính là sự xóa bỏ chế độ tư hữu và việc giải phóng người công nhân khỏi “ lao
động bị tha hóa” dưới chủ nghĩa tư bản.
Trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác khẳng định “ việc con
người bị tha hóa với sản phẩm lao động của mình, với hoạt động sinh sống của
mình” và sự đối lập có tính chất thù địch giữa người với người. Chính những điều
kiện sản xuất ra đời sống vật chất của họ tạo ra sẽ dẫn tới sự tha hóa của con người
đối với “ đời sống có tính loài” của nó tới “ sự tha hóa của con người với con
người”. [17, tr 138].
C.Mác khẳng định chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa một mặt là cơ sở,
là nguyên nhân của sự tha hóa và tự tha hóa của lao động, mặt khác là kết quả của
sự tha hóa lao động và chính kết quả của sự tha hóa đó lại dẫn đến sự tái sản xuất
ra chế độ tư hữu ấy. C.Mác coi chế độ tư hữu là biểu hiện vật chất của lao động bị
tha hóa. Theo ông có ba biểu hiện cụ thể của lao động bị tha hóa . Thứ nhất, sản
phẩm của lao động không phụ thuộc vào lao động mà lại đối lập với lao động như
một tồn tại khác xa lạ với lao động. Thứ hai, nếu trong quá trình sản xuất, lao động
bị tha hóa thể hiện ở sản phẩm của nó thì chính quá trình sản xuất ra sản phẩm ấy
cũng là quá trình lao động bị tha hóa. Thứ ba, trong quá trình lao động bị tha hóa
nó làm cho bản thân con người cũng bị tha hóa, con người trở nên xa lạ với bản
chất tinh thần của mình, xa rời bản chất đồng loại của mình.
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C.Mác cho thấy chế độ tư hữu
chính là căn nguyên khiến cho con người bị tha hóa. C.Mác đã chỉ ra và phân tích

rất rõ chế độ tư hữu khiến cho con người bị tha hóa như thế nào trên hai phương
diện: một là, sự tha hóa của người công nhân trong sản phẩm lao động của anh ta;
hai là, sự tha hóa của người công nhân trong bản thân hành vi sản xuất, trong bản
thân hoạt động sản xuất. Chế độ tư hữu khiến cho giá trị con người bị hạ thấp


14

xuống chỉ bằng máy móc, khiến cho người công nhân cảm thấy mình chỉ còn là
con vật trong những chức năng con người. Do đó, xóa bỏ chế độ tư hữu là điều vô
cùng cần thiết và tất yếu. Việc xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu là một giải
pháp để giải phóng con người mà trước hết là những người công nhân không có sở
hữu khỏi ách thống trị của chế độ tư hữu và trả lại cho con người một đời sống
đích thực thay vì một đời sống bị tha hóa.
Như vậy, C.Mác không chỉ dùng khái niệm tha hóa để giải thích về sự đối
tượng hóa bản chất con người mà còn dùng nó để chỉ các quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa, vạch trần sự bóc lột trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chính vì thế, sự giải
phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu, khỏi sự nô dịch chính là quá trình giải phóng con
người khỏi sự tha hóa của lao động. Trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
C.Mác đã dự báo được một xã hội có thể khắc phục được sự tha hóa ấy, đó là xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1.3. Giải phóng con người
Giải phóng con người khỏi mọi sự khổ đau, đem lại cho con người một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của nhân loại và cũng là điều
quan tâm lớn nhất của các nhà tư tưởng ở mọi thời đại. C.Mác không chỉ là một
trong những nhà tư tưởng ấy mà còn vượt lên trên họ, trở thành một trong những
nhà tư tưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại, người sáng lập học thuyết về sự tự giải
phóng của con người.
Đối với C.Mác, sự phát triển con người, việc khẳng định bản chất con người
về thực chất là để cho con người đạt được trạng thái hòa đồng giữa nó và tự nhiên,

giữa xã hội và tự nhiên, giữa con người và xã hội, giữa con người với nhau và điều
đó cũng có nghĩa là để cho con người đạt tới hình thức cộng đồng mới, cao hơn,
cộng đồng toàn nhân loại. Để đạt tới trạng thái đó cần phải xóa bỏ tình trạng lao


