Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả con vật ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.53 KB, 22 trang )

PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt chương trình Tiểu học mới nhằm hình thành và phát
triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe- nói- đọc- viết) để học
tập, giao tiếp và giúp học sinh có cơ sở tiếp thu kiến thức ở các lớp trên.
Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành
từ các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Đồng thời nó còn gắn bó mật
thiết với tất cả các môn học khác trong chương trình Tiểu học và thể hiện
được đậm nét cá nhân. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm rèn
luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh văn bản dưới cả hai hình thức nói, viết
về một nội dung nào đó hay một đề tài cụ thể. Điều này đòi hỏi giáo viên
giảng dạy phải vận dụng các phương pháp và cách tổ chức linh hoạt để
mỗi tiết dạy tập làm văn đều đạt được hiệu quả mong muốn.
Văn miêu tả là kim chỉ nam xuyên suốt phân môn Tập làm văn ở bậc
Tiểu học nói chung và Tập làm văn lớp 4 nói riêng. Văn miêu tả là loại văn
căn cứ vào những điều quan sát, cảm nhận được về đối tượng (cây cối, đồ
vật, loài vật, con người…) xung quanh ta sinh động, tươi đẹp đã để lại cho
chúng ta ấn tượng. Những ấn tượng đó được chuyển từ trực quan sinh
động- hình ảnh hội họa sang tư duy trừu tượng- ngôn ngữ văn chương.
Muốn vẽ ra những hình ảnh chân thật của đối tượng đó, trình bày theo bố
cục hợp lí và diễn đạt bằng ngôn ngữ lời văn sinh động giàu hình ảnh,
khiến cho người đọc, người nghe cùng cảm thấy, cùng nhận thấy chúng ta
phải dùng văn miêu tảû. Học sinh Tiểu học rất thích vẽ nhưng vấn đề
chuyển từ hình vẽ sang ngôn ngữ miêu tả đối với các em là điều không thể
dễ dàng. Vì thế các em rất ngại khi làm văn miêu tả và thường mắc phải
khuyết điểm: “Công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu chân thực” bài văn
của các em có những biểu hiện vai mượn ý của người khác, học thuộc văn
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 1



mẫu khi làm bài sao chép ra. Bài văn hời hợt không có sắc thái riêng nào
của đối tượng miêu tả, thiếu sự cảm nhận, sáng tạo của học sinh do không
quan sát cụ thể đối tượng miêu tả, không biết cách hồi tưởng nhớ lại kinh
nghiệm sống của bản thân trong khi miêu tả. Là giáo viên Tiểu học tôi luôn
tự hỏi giáo viên phải làm gì để học sinh yêu thích những con chữ, những
câu văn tạo nên một bài văn miêu tả cũng như các em yêu thích màu vẽ để
tạo nên một bức tranh trên giấy. Với tôi văn chương là chìa khóa để mở ra
cho học sinh một bầu trời tri thức, là con đường đi tới những môn khoa học
khác. Thế nên cần tạo cho học sinh tình yêu văn chương, hướng cho học
sinh tạo ra những sản phẩm cơ bản ban đầu của mình- những bài văn miêu
tả tốt. Để có những bài văn miêu tả ấy giáo viên phải dạy như thế nào để
học sinh làm một bài văn cảm thấy dễ dàng, khơi gợi lòng yêu thích và say
mê làm văn miêu tả ? Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4,
văn miêu tả chiếm gần một nửa số tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao
gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Như vậy, việc rèn ky
năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc làm vô cùng quan trọng và
cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh làm được những bài
văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm xúc chân thật,
sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ sở học
tốt tất cả các kiểu bài miêu tả đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương
pháp dạy học. Lấy học trò làm trung tâm, còn thầy chỉ là người tổ chức
hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng
cao được hiệu quả và chất lượng giảng dạy.
Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng,
vụng về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói chung và tả con vật
nói riêng. Số học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là ít. Hầu
hết khi miêu tả các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn thì
rườm rà, diễn đạt ý thì lủng củng… Điều này đã làm tôi trăn trở và lo lắng.
Nguyễn Thị Phương Mai


