Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Những khó khăn thách thức trong việc áp dụng các mô hình cải cách khu vực công ở nước ta hiện nay và các giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.55 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN MÔN
LÝ LUẬN QUẢN LÝ CÔNG

CHỦ ĐỀ
NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC
MÔ HÌNH CẢI CÁCH KHU VỰC CÔNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ
CÁC GIẢI PHÁP KHĂC PHỤC

TP. Hồ Chí Minh - năm 2017


MỞ ĐẦU
Quản lý công mới(New Public Managerment) và quản trị nhà nước tốt
(Good Governance) đều có bản chất là hướng tới xây dựng một nền hành chính
minh bạch, tinh gọn, năng động và hiệu quả, nó hướng đến phục vụ công dân
thay vì cai trị nhân dân như trong mô hình hành chính công truyền thống.
Đây là những xu hướng cải cách hành chính đã xuất hiện khoảng 30 năm
trở lại đây trên thế giới và ngày càng mở rộng như là xu thế tất yếu của thời đại.
Nếu quản lý công mới nhấn mạnh đến sự tham gia của khu vực tư vào khu vực
công, vận dụng những nguyên tắc của thị trường vào hoạt động cuả chính phủ,
phi tập trung hóa và phi quy chế hóa, khoa học hóa quy trình quản lý, các quyết
sách chính trị-hành chính để hướng đến một nền hành chính năng động, hiệu
quả. Thì mô hình quản trị nhà nước tốt (Good Governance) hướng đến các giá
trị: Mở rộng sự tham gia của công dân vào hoạt động quản lý nhà nước
(participatory), Hoạch định chính sách trên nguyên tắc đồng thuận xã
hội(consensus

oriented),

xây


dựng

một

nền

hành

chính



trách

nhiệm(accountable) và minh bạch (transparent), Trách nhiệm giải trình
(responsive), hiệu quả và hiệu lực(effective and efficient), công bằng, toàn
diện(equitable and inclusive) và tuân thủ luật pháp (follows the rule of law).
Tuy nhiên, nền hành chính vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém,
chưa đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
thời kỳ mới. Do những bất cập này, việc áp vận dụng quản lý công mới và quản
trị nhà nước tốt vào nước ta trong giai đoạn tới sẽ gặp những khó khăn, thách
thức như sau:


NỘI DUNG
I. Những khó khăn, thách thức trong việc áp dụng các mô hình cải cách khu
vực công ở nước ta hiện nay
1.1. Mô hình Quản lý công mới
Áp dụng mô hình quản lý công mới đã trở thành trào lưu của nhiều nước
trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển. Tuy vậy, việc áp dụng mô hình này

là hết sức khó khăn, phải căn cứ vào đặc điểm và điều kiện cụ thể của từng
nước. Áp dụng mô hình quản lý công mới vào Việt Nam cũng gặp nhiều khó
khăn, thách thức, cụ thể bao gồm:
- Cải cách hành chính là một công việc phức tạp, khó khăn vì nó động
chạm đến bộ máy, đến cá nhân, đến quan điểm của cá nhân và các nhóm lợi ích.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chưa được nghiên
cứu một cách thấu đáo, chưa đề ra được các nội dung lãnh đạo thật sự cụ thể,
hiệu quả, hoặc là Đảng còn bao biện, làm thay đổi công việc của Nhà nước, hoặc
là Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với Nhà nước.
- Pháp luật không đầy đủ, thực hiện pháp luật không nghiêm.
- Bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương còn cồng
kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.
- Trong các cơ quan nhà nước còn tồn tại khá phổ biến tình trạng thiếu
dân chủ; tệ quan kiêu, hách dịch, cửa quyền, lãng phí, tham nhũng vẫn còn
nhiều.
- Tình trạng liên tục gia tăng biên chế trong các cơ quan, tổ chức tạo áp
lực lớn cho ngân sách nhà nước.
- Quản lý tài chính công kém hiệu quả.
- Tiền lương của cán bộ, công chức thấp là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng thờ ơ, vô trách nhiệm và những công chức giỏi xin ra khỏi các cơ quan nhà
nước. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, hối lộ, tham nhũng (vật chất,
thời gian), mua quan bán chức không được ngăn chặn, đẩy lùi…