15

động bị tha hóa, xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản. Đấy chính là quá trình con người
chiếm hữu lại tự nhiên, thế giới đối tượng, chiếm hữu lại bản chất con người của
mình.
Trong khi nói về sự phát triển xã hội , C.Mác không tách rời nó khỏi sự phát
triển con người. Đối với ông ngay trong sự phát triển xã hội đã bao hàm sự phát
triển con người và ngược lại. C.Mác cho rằng sự phát triển xã hội là sự phát triển
cái hình thức, phương thức để phát triển bản thân con người. Chủ nghĩa Cộng sản
chỉ có thể ra đời trên cơ sở giải phóng con người khỏi tình trạng lao động bị tha
hóa, tự tha hóa, khỏi chế độ tư hữu tư sản.
Trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, C.Mác đã phát hiện ra tính
hai mặt của lao động, của sở hữu tư nhân và từ đó khẳng định chính lao động bị tha
hóa là nguồn gốc cơ bản trực tiếp và sở hữu tư nhân là nguồn gốc dẫn đến mọi nỗi
khổ đau của nhân loại, của mỗi con người và làm con người bị tha hóa. Từ đó,
C.Mác đã đi tới kết luận quan trọng đầu tiên trong học thuyết về sự giải phóng con
người của mình là sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với tư
cách kết quả của quá trình lao động bị tha hóa, nó nguyên nhân chủ yếu và cơ bản
nhất gây ra những tai họa khủng khiếp cho con người, làm tha hóa con người. Do
đó vấn đề bức thiết đặt ra là muốn giải phóng con người, cần phải xóa bỏ hình thức
sở hữu tư nhân.
Phải nhìn nhận rằng, nền sản xuất của xã hội tư bản đã biến toàn bộ con
người thành con người hàng hóa, thành một thực thể mất hết tính người cả về thể
xác và tinh thần. Vì thế việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập nên hình thái chủ nghĩa
cộng sản là một tất yếu. Cần xây dựng một xã hội Cộng sản chủ nghĩa và xã hội

ấyphải là sự giải phóng triệt để mọi lực lượng bản chất của con người biến mọi
cảm giác, thuộc tính và nhu cầu của con người thành cảm giác, thuộc tính và nhu


16

cầu xã hội. Chủ nghĩa Cộng sản ấy quyết không phải là thứ chủ nghĩa Cộng Sản
thô lỗ, cùng khổ, phủ nhận toàn bộ sự phát triển của văn hóa, văn minh trước đó để
trở về trạng thái giản đơn, trái tự nhiên làm mất hết nhu cầu phong phú của con
người.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ chế độ tư hữu không phải là một bài toán dễ, nó vô
cùng nan giải, muốn giải được thì cần phải trải qua một quá trình rất khó khăn và
lâu dài trong hiện thực.. Ngoài ra để xóa bỏ chế độ tư hữu, con người cần phải hiểu
được bản chất của nó: “ Vì con người chưa làm rõ được cho mình bản chất tích cực
của chế độ tư hữu và chưa hiểu được tính chất con người của nhu cầu cho nên con
người cũng còn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền nhiễm” [ 14, tr 167]. Theo
C.Mác, muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu thì tư tưởng về chủ nghĩa Cộng sản
là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xóa bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì
phải có hành động Cộng sản chủ nghĩa hiện thực” [ 17, tr 194].
Để giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, sau này C.Mác đã tự xác định
cho mình nhiệm vụ phải làm rõ bản chất của chế độ tư hữu và phát hiện, khơi dậy,
tập hợp, phát triển những hành động Cộng sản do chính lịch sử đem lại. Do vậy,
ngay sau khi hoàn thành bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và đến hết cuộc đời,
C.Mác đã dốc toàn bộ tâm lực của mình vào việc luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn cách mạng với mong muốn giúp nhân loại sớm thoát khỏi cảnh đọa đày,
đau khổ để trở về với con người, với tất cả những gì tốt đẹp nhất. Ông đã rút ra kết
luận về sự giải phóng xã hội khỏi chế độ tư hữu và coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu là
điều kiện tất yếu, chủ yếu của sự giải phóng công nhân về kinh tế và chính trị,
đồng thời là sự xóa bỏ một cách hoàn toàn hiện thực sự tha hóa của con người.
Trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác tập trung nói về vấn đề