Trang 2


Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên, nhằm đáp
ứng nhu cầu: “Làm thế nào để các em viết được những câu văn, đoạn văn,
bài văn hay. Giúp các em tự tin, phấn khởi và yêu thích phân môn Tập làm
văn. Tôi quyết định chọn đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt
bài văn miêu tả con vật ở lớp 4.”
Qua đó giúp giáo viên tự điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết
học diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả cao.
II. Mục đích đề tài:
- Giúp học sinh lớp 4 có ky năng làm bài văn miêu tả con vật hay, sinh
động và sáng tạo.
- Giúp giáo viên khối 4 có một số kiến thức và kinh nghiệm khi hướng dẫn
học sinh viết bài văn miêu tả nói chung và tả con vật nói riêng.
- Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
III. Lịch sử đề tài:
Qua nghiên cứu về phân môn Tập làm văn miêu tả của lớp 4, dự giờ,
học hỏi đồng nghiệp, đồng thời điều tra khảo sát việc học văn miêu tả của
học sinh. Từ đó thấy được những khó khăn vướng mắc của giáo viên và
học sinh thông qua các giờ dạy Tập làm văn. Tôi đi sâu thống kê thực
trạng, tìm nguyên nhân, thể nghiệm những giải pháp cụ thể đối với học sinh
lớp 4, nhằm giúp học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo.
IV. Phạm vi đề tài:
Việc nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn miêu tả lớp 4 có
nhiều vấn đề liên quan như: cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, năng
khiếu làm văn của học sinh,...Riêng trong phần giảng dạy của giáo viên
cũng có nhiều điều: dạy lập dàn ý, dạy làm văn nói, trả bài viết,...Đề tài này
chủ yếu đi sâu vào những giải pháp giúp học sinh lớp 4 nắm vững và thực

hiện tốt về quan sát, về chọn lọc ý, về lập dàn ý, về viết bài văn miêu tả con
vật gần gũi với các em mà thôi.
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 3


PHẦN II: NỘI DUNG
I. Thực trạng đề tài:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng các
em rất ngại học phân môn Tập làm văn, nhất là khi làm bài văn viết. Bởi ky
năng làm bài của các em còn hạn chế, chất lượng bài làm chưa cao. Cụ thể
là các em chưa biết cách quan sát con vật để miêu tả. Nhiều em còn chưa
hiểu quan sát là gì? Thường thì nhìn thấy cái gì các em nghĩ cái đó theo
kiểu liệt kê, chứ không biết chắt lọc các chi tiết quan sát được. Mặt khác do
vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa chính xác, sử
dụng câu nhạt nhẽo, không chọn lọc. Cách diễn đạt ý của câu văn mang
tính chất văn nói nên khi đọc gây cảm giác rườm rà, lủng củng, lộn xộn,…
Hầu hết các em chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân
hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, từ láy,… nên bài văn của các em tuy đủ ý
nhưng rất khô khan. Bên cạnh đó còn một số bài viết mắc nhiều lỗi chính
tả. Có em viết hết cả bài văn mà không có lấy một dấu chấm, một lần
xuống dòng. Có em lại chấm phẩy một cách tùy tiện.
Nói tóm lại, khi viết một bài văn miêu tả nói chung và tả con vật nói
riêng, học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước một thực trạng như vậy
thì bất cứ người giáo viên nào cũng phải băn khoăn lo lắng.
Năm học 2012 – 2013, tôi chủ nhiệm lớp 4/3 với 33 học sinh trong
đó có 19 em nữ, lớp có vài em học yếu về văn miêu tả. Khi dạy đến dạng
bài văn miêu tả tôi cố gắng cho các em làm bài vào tiết củng cố hay làm
thêm ở nhà để nắm bắt thêm tình hình viết bài văn miêu tả của học sinh lớp

mình như thế nào.
Qua hai tuần thực nghiệm, tôi đã rút ra kết quả qua một đề kiểm tra như
sau:
Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà mà em yêu thích.
Kết quả làm bài của các em thu được như sau:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 4


Tổng số
học sinh
33 học sinh

Điểm giỏi
(9 – 10)
0

Điểm khá

Điểm trung bình

Điểm yếu

(7 – 8)
8 em = 24,2%

(5 – 6)
16 em = 48,5 %


(1, 2, 3, 4)
9 em = 27,3%

- Các em học sinh đạt điểm khá là bài viết đủ ba phần, các phần có đủ ý
nhưng câu văn ngắn chưa có giàu hình ảnh nên bài văn ngắn từ 15 đến 20
câu.
- Học sinh đạt điểm trung bình là các em viết bài có đủ ba phần, diễn
đạt ý của câu văn mang tính chất văn nói, rườm rà, lủng củng, chưa có sử
dụng biện pháp nghệ thuật.
- Còn học sinh đạt điểm kém thì bài văn của các em ít ý, khô khan, tả
theo kiểu liệt kê, còn mắc nhiều lỗi chính tả, chấm, phẩy tùy tiện nên
nghĩa của câu văn không rõ. Có em làm lạc đề bài.
Qua kết quả trên, tôi nhận thấy là do những nguyên nhân:
- Học sinh chưa biết xác định kĩ đề bài.
- Khả năng quan sát của các em chưa thấu đáo, còn hời hợt.
- Các em không có ky năng lập dàn ý bài trước khi viết bài văn.
-

Vốn từ miêu tả của các em còn ít.

II. Nội dung công việc cần giải quyết:
Từ thực trạng học sinh ở lớp và tìm ra được nguyên nhân, tôi cần giải
quyết những vấn đề sau:
a/ Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
b/ Rèn kĩ năng quan sát.
c/ Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
d/ Dựng đoạn và viết bài văn miêu tả con vật.
đ/ Rèn ky năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật và tích lũy vốn từ ngữ
thông qua các môn học khác.
e/ Rèn ky năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của mình và của bạn.