- Hệ thống đánh giá cán bộ, công chức được xác định đúng, không dân
chủ và thiếu khách quan.
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu trình độ, năng lực và các kỹ năng, không
biết sử dụng các yếu tố tạo động cơ làm việc cho cán bộ, công chức.
- Văn hóa làng xã, bè phái, tưtưởng “một trăm cái lý không bằng một tí
cái tính”; “phép vua thua lệlàng”, bệnh hình thức, sính bằng cấp còn khá

phổbiến.
1.2. Mô hình Quản trị nhà nước tốt
- Cho đến nay vẫn chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đầy đủ, đồng
bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập quốc tế và tiến bộ
khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Hiện vẫn chưa xác định được một
cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý các hoạt
động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung, sửa đổi
về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế; mang
tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
- Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn chung
vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và
người dân; chủ yếu vẫn theo cơ chế “xin - cho”. Cơ chế “một cửa” tuy
được triển khai rất rộng rãi nhưng còn mang tính hình thức, chưa có chuyển biến
thực sự về chất trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
- Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ của cả bộ máy hành chính
Nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành chính còn rất chậm, chưa
phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa
phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay
bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền địa phương còn
ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh doanh và hoạt
động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản
lý nhà nước. Hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ vai trò, chức năng của ba khu


vực: Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự, kể cả trong lĩnh vực thể chế cũng
như trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn rất cồng kềnh, đồ sộ,
nhiều tầng cấp trung gian. Việc phân cấp Trung ương - địa phương vẫn rất chậm

chạp. Cho đến nay, các Bộ ngành vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ thể của chính
quyền địa phương làm hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Các Bộ
vẫn được tổ chức theo mô hình Bộ đơn ngành, đơn lĩnh vực, cơ cấu tổ chức bên
trong của các Bộ, số lượng cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện
lại đang có xu hướng tăng thêm đầu mối. Bộ máy cồng kềnh, nhiều đầu mối như
hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm
quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu của bộ máy là không thể tránh khỏi.
- Phương thức quản lý điều hành của bộ máy hành chính các cấp vẫn theo
chế độ làm việc tập thể, quyết định theo đa số có nhiều hạn chế nhưng chậm
được thay đổi. Hoạt động quản lý điều hành hành chính, cũng như các dạng
quản lý điều hành khác, đòi hỏi phải theo chế độ thủ trưởng, phải đề cao vai trò
và trách nhiệm của người đứng đầu thì mới đảm bảo nhanh nhạy, hiệu lực, hiệu
quả.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được
yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử
lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật tiến hành chưa nghiêm minh, chưa
thường xuyên, thiếu khách quan, công bằng dẫn đến kém hiệu quả, ít tính giáo
dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công vụ, trách nhiệm của công chức
chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút về phẩm chất đạo
đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu của dân, của xã hội.
- Về thực hiện yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự
thay đổi cơ bản trong phương thức lề lối làm việc của cơ quan hành chính và
phong cách thực thi công vụ của cán bộ, công chức mà vẫn mang nặng dấu ấn
của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính
còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao động, hiệu quả công tác của công chức


thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém,
nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản

xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế nhiều khi thái quá và vô lý.
Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau: Hệ thống pháp luật
kinh tế trong cơ chế thị trường đã có bước phát triển, tuy nhiên vẫn chưa đồng
bộ; Vai trò của Nhà nước với tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều
khi bị nhầm lẫn với vai trò Nhà nước là chủ đầu tư, điều này làm cho các kế
hoạch của Nhà nước thiếu tính hướng dẫn nền kinh tế gắn với vận dụng nguyên
tắc thị trường mà nặng về phân bổ đầu tư Nhà nước; hệ thống chính sách tài
chính, tiền tệ và các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại vẫn còn lạc hậu chứa
nhiều nội dung mang tính bao cấp, bảo hộ hoặc thiên vị quá mức.
Trong điều kiện thực thi pháp luật của bộ máy Nhà nước chưa cao, những
điều trên đây đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước can
thiệp hành chính thái quá, trái thẩm quyền, trái pháp luật dưới nhiều hình thức
khác nhau vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mưu cầu
lợi ích cục bộ.
- Sự thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình và khả năng tiên liệu
thấp của hệ thống thể chế và nền hành chính.
Tính công khai, minh bạch của hệ thống thể chế và nền hành chính là yêu
cầu quan trọng hàng đầu đối với mỗi quốc gia trong quá trình gia nhập WTO.
Tính minh bạch của hệ thống pháp luật bao gồm những yếu tố như sự công khai,
sự chính xác, sự ổn định và khả năng tiên liệu được của những thay đổi trong
chính sách và pháp luật và mục đích rõ ràng của chúng. Về khía cạnh công khai
thì hệ thống pháp luật nước ta đã có những tiến bộ rõ nét, nhưng xét ở tính chính
xác và ổn định thì hệ thống pháp luật và chính sách cần được tiếp tục hoàn thiện
hơn nữa, bởi vì sự thay đổi các văn bản pháp luật diễn ra khá thường xuyên và
khả năng tiên liệu được của các văn bản pháp luật ở mức độ rất thấp.
- Tình trạng cơ quan nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân
và doanh nghiệp vẫn còn nặng nề