cải tạo xã hội theo chủ nghĩa Cộng sản và xem xét vấn đề này chủ yếu dưới góc độ


17

triết học. Ở đây, C.Mác đã nêu lên những quan điểm mới về nguyên tắc, đó là quan
điểm về chủ nghĩa Cộng sản chân chính với tư cách hình thức biểu hiện cao nhất
của việc xóa bỏ chế độ tư hữu và cũng là hình thức cao nhất của việc xóa bỏ mọi
tha hóa và tự tha hóa của con người. Xóa bỏ sự tha hóa về kinh tế cũng như sự tha
hóa trong lĩnh vực ý thức. Ông cho rằng: “ chỉ có những trật tự xã hội nào xóa bỏ
được những mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa người với người và làm
cho tình cảm của con người trở nên nhân đạo và phù hợp với tính loài có ý thức –
bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của con người, đồng thời sản sinh ra con người
phong phú và toàn diện, sâu sắc trong tất cả cảm giác và tri giác của nó thì trật tự
đó mới có thể được gọi là chủ nghĩa Cộng sản chân chính”. [ 17, tr 177]
Chủ nghĩa Cộng sản mà C.Mác nói đến sẽ giải quyết thực sự cuộc tranh chấp
giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người, sẽ giải quyết thực sự
cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa sự đối tượng hóa và sự tự khẳng
định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài. Giải quyết thực sự ở đây là sự giải
quyết mạnh tính hiện thực, chỉ có như thế mới xóa bỏ được chế độ tư hữu trong
hiện thực thực tế. Theo C.Mác, chủ nghĩa Cộng sản có khả năng xóa bỏ hiện tượng
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thay thế bằng một quan hệ phổ biến gắn
chặt giữa chủ thể lao động và đối tượng lao động. Trong quan hệ này, người lao
động dùng phương tiện chiếm hữu đối tượng lao động chứ không làm nảy sinh sự
tách rời giữa người lao động và đối tượng lao động.
Có thể thấy, tư tưởng của C.Mác về sự xóa bỏ hiện tượng tha hóa không chỉ
là sự phủ định quan hệ kinh tế mang tính chất đối kháng trong xã hội tư bản chủ
nghĩa mà còn là lý tưởng cho sự giải phóng mọi tiềm năng của con người. Chỉ khi
được giải phóng khỏi những trói buộc do sự phiến diện của chế độ chiếm hữu và
của chế độ tư hữu, con người mới có thể là con người toàn vẹn. Quan điểm đó của

C.Mác cho thấy ông đã đưa ra được một phác thảo về một xã hội tương lai với tư


18

cách một nấc thang trong lịch sử nhân loại và là xã hội nhân đạo nhất, mang bản
chất nhân văn nhất- xã hội mà ở đó có sự phát triển toàn diện của con người, có
khả năng thỏa mãn ngày càng đầy đủ những nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người, có sự kết hợp hài hòa những lợi ích của cá nhân, lợi ích của xã hội .
1.2. Tư tưởng triết học về con người của C. Mác trong tác phẩm “Luận
cương về Phoiơbắc”
“Luận cương về Phoiơbắc” được C.Mác viết tại Bruyxen vào mùa xuân năm
1845, là văn kiện ngắn gọn nhưng lại chứa đựng những nội dung triết học rất sâu
sắc, quan trọng và có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với triết học Mác nói riêng, chủ
nghĩa Mác nói chung. Vấn đề con người và bản chất con người là một trong những
nội dung cơ bản được C.Mác trình bày trong tác phẩm được tập trung ở luận đề thứ
6. Từ luận đề này, C.Mác đã phát triển quan điểm của ông về bản chất con người
trong nhiều tác phẩm ông viết sau này.
Công lao vĩ đại của L.Phoiơbắc thể hiện ở chỗ ông đã phê phán một cách
mạnh mẽ quan điểm duy tâm, thần bí, cùng với đó là tìm cách lý giải nguồn gốc,
bản chất con người theo quan điểm duy vật. Ông cho rằng, không phải Chúa đã
sáng tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra hình
ảnh của Chúa theo hình ảnh của con người. Từ đây, L.Phoiơbắc khẳng định: ý thức
cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm của khí quan vật chất nhục thể, tức
là bộ óc. Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, mà chính tinh thần là sản
phẩm tối cao của vật chất.
Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là khi giải thích vấn đề bản chất con người
và về lịch sử xã hội loài người, L.Phoiơbắc đã rơi vào duy tâm. Ôngđã cố gắng
chống lại sự “tha hoá” vào thần thánh của con người và nếu như chỉ dừng lại ở đây
thì quan niệm của ông có điểm hợp lý, nhưng khi tiến xa hơn thì sự giải thích của