III. Các biện pháp thực hiện:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 5


Để giúp học sinh viết được một bài văn miêu tả con vật hay, có tính
sáng tạo, giàu hình ảnh thì trước hết cần giúp các em hiểu rằng: tả con vật
là dùng lời văn của mình giúp người đọc như thấy cụ thể trước mắt con vật
đó hình dáng như thế nào? Đầu, mình, chân, đuôi ra sao? Có những hoạt động
gì đặc biệt?
Vì vậy ngay sau khi học xong bài: “Thế nào là văn miêu tả?” tôi đã
khắc sâu cho học sinh hiểu: Khi miêu tả các em không được đưa ra lời nhận
xét chung chung như con này rất to, đầu của nó nhỏ, thân của nó dài … mà
phải làm cho người đọc thấy được con vật em tả có đặc điểm gì riêng biệt
giúp người đọc phân biệt con đó với các con khác cùng loài. Để giúp học
sinh làm được việc này tôi đã nghiên cứu và đưa ra các biện pháp như sau:
Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề bài.
Đây là một việc làm rất quan trọng, bởi nó giúp học sinh định hướng
được công việc mình sẽ làm: Đó là xác định được bài văn thuộc thể loại bài
văn gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì?... Từ đó giúp các em không đi
lạc yêu cầu của đề. Sau khi nêu xong đề bài, tôi ghi lên bảng rồi yêu cầu 2
học sinh đọc lại.
Ví dụ: Trong gia đình em có nuôi rất nhiều con vật. Em hãy tả lại một con
vật đó.
Tôi hướng dẫn các em như sau:
+ Thảo luận nhóm đôi trả lời câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn gì? (miêu tả)
- Kiểu bài nào? (tả con vật)
- Đối tượng miêu tả là gì? (vật nuôi trong nhà)

- Kể tên các con vật nuôi trong nhà? (chó, mèo, gà, lợn,...)
+ Gọi học sinh trình bày kết quả thảo luận.
+ Cả lớp nhận xét.
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 6


Sau khi học sinh trả lời xong, tôi chốt lại yêu cầu và dùng phấn màu
gạch chân các từ ngữ quan trọng.
*Giáo viên cũng cần phân biệt rõ cho học sinh nắm hai kiểu bài tả loài
vật.
+ Tả một con vật. Ví dụ: Tả con gà trống- Tả con bò- Tả con chim...
+ Tả nhiều con vật. Ví dụ: Tả đàn gà- Tả đàn bò- Tả bầy chim...
Tóm lại: Theo tôi nếu giáo viên cũng làm rõ yêu cầu như vậy thì
chắc chắn sẽ không có một bài văn nào của học sinh bị lạc đề.
Biện pháp 2: Rèn kĩ năng quan sát.
Đây là biện pháp được xem là cơ bản nhất. Bởi kết quả của quan sát
được thể hiện rõ trong từng bài làm của học sinh. Em nào quan sát tinh vi,
thấu đáo thì em đó sẽ nhận ra được những nét riêng biệt, đặc sắc của con
vật mình định tả để thể hiện trong bài viết. Còn em nào quan sát hời hợt,
phiến diện thì bài viết của các em sẽ khô khan, nông cạn.
Để giúp các em tìm ra được những nét riêng biệt, tiêu biểu cho từng
con vật tôi sử dụng các thao tác rèn ky năng như sau:
a. Quan sát con vật theo 1 trình tự hợp lý: Các em có thể quan sát
theo các trình tự sau:
- Quan sát hình dáng: tả bao quát trước rồi mới tả từng bộ phận.
- Quan sát hoạt động và thói quen sinh hoạt của con vật ( Có thể tả
kết hợp với việc tả hình dáng cũng như môi trường mà con vật đang sống).
- Quan sát tính nết.

- Tình cảm giữa con vật và con người.
- Các mặt lợi hại của con vật.
Ví dụ: Quan sát con gà trống. Tôi hướng dẫn các em quan sát theo
trình tự:
+ Quan sát bao quát: hình dáng, kích thước, màu sắc
+ Quan sát từng bộ phận: đầu, mình, chân, đuôi…
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 7