Việc giảm thiểu và từng bước xoá bỏ tình trạng các cơ quan nhà nước

sách nhiễu và gây khó khăn cho nhân dân và doanh nghiệp vừa là phương tiện
vừa là mục đích của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta. Trong những năm
qua, với những nỗ lực đáng kể từ cải cách thể chế, thủ tục, bộ máy cho đến hoàn
thiện đội ngũ công chức, nước ta đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận về
phương diện này, điển hình là việc thực hiện Luật Doanh nghiệp và việc áp dụng
thí điểm cơ chế “một cửa” tại nhiều địa phương. Tuy nhiên, tình trạng người dân
và doanh nghiệp bị gây khó dễ, sách nhiễu bởi các quy định, quy trình, thủ tục
phiền hà cùng với nạn quan liêu, hách dịch, thiếu trách nhiệm, tiêu cực của một
bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn khá phổ biến, có chiều hướng gia tăng hoặc
thành thông lệ, ảnh hưởng xấu, thậm chí nghiêm trọng, đến tình hình kinh tế và
xã hội. Cho đến nay chi phí và thời gian gia nhập thị trường của các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực; trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều rào cản từ
những can thiệp gây khó dễ của các cơ quan nhà nước, nhất là tình trạng trùng
lặp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát
đối với doanh nghiệp.
II. Những giải pháp khắc phục
2.1. Đối với mô hình Quản lý công mới
Cải cách hành chính phải bắt nguồn từ thực tiễn của mỗi quốc gia, phụ
thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và cả những yếu tố
khác như truyền thống, văn hóa, lịch sử… của các quốc gia đó. Tuy nhiên, việc
học tập, nghiên cứu kinh nghiệm cải cách của các nước để từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm là việc làm rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay.
Mô hình quản lý công mới xuất hiện trong môi trường các nước phát triển
phản ánh một cách rõ nét những gì cần phải làm ở các nước này. Tuy nhiên, việc
ứng dụng mô hình này vào các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu không chỉ trong giới học thuật
mà cả trong số các nhà quản lý hành chính thực tiễn.



Việt Nam chưa thể áp dụng đầy đủ các nội dung quản lý công mới vì
những lý do sau đây:
- Các nước phát triển với truyền thống quản lý hành chính lâu đời, với hệ
thống pháp luật ổn định và đầy đủ, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và tương
ứng với nó là ý thức dân chủ, ý thức pháp luật của đại bộ phận người dân đã đạt
tới mức độ cao khiến cho các giải pháp cải cách hành chính được áp dụng sẽ
khác với Việt Nam. Chẳng hạn, ở Việt Nam hiện nay còn thiếu một hệ thống
pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh. Điều đó đòi hỏi việc đầu tiên mà Việt Nam cần
phải làm là xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, thể chế hóa các hoạt động quản
lý hành chính thay vì triển khai việc thực hiện phi quy chế hóa như ở các nước
phát triển.
- Nền hành chính Việt Nam là nền hành chính truyền thống, mang nặng
tư tưởng tập trung quan liêu, bao cấp trong nhiều năm, bộ máy nhà nước cồng
kềnh, nhiều cấp; tâm lý ngại thay đổi của đại bộ phận cán bộ, công chức còn rất
lớn. Mô hình quản lý công mới đòi hỏi phải xác định lại vị trí, vai trò của nhà
nước theo hướng thu gọn và giảm bớt quy mô của nhà nước, xây dựng “nhà
nước nhỏ” trong một “xã hội lớn”. Đến nay chúng ta vẫn rất khó khăn để xác
định lại vị trí, vai trò của nhà nước.
- Tư nhân hóa cung cấp dịch vụ công là một trong những nội dung quan
trọng của mô hình quản lý công mới chỉ có thể áp dụng từng bước và theo một
cách không trọn vẹn ở Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu là sự yếu kém của khu
vực kinh tế tư nhân khiến cho việc cung cấp các dịch vụ công trở nên khó khăn
đối với họ. Việc xã hội hóa từng phần các dịch vụ công nhằm thu hút tối đa các
nguồn lực trong xã hội trong sự giám sát, quản lý của nhà nước vẫn là một trong
những phương án khả thi hiện nay ở Việt Nam.
- Nhận thức của người dân về các quyền tự do, dân chủ chưa đầy đủ,
chưa phát huy ý thức làm chủ của công dân trong đời sống xã hội, nhất là nhận
thức về vấn đề bầu cử, ý thức tham gia xây dựng chính sách và thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức…



- Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là năng lực lãnh đạo, quản lý và các kiến thức về
pháp luật, kinh tế, tin học… Điều này cản trở rất nhiều khi thực hiện chủ trương
phân cấp của trung ương cho chính quyền địa phương.
Dù sao, khi nghiên cứu các nội dung của mô hình quản lý công mới chúng
ta nhận thấy Việt Nam có thể tiếp tục đẩy mạnh cải cách theo các nội dung sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh phân cấp giữa trung ương và địa phương
Cần phân cấp mạnh hơn giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, thực hiện nguyên tắc
“tự quản địa phương”, cho phép các địa phương phát huy hết tiềm năng của
mình, tự quyết định các vấn đề liên quan tới công việc của địa phương mình,
tránh tình trạng nhà nước can thiệp quá mức cần thiết vào công việc của các địa
phương.
Nhà nước cần phân cấp mạnh trong việc quản lý nhân sự và quản lý
nguồn lực tài chính cho các cơ quan, tổ chức. Việc phân cấp được gắn liền với
trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tạo điều kiện để họ chủ động, linh hoạt, khuyến
khích họ áp dụng các biện pháp quản lý để đạt được mục tiêu của cơ quan, tổ
chức,.
Thứ hai, đẩy mạnh tư nhân hóa trong cung ứng dịch vụ công
Đồng thời với việc tăng cường tư nhân hóa cung ứng dịch vụ công, cần
tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, chống tham
nhũng chính trị. Nhà nước thực hiện ký hợp đồng cung ứng dịch vụ công dựa
trên cơ sở kết quả đấu thầu công khai và công bằng.
Các yếu tố cạnh tranh được đưa vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức
cung ứng dịch vụ công khiến cho dịch vụ công được cung cấp rẻ hơn, tốt hơn,
bộ máy nhà nước cũng trở nên gọn nhẹ hơn và tiết kiệm hơn.
Trong những năm gần đây, nhà nước đã cho tư nhân mở dịch vụ công
chứng, xây dựng trường học, bệnh viện tư, xây dựng đường sá, nhà máy thủy
điện… Nhưng nhìn chung, theo đánh giá của các chuyên gia thì nhà nước ta vẫn