19

L.Phoiơbắc lại rơi vào sai lầm. Con người mà L.Phoiơbắc nêu ra là con người
chung chung, trừu tượng, phi lịch sử. Ông không xem xét con người trong các mối
quan hệ xã hội nhất định mà họ đang sống, không đếm xỉa đến các điều kiện sinh
hoạt mà họ có được. Vì vậy, con người mà ông nêu ra hoàn toàn tách rời hoạt động
thực tiễn, xa rời đời sống xã hội hiện thực. Từ đó, mối quan hệ giữa người với
người được ông gói gọn trong quan hệ tình yêu, tình bạn, hơn thế nữa lại là tình
yêu, tình bạn được lý tưởng hoá.
Thông qua việc phê phán quan điểm của L.Phoiơbắc, C.Mác đã khái quát
bản chất con người như sau: “L.Phoiơbắc hoà toàn bản chất tôn giáo vào bản chất
con người. Nhưng bản chất con người không phải cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các
mối quan hệ”. Với quan niệm này, C.Mác đã đưa lại cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để giải quyết vấn đề con người, hiểu đúng bản chất con người.
Điều này, do hạn chế về măt lịch sử L.Phoiơbắc đã không thể đem lại một quan
điểm đúng đắn. Do vậy, theo L.Phoiơbắc, “bản chất con người chỉ có thể được hiểu
là “loài”, là tính phổ biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần tuý tự nhiên đông
đảo cá nhân lại với nhau” [14, tr11].
Nếu như L.Phoiơbắc không nói đến quá trình lịch sử cũng như không bàn
đến quan hệ kinh tế - xã hội của con người, ông xem xét cá nhân con người một
cách chung chung, trừu tượng, cô lập con người với các quan hệ xã hội thì trái lại,
C.Mác khẳng định, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, thừa
nhận sự thống nhất biện chứng giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người.
Theo C.Mác, con người trước hết là một cá nhân sống; ở đó, mặt sinh học là
mặt tự nhiên có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, như mọi động vật khác, con người là
một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài của thế giới động



20

vật. Song, không vì thế mà khẳng định rằng, cái duy nhất tạo nên bản chất con
người là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con người. C.Mác thừa nhận
con người là động vật cao cấp nhất, có đầy đủ các đặc trưng của sinh vật, nhưng
không vì thế mà đồng nhất con người với động vật. Theo C.Mác, sự khác nhau
giữa con người và động vật là ở chỗ, con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình. Bước tiến hoá này do tổ chức cơ thể của chính con người quy
định. Con người sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình, tạo ra các tư liệu
sinh hoạt cho mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật
chất của mình. Con người sáng tạo ra lịch sử, tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên;
còn con vật chỉ tái tạo, sản xuất ra bản thân nó mà thôi. C.Mác cho rằng, ngay
trong tính “loài” của con người cũng không phải tính loài trừu tượng mà có nghĩa
là tính xã hội và loài người chính là “xã hội người”.
Con người sống trong xã hội bằng hoạt động thực tiễn của mình, trước hết là
hoạt động sản xuất vật chất vì thế họ không thể tách rời nhau, tồn tại độc lập.
Chính việc phải quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất, làm ra của cải vật chất
nuôi sống mình, con người buộc phải giao tiếp, quan hệ với nhau, từ đó tạo nên
quan hệ xã hội. Tính xã hội, quan hệ xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con người
khác con vật. Do vậy, hoạt động của con người không phải là hoạt động theo bản
năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Thông qua lao động và giao tiếp xã
hội, tư duy, ý thức của con người dần được nảy sinh và phát triển.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi
tiếng về bản chất con người: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.Quan điểm của C. Mác cho thấy, bản chất con
người hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực. Đó là những con người
cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc
lộ ở những mức độ cụ thể. Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần làm hình thành