+ Quan sát hoạt động và thói quen: gáy, ăn, tìm mồi…
b. Quan sát con vật bằng nhiều giác quan:
Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định nhiều
mặt. Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát. Do đó, kết quả thu
được thường chỉ là các nhận xét và cảm xúc gắn liền với thị giác. Xong tôi
đã hướng dẫn các em biết cách phối hợp nhịp nhàng các giác quan để quan
sát.
Ví dụ: Quan sát con mèo: Tôi hướng dẫn như sau:
-Các em dùng mắt để quan sát xem hình dáng của nó như thế nào?
Trông nó giống cái gì?…
-Em hãy dùng tay để sờ xem bộ lông của mèo như thế nào?
-Em hãy dùng mắt và tai để quan sát và lắng nghe xem hoạt động đặc
biệt của mèo.
Với mỗi bộ phận của con vật tôi đều có một câu hỏi gợi ý và giúp
các em sử dụng từ ngữ để ghi lại những gì quan sát được. Nếu giáo viên
làm tốt thao tác này là đã góp phần vào sự thành công của việc rèn ky năng
quan sát con vật cho học sinh.
c. Quan sát để phát hiện, tìm ra những điểm riêng của con vật:
Để giúp người đọc phân biệt được con vật này với con vật khác và

nhất là với hai con cùng một loài, tôi đã định hướng cho các em tránh lối
liệt kê tất cả các bộ phận như một người thợ lắp ráp một đồ vật nào đó, mà
cần phải nhằm vào những chi tiết, bộ phận có thể khắc họa hình ảnh con
vật ấy một cách rõ rệt, gợi cho em nhiều ấn tượng nhất. Tập trung miêu tả
những nét độc đáo và làm hiện lên những nét riêng của con vật đó khiến nó
không lẫn với các con vật khác.
Ví dụ: Quan sát con mèo, học sinh cần quan sát mắt, mũi, ria, tư thế
bắt chuột,…để tìm ra các nét riêng của mèo.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bài văn miêu tả
con vật.

Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 8


Để viết được một bài văn hay, thì học sinh cần phải có thói quen lập
dàn bài chi tiết. Vì vậy sau khi hướng dẫn học sinh ky năng quan sát, tôi
giúp các em có thói quen chọn lọc các chi tiết quan sát được và sắp xếp
chúng thành một dàn bài chi tiết. Để giúp các em thực hiện tốt ky năng này,
tôi hướng dẫn theo hai bước sau:
a. Kỹ năng chọn lọc chi tiết:
- Kết quả các em quan sát được bao gồm cả phần thô lẫn phần tinh.
Vậy làm thế nào để giúp các em sàng lọc bỏ phần thô, chỉ giữ lại phần tinh.
Để giúp các em làm công việc đó, tôi yêu cầu các em xác định rõ yêu cầu
của đề bài và đặc điểm đối tượng miêu tả để lược bỏ chi tiết không cần
thiết. Ví dụ: Quan sát con gà trống. Khi quan sát hình dáng học sinh
nêu chiều dài, chiều cao của con gà trống, to cở cái …. Giáo viên nên
hướng các em nêu các chi tiết như: Chú có thân hình to lớn, dáng dấp vạm
vỡ, cao khoảng ba gang tay em.

b. Kỹ năng sắp xếp ý:
Sau khi chọn lọc được các chi tiết, nếu các em không biết cách sắp
xếp ý thì bài văn của các em sẽ lủng củng, lộn xộn. Để giúp các em làm tốt
ky năng này tôi luôn lưu ý học sinh: một bài văn cho dù dài hay ngắn thì
luôn đủ ba phần:
+ Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả. (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp)
+ Thân bài: Miêu tả con vật:
- Tả bao quát: (hình dáng, kích thước, màu sắc)
- Tả chi tiết: (từng bộ phận của con vật)
- Tả hoạt động và thói quen.
- Ích lợi của con vật.
+ Kết bài: Nêu cảm nghĩ về con vật đó (theo cách mở rộng hoặc không
mở rộng.)
Tóm lại: Cho dù làm bài tại lớp hay về nhà, tôi luôn nhắc nhở các
em phải lập nhanh một dàn bài.
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 9


Ví dụ: Lập dàn ý tả con mèo:
Tôi tổ chức cho các em quan sát con mèo trước ở nhà, trên lớp tôi treo
một số tranh ảnh con mèo khác nhau để các em tiện nhớ lại. Sau đó tổ chức
cho các em trình bày dàn ý theo phương pháp toa xe lửa.
Mở
bài

Con
mèo


Thân
bài

Hình
dáng

Thân
bài

Bộ
lông

Thân
bài

Đầu, tai,
mắt, ria

Thân
bài

Chân,
đuôi

Thân
bài

Hoạt động,
thói quen


Kết bài

Cảm nghĩ
của em

Sau khi học sinh trình bày xong, tôi đặt câu hỏi gợi ý để các em trả lời
từng nội dung. Từ cơ sở đó các em sẽ dễ dàng viết thành một bài văn tả con
mèo có nội dung.
* Hoặc các em có thể lập dàn ý theo cách sau:
+ Mở bài: Giới thiệu con mèo:
- Nhà em có nuôi một chú mèo đã được năm tháng tuổi.
+ Thân bài:
- Tả ngoại hình:
+ Bộ lông màu xám có sắc vằn vàng.
+ Cái đầu tròn tròn.
+ Hai tai như hình tam giác, dựng đứng, rất thính nhạy.
+ Đôi mắt sáng long lanh, ban đêm có màu xanh.
+ Bộ ria vểnh lên có vẻ oai vệ.
+ Bốn chân thon nhỏ, bước đi rất êm.
+ Cái đuôi dài thướt tha, duyên dáng.
- Tả hoạt động:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 10


+ Bắt chuột: ngồi thu mình mắt lim dim để rình chuột, chạy nhanh
để vồ chuột.
+ Hay ra sân tắm nắng sáng.
+ Kết bài: Tình cảm của em đối với con mèo.