chưa đẩy mạnh tư nhân hóa trong cung ứng dịch vụ công, vẫn thích ôm đồm,


thích cái sự “vất vả”. Tư nhân hóa, cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước
hiện nay vẫn đang gặp khó khăn, tốc độ tư nhân hóa, cổ phần hóa còn rất chậm,
không đạt mục tiêu.
Thứ ba, cơ cấu lại các đơn vị hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà
nước
- Cơ cấu lại những đơn vị hành chính sự nghiệp cồng kềnh, hoạt động
kém hiệu quả thành các đơn vị kinh tế tự chủ.
- Áp dụng các hình thức quản lý công mới và chuyển sang mô hình hội
đồng quản trị. Giao quyền tự chủ cho các bệnh viện, trường học, các cơ sở
nghiên cứu…
- Ký giao tài sản nhà nước cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp linh hoạt trong phát triển sản xuất, kinh doanh; các nhà quản lý tự
chủ hơn trong việc mua sắm, sử dụng hoặc bán các tài sản không cần thiết.
Thứ tư, cải cách chế độ công vụ, công chức
- Phân định rõ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước
và các cơ quan đảng, các tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ, công chức nhà nước
được điều chỉnh theo Luật Cán bộ, công chức; viên chức nhà nước làm việc
trong các đơn vị hành chính sự nghiệp được điều chỉnh hoàn toàn theo luật viên
chức; cán bộ, công chức trong các cơ quan đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có quyền lợi, nghĩa vụ theo quy chế
cán bộ chính trị do Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội quy định.Ở cấp cơ sở,
cần xác định cụ thể số lượng cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và công
chức hành chính.
Đổi mới chế độ tuyển dụng và quản lý công chức. Đây là vấn đề quan
trọng cần được triển khai thực hiện tích cực, bao gồm:
- Áp dụng chế độ thi tuyển công chức hành chính tập trung cho tất cả các
bộ, ngành trung ương (giao cho một cơ quan của Chính phủ thực hiện).

- Các nhà quản lý được chủ động trong việc tuyển dụng, sa thải, thăng
tiến, thuyên chuyển, duy trì và trả lương cán bộ, công chức. Việc trả lương cán
bộ, công chức gắn chặt với năng lực và kết quả làm việc của cán bộ, công chức.


- Thực hiện mô hình nhân sự theo chức nghiệp đối với viên chức nhà
nước và theo chế độ theo việc làm đối với công chức lãnh đạo, quản lý. Tuyển
dụng và đề bạt công chức lãnh đạo trên cơ sở cạnh tranh và tài năng.
- Thuê mướn nhân lực trên cơ sở hợp đồng thay thế cho việc bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ ở các cơ quan hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà
nước.
- Tính toán chế độ tiền lương, tiền thưởng cho cán bộ, công chức theo
mức tăng của khu vực tư.
Thứ năm, tăng cường sự tham gia của nhân dân
- Tạo điều kiện để công dân và tổ chức tiếp cận thông tin một cách dễ
dàng, chính xác và kịp thời. Đơn giản hóa thủ tục hành chính và hiện đại hóa
nền hành chính. Tất cả các giao dịch hành chính đều thông qua cổng thông tin
điện tử; mọi cơ quan hành chính nhà nước đều được đưa lên mạng.
- Đề cao vai trò của công dân, tổ chức trong việc hoạch định chính sách,
ra quyết định quản lý và đánh giá chất lượng hoạt động của các cơ quan nhà
nước bằng hình thức đối thoại trực tiếp và trưng cầu ý dân.
Thứ sáu, cải cách quản lý tài chính công
- Áp dụng mô hình quản lý tài chính công mới thay cho mô hình cấp phát
ngân sách hằng năm như trước đây. Thực hiện việc cấp phát theo chương trình,
dự án cụ thể (trừ những chỉ tiêu tất yếu và ổn định) nhằm tăng cường hiệu quả,
tiết kiệm ngân sách nhà nước.
- Việc cấp phát ngân sách được kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm những quy tắc
tài chính và coi trọng tính hiệu quả…
2.2. Đối với mô hình Quản trị nhà nước tốt
Sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước trong giai đoạn tới cùng với nhũng

biến động của bối cảnh quốc tế đặt ra những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi
công cuộc Cả cách hành chính, vận dụng những nguyên tắc của “Quản lý công
mới” và “Quản trị nhà nước tốt” trong giai đoạn tới phải thay đổi hẳn phương
hướng và cách thức tiến hành.