21

nên bản chất con người. Các quan hệ này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ,
chúng có vị trí, vai trò khác nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.
Còn có nhiều ý kiến khác nhau về luận điểm trên của Mác, nhưng nhìn chung,
có thể hiểu bản chất con người là «tổng hòa những mối quan hệ xã hội» ở những
khía cạnh dưới sau: nếu xét theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan
hệ hiện tại và quan hệ tương lai, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện
tại giữ vai trò quyết định; nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là những quan hệ
vật chất và những quan hệ tinh thần, trong đó suy cho đến cùng thì những qua hệ
vật chất giữ vai trò quyết định; nếu xét theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp,
gián tiếp, tất nhiên, ngẫu nhiên, ổn định, không ổn định,… trong đó suy cho đến
cùng thì những quan hệ trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ vai trò quyết định; nếu xét
theo các lĩnh vực của đời sống xã hội thì có các quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị,
quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức,.. trong đó, suy cho đến cùng thì các quan hệ
kinh tế tiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò quyết định. Trong quan hệ kinh tế thì
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng hơn cả. Khi các quan hệ xã hội thay
đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có sự thay đổi. Bản chất con
người được hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ
xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, chung
chung mà chỉ có những con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định,
trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Thông qua những quan điểm xã hội
cụ thể đó, bản chất con người mới bộc lộ thực sự. Rõ ràng muốn xem xét bản chất
của một con người phải xuất phát từ toàn bộ các mối quan hệ xã hội ấy. Chỉ ra bản
chất của con người, C.Mác không dừng lại ở bản năng sinh vật của con người, thực
chất là ông muốn nói đến, bàn đến con người hiện thực, nói đến bản năng xã hội
của con người trong mọi quan hệ của đời sống. Trong đó, lao động xã hội quyết



22

định đời sống của con người. Do vậy, bản năng sinh vật gia nhập vào bản năng lao
động xã hội tạo thành bản năng có ý thức. Điều này làm cho con người hoàn toàn
khác con vật, kể cả động vật bậc cao.
1.3. Tư tưởng triết học về con người của C. Mác, Ph.Ăngghen trong tác
phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”
1.3.1. Con người và vấn đề con người là tiền đề, là điểm xuất phát của việc
nghiên cứu lịch sử - xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu rằng, để xây dựng và trình bày quan niệm về lịch
sử với tư cách là một hệ thống lý luận triết học khoa học, nhất định phải xác lập
quan điểm có tính chất nền tảng của nó. Chính vì vậy, ngay từ đầu tác phẩm “ Hệ
tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định lý luận của các ông không
phải không dựa trên một tiền đề nào, mà tiền đề của việc nghiên cứu lịch sử đó là
con người. Các ông viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là
những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề hiện thực mà
người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện
thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều
kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo
ra…Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống”[14, tr. 28-29].
Trước đây, khi nói về vấn đề con người, Bauơ và Stiếcnơ coi con người như
một thực thể tinh thần. Đến L.Phoiơbắc, con người đã được xem xét một cách cụ
thể bằng xương, bằng thịt nhưng do thiếu một quan điểm thực tiễn, nên chủ nghĩa
triết học nhân bản của ông mang tính chất trực quan. Do đó, trong cuộc sống
L.Phoiơbắc không hiểu được bản chất của con người, ông chỉ dừng lại ở con người
trừu tượng.



23

Chính vì điều này mà trên thực tế ta thấy được rằng, L.Phoiơbắc đã có sự thụt
lùi hơn so với các nhà duy vật Pháp bởi các nhà duy vật Pháp họ đã thấy được sự
phụ thuộc của con người vào hoàn cảnh. Con người theo họ, đó là sản phẩm của
hoàn cảnh, hoàn cảnh quyết định bản chất của nó. Tuy nhiên ở họ vẫn chưa thoát
khỏi cái vòng luẩn quẩn đó là: Con người do hoàn cảnh quyết định, nhưng con
người lại cải tạo hoàn cảnh. Vì thế, chủ nghĩa duy vật Pháp đã đi tìm bản chất của
con người trong bản tính tự nhiên của nó.
Tuy nhiên, L.Phoiơbắc cũng có những bước tiến nhất định so với các nhà duy
vật Pháp trong xem xét bản chất của con người. Ông cho rằng, bản chất con người
là tồn tại. Điều đó có nghĩa, muốn hiểu con người phải gắn nó với những điều kiện
tồn tại hiện thực của nó. L.Phoiơbắc phê phán tôn giáo và khẳng định phải đi tìm
bản chất của con người ở trần gian là đúng, song hạn chế của ôngcũng như của chủ
nghĩa duy vật cũ là thiếu một quan điểm thực tiễn.Do thiếu quan điểm thực tiễn
đúng đắn nên các nhà duy vật cũ (kể cả L.Phoiơbắc), trong xem xét bản chất con
người đã phải dừng lại ở bản tính tự nhiên của nó. ( L.Phoiơbắc gọi là bản chất tộc
loại tình cảm, tình yêu, đạo đức v.v..), họ đã không thể giải thích được vì sao ở mỗi
thời đại khác nhau lại có những con người khác nhau. Con người của họ là con
người bất biến, trừu tượng, phi lịch sử, họ cũng không hiểu được mối quan hệ giữa
tư duy ý thức với tồn tại, cũng có nghĩa là không hiểu được con người. Như vậy do
tính chất trực quan trong xem xét, các nhà duy vật cũ chỉ thấy một bên là tồn tại,
một bên là ý thức, không thấy được sự sáng tạo của ý thức, vì thế họ không đủ sức
để bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết về vấn đề
này.Ví dụ, khi Phíchtơ cho rằng “cái tôi” thuần tuý sinh ra mọi cái. L.Phoiơbắc đã
vạch ra được điều vô lý là tại sao một cái tôi, không có cái gì nữa mà lại sinh ra
mọi cái được. Nhưng ông không đủ sức để cắt nghĩa một cách khoa học, không
giải thích được vì sao con người với 5 giác quan lại nhận thức được thế giới…