- Con mèo đã giúp cho nhà em không còn một bóng chuột nào nữa.
- Chăm sóc, chơi đùa, cho nó ăn và xem con mèo như một người bạn
thân.
Làm nhiều lần như vậy tôi đã xác định cho các em một thói quen tốt.
Bài văn của các em sẽ đủ và nhiều ý hơn. Bên cạnh đó tôi còn cung cấp cho
các em những từ ngữ miêu tả về hình dáng và hoạt động của các con vật.
Nhằm giúp cho các em yếu có vốn từ miêu tả.
Biện pháp 4: Dựng đoạn và viết bài văn miêu tả con vật.
Đây là bước cuối cùng để hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn. Từ các ý đã
lập, các em sử dụng ngôn ngữ, phát triển ý để dựng thành đoạn và bài văn.
Tôi hướng dẫn các em viết bài văn thành nhiều đoạn, như vậy mỗi đoạn
văn miêu tả có một nét nhất định.
Ví dụ: Khi tả con mèo:
Đoạn 1: Giới thiệu con mèo.
Đoạn 2: Tả hình dáng ( bộ lông, cái đầu, hai cái tai, đôi mắt, bộ ria,
bốn chân, cái đuôi).
Đoạn 3: Tả hoạt động (bắt chuột, đùa giỡn).
Đoạn 4: Tình cảm của em đối với con mèo.
Ở bước này, tôi lưu ý các em: Viết đoạn văn phải đảm bảo sự liên
kết giữa các câu trong đoạn để cùng tả một bộ phận. Các ý trong đoạn được
diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh họa, cụ thể hóa ý chính.
Ví dụ: Đoạn tả ngoại hình con mèo.
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 11


Chà, chú có bộ lông mới đẹp làm sao! Màu lông xam xám có sắc
vằn vàng xen lẫn. Chú có cái đầu tròn tròn, hai tai dong dỏng, dựng đứng
rất thính nhạy. Đôi mắt mèo hiền lành, ban đêm đôi mắt ấy sáng lên có

màu xanh long lanh giúp mèo có thể nhìn rõ mọi vật. Bộ ria mép vểnh lên
có vẻ oai vệ lắm. Bốn chân thì thon thon, bước đi một cách nhẹ nhàng như
lướt trên mặt đất. Cái đuôi dài trông thướt tha và duyên dáng. Chú mèo
trông thật đáng yêu!
Về mặt hình thức trình bày, khi viết hết mỗi đoạn văn các em cần
chấm xuống dòng. Các đoạn văn trong một bài cũng phải có một sự liên
kết, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (mở bài – thân bài – kết bài). Ky
năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn
văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh.
Lưu ý:
+ Không cần thiết phải tả đủ các bộ phận mà chỉ cần tả những bộ
phận toát lên dáng vẻ riêng biệt của con vật cần tả.
+ Khi tả các bộ phận, học sinh có thể xen tả tính nết và thói quen
sinh hoạt.
+ Không cần theo trình tự một cách máy móc ( Đầu- mình- chân).
Học sinh có thể tả trước và tả kĩ bộ phận nổi bật nhất của con vật ( dành
cho học sinh giỏi).
Biện pháp 5: Rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật
và tích lũy vốn từ ngữ thông qua các môn học khác.
Như chúng ta đã biết, thường xuất hiện nhiều trong văn bản miêu tả
loài vật là hai biện pháp tu từ “ nhân hóa và so sánh”. Nhờ những biện pháp
tu từ này mà các con vật được tả trở nên có tình cảm hơn, cụ thể hơn và
cũng vì thế mà chúng cũng trở nên riêng biệt hơn. Để đạt được điều đó thì
buộc người viết phải sử dụng biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 12


sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, từ láy,…Khi tả con vật người giáo viên cần