- Trước hết đó là sự chuyển đổi mạnh về chất sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Sự vận hành nền kinh tế theo các quy luật của thị trường sẽ
tác động sâu sắc và đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ vai trò, chức năng của
Nhà nước nói chung và của nền hành chính nhà nước nói riêng, đòi hỏi phải
chuyển mạnh từ nền hành chính "cai trị" sang nền hành chính “phục vụ”, xóa bỏ
triệt để cơ chế “xin - cho”, phải khắc phục sự can thiệp trực tiếp, tuỳ tiện vào các
hoạt động của doanh nghiệp, phải tôn trọng và tạo thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội; Kinh tế thị trường đòi hỏi
Nhà nước và nền hành chính phải thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế
đất nước, phải đối xử bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, tạo ra
“sân chơi”, “luật chơi” phù hợp với quy luật của thị trường và thực hiện tốt vai
trò của người “trọng tài” khách quan, công bằng trong việc kiểm tra, kiểm soát
việc chấp hành pháp luật, chính sách của các chủ thể tham gia các hoạt động
kinh tế - xã hội.
- Trong giai đoạn 2011-2020, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện. Trong điều kiện kinh tế mở, có tính
toàn cầu, đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế, thể
chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới; phải đổi mới tổ chức bộ
máy và nâng cao trình độ, năng lực, trách nhiệm của cán bộ, công chức để có thể
hòa nhập vào cộng đồng quốc tế, cộng đồng khu vực, trong khi Việt Nam đang ở
một khoảng cách khá xa so với thế giới.
- Cùng với quá trình cải cách kinh tế và hội nhập, quá trình dân chủ hóa
đời sống xã hội cũng đã trở thành một xu thế không thể cưỡng lại được. Kết quả
của nó đặt ra những yêu cầu cao hơn về phát huy dân chủ cơ sở, đòi hỏi thu hút

mạnh mẽ sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước, đòi hỏi phải đảm bảo
tính công khai, minh bạch trong thể chế, chính sách, thủ tục hành chính cũng
như trong thực thi công vụ, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước và các công chức
trong bộ máy hành chính phải thích ứng cả về nội dung lẫn phương thức hoạt
động.


- Sự phát triển nhanh của tiến bộ khoa học, công nghệ, đặt ra yêu cầu cao
về hiện đại hóa nền hành chính quốc gia. Yêu cầu về xây dựng Chính phủ điện
tử, hiện đại hóa nền hành chính xây dựng được phương thức thanh toán có kiểm
soát (qua tài khoản, thẻ tín dụng…thay vì thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt như
hiện nay) nâng cao trình độ của đội ngũ công chức hành chính đang tác động
mạnh mẽ đến mọi cấp. Trong khi đó ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp trước đây, sức ỳ của nền hành chính cũ đang in đậm trong nếp
nghĩ, cách làm của đội công chức trong bộ máy và đang là trở ngại, thách thức
lớn đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Nếu không có một
quyết tâm cao, cũng như các giải pháp mạnh, có tính cách mạng thì sẽ dẫn đến
tình trạng “bình mới rượu cũ” trong nội dung và phương thức hoạt động của bộ
máy hành chính.
- Sự lúng túng, chưa đủ rõ về mặt lý luận đối với những vấn đề rất cơ bản,
rất hệ trọng trong đường lối, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
vì dân, trong phát triển khu vực xã hội dân sự cũng là những thách thức đáng kể
đối với việc hoạch định các chủ trương, phương hướng tổng thể cho công cuộc
cải cách hành chính nhà nước ở nước ta theo mô hình “ Hành chính phát triển”
trong giai đoạn tới.


KẾT LUẬN
Trong quá trình áp dụng các mô hình quản lý công mới và quản trị nhà

nước tốt không nên quá đề cao các mô hình này mà cần phân tích, học tập có
chọn lọc. Mỗi một mô hình quản lý, nhất là những mô hình quản lý công mới và
quản trị nhà nước tốt đều có những điểm mạnh và điểm yếu, điểm phù hợp và
không phù hợp. Một số đặc trưng của hai mô hình cần được nghiên cứu một
cách thấu đáo, phân tích trên mọi khía cạnh, phương diện, nêu lên những ý kiến,
kiến nghị có cơ sở khoa học và ý nghĩa thiết thực, như các đặc trưng phi tập
trung hóa, phi quy chế hóa trong quản lý; phân cấp trong quản lý; xã hội hóa
dịch vụ công. Đồng thời, cần gắn các đặc trưng của mô hình này với điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Cải cách hành chính phải bắt nguồn từ thực
tiễn của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế
- xã hội và những yếu tố khác như truyền thống, văn hoá, lịch sử… của các quốc
gia đó. Vì vậy, việc nghiên cứu không được thụ động, máy móc, không dựa trên
thực tiễn và các luận cứ khoa học. Cuối cùng, cần kết hợp với việc tiếp tục
nghiên cứu mô hình quản lý công truyền thống, so sánh, đối chiếu giữa các mô
hình, thấy được những nội dung hợp lý của từng mô hình để từ đó đề xuất những
kiến nghị, giải pháp thiết thực, có cơ sở khoa học.



×