24

Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm lại thổi phồng mặt năng động chủ quan của ý
thức.
C.Mác cho rằng, chỉ có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới khắc phục được
những hạn chế đó. Chỉ có xuất phát từ quan điểm thực tiễn chúng ta mới có thể giải
thích được vì sao ý thức con người phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan, vì sao ý thức lại có vai trò to lớn trong cải tạo hiện thực khách quan…
Sau khi vạch ra những nguyên nhân hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đi đến kết luận, muốn nhận thức đúng bản chất
con người không có con đường nào khác là phải xuất phát từ quan điểm thực tiễn.
Trong tác phẩm này, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ con người là sản phẩm của
tự nhiên, vì thế để hiểu con người cần nghiên cứu quan hệ của nó với bộ phận tự
nhiên còn lại. Điều quan trọng nhất, theo các ông, quan hệ của con người với tự
nhiên diễn ra trong sản xuất vật chất, trong hoạt động thực tiễn. “Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. [14, tr29].
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, bản chất của con người không phải ở tính tự
nhiên (tính tộc loại theo L.Phoiơbắc) mà cái tạo nên sự hình thành và phát triển của
bản chất ấy là sự biến đổi của các quan hệ xã hội. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội luôn là cái được
xác định và vận động biến đổi không ngừng, điều đó cho thấy, bản chất của con
người cũng là cái cụ thể và luôn vận động, phát triển.
Như vậy, với việc xác định khái niệm con người là khái niệm xuất phát của
triết học khoa học về lịch sử không những chứng tỏ C.Mác và Ph.Ăngghen thấy rõ
vị trí của con người với tư cách là chủ thể lịch sử, xã hội, mà còn cho thấy các ông



25

đã đặt khái niệm này đúng vị trí của nó trong “ hệ thống quan niệm duy vật về lịch
sử”. Đúng là “ lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy phải bắt đầu từ đó”. Vị trí lịch sử
hiện thực của con người như thế nào thì vị trí của nó với tư cách là khái niệm của
nhận thức lý luận khoa học về lịch sử cũng phải như thế ấy.
1.3.2. Xuất phát từ quan niệm con người đó là con người sống, hành động,
sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra cơ sở của toàn bộ đời sống xã hội
đó là sản xuất vật chất
Trong “Hệ tư tưởng Đức” có nhiều luận điểm thể hiện “ định nghĩa” của
C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế xã hội với tư cách là kết cấu xã hội
chung tất yếu. Luận điểm nổi bật là: “Phải xuất phát từ chính sự sản xuất vật chất
ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất,…”. Quan niệm
của các ông về sản xuất vật chất được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, các ông khẳng định: “tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con
người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã
rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có
thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch
sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc
sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một
điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước
người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con
người”[14, tr39].
Hai là, việc sản sinh những nhu cầu và việc thoả mãn những nhu cầu do sản
xuất vật chất đem lại, đó lại là động lực phát triển của sản xuất vật chất, động lực
phát triển của xã hội. C.Mác-Ph.Ăngghen khẳng định: khi “nhu cầu đầu tiên đã
được thỏa mãn, hành động thỏa mãn và công cụ để thỏa mãn mà người ta đã có



×