hướng cho các em những hình ảnh so sánh, nhân hóa.
Ví dụ: Tả con gà.
- Bộ lông: Màu vàng sậm xen lẫn xanh đen óng ánh như pha kim tuyến.
- Cái đầu: Trên đầu chú đội một cái nón hình răng cưa giống như các dãy
núi chập chùng ở miền sơn cước nhưng lại đỏ thẫm như màu hồng nhung.
- Lông đuôi: Đuôi của chú mới đẹp làm sao, vừa dài vừa cong vút về sau
như những cành liễu rũ ven hồ.
- Hoạt động: Đối với bạn bè hàng xóm cùng giới với chú thì chú tỏ ra
khắc khe, thậm chí nhiều lúc “mất lịch sự” nữa. Đối với những con gà
trong nhà, hình như chú không ăn hiếp ai cả mà tỏ ra độ lượng bao dung.
Mặt khác, mỗi môn học đều có mục tiêu riêng. Xong ngoài mục tiêu
chính đó ra, nếu người giáo viên biết khai thác để mở rộng kiến thức cho
học sinh thì ta thấy tất cả các môn học đều bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn
nhau. Nhất là trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại là sự
“tích hợp” kiến thức của tất cả phân môn còn lại. Các em học tốt các phân
môn như: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả… thì các em sẽ học tốt phân
môn Tập làm văn. Vì thế thông qua từng phân môn của môn Tiếng Việt tôi
đều chú ý giúp các em khai thác nội dung này.
a/ Dạy Tập làm văn thông qua phân môn Tập đọc:
- Trong văn miêu tả thì vốn từ ngữ miêu tả rất quan trọng. Việc giúp học
sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả và sử dụng vốn từ ngữ đó một cách chính
xác, hợp lý là vấn đề quan trọng của mọi giáo viên. Trong các bài tập đọc
thuộc thể loại văn miêu tả thì số lượng từ miêu tả rất phong phú, cách sử
dụng rất sáng tạo. Sách Tiếng Việt 4 theo chương trình mới thì các loại bài
tập đọc lại được biên soạn theo tuần, theo chủ điểm. Thường thì ứng với
mỗi chủ điểm là các dạng Tập làm văn mà các em đang học. Vì vậy thông
qua các bài tập đọc tôi giúp các em chỉ ra các từ ngữ miêu tả hay, đã được
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 13



chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả chọn một vài
trường hợp đặc sắc để phân tích ky giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của
các nhà văn khi dùng chúng.
Những bài tập đọc mang phong cách nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao trong
chương trình tập đọc 4 như: Con Sẻ, Con chuồn chuồn nước, Con chim
chiền chiện. Qua những bài tập đọc này, giáo viên hướng dẫn để học sinh
hiểu về cấu tạo một bài văn miêu tả, cách quan sát sự vật, cách dùng từ
ngữ, câu và cách sử dụng nghệ thuật trong khi viết văn miêu tả.
Ví dụ: Bài tập đọc: “Con chuồn chuồn nước” Tiếng Việt 4 – tập
2/127
Khi dạy bài này giáo viên cần giúp học sinh nhận thấy: Qua cách tả từ
bao quát ( Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!) đến chi tiết
(Màu vàng trên lưng chú lấp lánh. Bốn cách mỏng như giấy bóng. Cái đầu
tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng
như màu vàng của nắng mùa thu). Cách sử dụng từ láy, từ ngữ giàu hình
ảnh ( phân vân, màu vàng của nắng mùa thu). Tôi giúp các em hiểu rằng để
tả màu sắc đặc biệt của Chú chuồn chuồn nước tác giả đã sử dụng các từ:
“vàng lấp lánh”, “màu vàng của nắng mùa thu”.
Tôi giúp các em nhận thấy tác giả sử dụng hàng loạt các từ ngữ đã được
chọn lọc, nghệ thuật: so sánh.
“Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân.”
Tôi giúp học sinh hiểu rằng tác giả ca ngợi được vẻ đẹp sinh động của
chú chuồn chuồn nước, cảnh đẹp của thiên nhiên, đất nước theo cách bay
của chú chuồn chuồn, qua đó bộc lộ tình cảm của tác giả đối với đất nước,
quê hương. Mặt khác cũng qua bài dạy giáo viên cho học sinh thấy được
khi miêu tả con vật các em cần tả xen kẽ cả tả cảnh và bộc lộ cảm xúc của
mình đối với con vật mà mình tả thì bài văn mới sinh động, hấp dẫn.
Nguyễn Thị Phương Mai


Trang 14


Tóm lại: Ta thấy các từ ngữ miêu tả trong các bài tập đọc rất đa dạng và
phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây ấn tượng. Cách sử
dụng các biện pháp nghệ thuật trong các bài tập đọc cũng rất là sáng tạo.
Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích lũy thêm vốn từ và học cách sử
dụng chúng, đồng thời thông qua các bài tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu
thêm rằng để một bài băn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp
nghệ thuật hợp lý.
b/ Dạy Tập làm văn thông qua phân môn Luyện từ và câu:
- Mục tiêu chính của phân môn Luyện từ và câu là giúp học sinh mở
rộng vốn từ; cách sử dụng từ chính xác, cách viết câu đủ ý.
- Khi dạy về các nội dung mở rộng vốn từ theo từng chủ điểm, tôi giúp
học sinh hiểu rõ nghĩa các từ ngữ, các thành ngữ, các tục ngữ thuộc chủ
điểm đó. Từ đó sẽ giúp các em sử dụng các từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ đó
chính xác, hợp lý.
- Để tích lũy vốn từ cho học sinh tôi cho học sinh tìm thêm các từ đồng
nghĩa, từ gần nghĩa, từ trái nghĩa.
Ví dụ: Bên cạnh tính từ “đỏ” dùng để miêu tả mào của con gà trống
còn có nhiều từ ngữ khác như: đỏ rực, đỏ tươi, đỏ chót, đỏ như son, đỏ như
lửa… tùy từng ý học sinh có thể lựa chọn nên dùng từ ngữ nào cho phù
hợp..
Trong các tiết Luyện từ và câu có nội dung về ngữ pháp, ngoài việc dạy
các em cách viết câu đúng, tôi luôn tìm cách dạy các em cách viết câu văn
có hình ảnh. Trong tất cả các bài tập dùng từ đặt câu, tôi luôn đặt một câu
văn đủ ý bên cạnh một câu văn khác đủ ý nhưng có hình ảnh để các em so
sánh.
Ví dụ: Tả bộ lông của chú gà trống, tôi đưa ra hai câu:

- Câu 1: Chú có bộ lông màu đen và màu đỏ.
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 15


- Câu 2: Ngoài thân mình, chú khoác một bộ áo óng ánh màu đen
bóng pha lẫn màu đỏ lửa trông giống như một bộ áo giáp của một hiệp sĩ.
Tôi cho học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn (100% học sinh trả lời
là câu 2 hay hơn vì nó tạo cho người đọc hình ảnh rất cụ thể về màu lông
thật của gà…)
Tóm lại: Với biện pháp này, tôi đã rèn cho học sinh ky năng viết câu
văn có hình ảnh, đủ ý.
c/ Dạy Tập làm văn thông qua phân môn Chính tả:
Như ở phần thực trạng tôi đã trình bày, bài văn của các em bị sai lỗi
chính tả rất nhiều, điều đó gây khó chịu cho người đọc.Vì vậy trong tất cả
các tiết chính tả, tôi luôn chú ý rèn cho các em có ý thức viết đúng chính tả
(đây cũng là mục tiêu của môn Chính tả).
Phân môn Chính tả còn rèn cho học sinh cách nghe và viết đúng
chính tả ( Tiếng Việt nếu viết sai chính tả sẽ dẫn đến sai nghĩa của câu).
Qua việc học chính tả học sinh học tập được cách sử dụng từ ngữ, cách sử
dụng các dấu câu như thế nào để bài văn sinh động. Ngoài ra khi viết chính
tả học sinh còn học tập được cách trình bày bài văn một cách khoa học và
rèn óc thẩm mĩ cho các em.
* Những vốn từ tích lũy được ở phân môn Tập đọc, Chính tả hay ở
Luyện từ và câu tôi đều cho học sinh ghi vào sổ tay của mình.
Tóm lại: Thông qua tất cả các môn học này, người giáo viên có thể
khéo léo khai thác để làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh (từ ngữ miêu tả) và
giúp học sinh biết cách sử dụng chúng một cách hợp lý. Xong do đặc trưng
của môn học, mỗi giờ học chỉ thiên về một mặt nào đó, nó chỉ hỗ trợ để học

sinh học tốt hơn phân môn Tập làm văn. Vì thế người giáo viên không thể
lạm dụng để biến nó thành một giờ dạy Tập làm văn chính.
Biện pháp 6: Rèn kỹ năng tự kiểm tra đánh giá khả năng của
mình và của bạn:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 16


Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học là tư duy cụ thể. Do đó
trong giảng dạy, giáo viên cần đưa ra những ví dụ cụ thể để học sinh hình
dung, hiểu rõ cách làm. Vì vậy trong các giờ trả bài viết, sau khi nhận xét
và hướng dẫn học sinh chữa lỗi, tôi chọn những bài văn hay, đạt điểm cao
của học sinh trong lớp để biểu dương, sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe.
Đọc xong, tôi đặt ra một số câu hỏi để các em trả lời.
Ví dụ:
-

Bài làm của bạn hay ở chỗ nào? Sáng tạo ở chỗ nào?

-

Em học tập được những gì từ bài làm của bạn?...
Trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên đặt ra là học sinh đã học tập

được chính bạn của mình.
Ngoài ra trong quá trình dạy học, tôi tích lũy được rất nhiều những bài
văn hay của học sinh trong các năm học trước, tôi đọc cho các em nghe rồi
cùng các em phân tích cái hay, cái cần học tập trong từng bài văn.
Ngoài các biện pháp trên, tôi khuyến khích các em lập sổ tay văn học và

hướng dẫn các em cách sử dụng. Sổ tay văn học để ghi những câu văn hay,
giàu hình ảnh, các câu văn sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc… mà
các em đọc được trong sách báo, sách tham khảo, trong cuộc sống hàng
ngày và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cứ như vậy vốn từ ngữ
của các em sẽ ngày càng giàu lên.
Tóm lại: Việc giúp các em tự đánh giá các bài văn của mình của bạn và
không ngừng tích lũy vốn từ sẽ giúp các em học tốt hơn phân môn Tập làm
văn nói chung và kiểu bài miêu tả con vật nói riêng.
IV. Kết quả chuyển biến:

Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 17


Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, áp dụng trực tiếp vào lớp 4/3
Trường Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy các em
bắt đầu có hứng thú và đam mê với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra
nhẹ nhàng và sinh động hơn. Các em đã chủ động, tự giác trong việc hình
thành kiến thức. Vốn từ ngữ miêu tả của các em ngày càng phong phú hơn
cả về số lượng lẫn chất lượng. Cách sử dụng từ của các em chính xác hơn.
Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật
như so sánh, nhân hóa, các từ láy, các điệp từ…
Điều này đã được chứng minh qua điểm bài kiểm tra viết ngày một
nâng cao về chất lượng. Cụ thể, tôi ra một đề bài kiểm tra lấy kết quả để so
sánh.
Đề bài: Hãy tả một con vật nuôi trong nhà mà em thích nhất.
Kết quả thu được như sau:
Số


Giỏi (9,10)

Khá (7,8)

lượng

Yếu (1  4)

(5, 6)

học sinh
33
Trước khi
33

Trung bình

0 = 0%

8 em =

16 em =

9 em = 27,3%

thực hiện
Sau khi

8 em =


24,2%
16 em =

48,5%
9 em =

0 em = 0%

thực hiện
So sánh

24,2%
Tăng

48,5%
Tăng

27,3%
Giảm

Giảm 27,3%

đối chứng

24,2%

24,3%

21,2%


Kết quả trên cho thấy những biện pháp tác động giáo dục mà đề tài
nêu đã giúp bài làm của học sinh đầy đủ hơn về nội dung. Hơn nữa các em
biết lược bỏ bớt những chi tiết không cần thiết, không đặc sắc. Cụ thể như
sau:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 18


+ Số học sinh đạt điểm khá, nay các em viết bài ý mạch lạc, có dùng
nhiều biện pháp nghệ thuật nên câu văn miêu tả giàu hình ảnh. Vốn từ miêu
tả của các em phong phú hơn, dùng từ chính xác hơn. Vì vậy lúc đầu không
có học sinh điểm giỏi nay đạt được 8 em điểm 9-10.
+ Số học sinh đạt điểm trung bình, nay các em viết bài hay hơn trước,
diễn đạt ý rõ ràng hơn, có sử dụng biện pháp so sánh khi miêu tả. 16 em
điểm trung bình đã đạt điểm khá.
+ Số học sinh đạt điểm yếu lúc đầu 9 em, nay bài viết của các em
không có lạc đề nữa. Không còn mắc lỗi chính tả nữa. Chấm, phẩy đúng
nên câu văn trọn ý nghĩa hơn, biết sắp xếp các ý miêu tả rõ ràng hơn, bài
viết thể hiện đủ ba phần, đạt mức độ trung bình.
Đặc biệt các em có một vốn từ ngữ miêu tả, biết dùng từ để so
sánh, nhân hóa làm cho bài văn thêm sinh động hơn. Riêng về hoạt động
của con vật các em đã nêu được những hoạt động tiêu biểu sinh động của
con vật.

Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 19



PHẦN III: KẾT LUẬN
I/ Tóm lược giải pháp:
Qua việc thực hiện đề bài: “Một vài biện pháp giúp học sinh học
tốt bài văn miêu tả con vật ở lớp 4”, tôi nhận thấy rằng kết quả thu được
không phải có ngay trong một sớm một chiều, nó là cả một quá trình.
Để có hiệu quả cao thì cả giáo viên và học sinh đều phải nỗ lực phấn
đấu các yêu cầu sau:
- Người giáo viên phải tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú
để dẫn dắt học sinh vào những tình huống có vấn đề một cách nhẹ nhàng,
khơi dậy và kích thích để học sinh chủ động một cách tích cực tham gia
vào các hoạt động, học sinh tự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức.
- Khi tổ chức các hoạt động giáo viên phải tạo điều kiện cho tất cả
học sinh tham gia, giúp đỡ học sinh sửa chữa kịp thời những sai sót.

Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 20


- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách lấy thông tin qua việc đọc sách,
xem truyền hình, cách quan sát thế giới xung quanh, qua các môn học khác
và ghi chép những thông tin đó.
- Giáo viên phải thường xuyên dự giờ rút kinh nghiệm để tự đánh giá
ưu- khuyết điểm của mình trong giảng dạy và học tập kinh nghiệm của
đồng nghiệp để dạy tốt hơn.
- Tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, tự nghiên cứu, tự học để
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ sư phạm.
- Luôn kiểm tra đánh giá kiến thức đạt được của học sinh.
- Cho bài văn về nhà làm thường xuyên, nhận xét đánh giá vào các
tiết củng cố buổi chiều.

- Giáo viên cung cấp cho các em những từ ngữ miêu tả về ngoại hình
cũng như hoạt động của các con vật để giúp cho học sinh yếu có vốn từ
miêu tả.
- Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh
trong giờ học. Với học sinh trung bình, yếu thì chỉ yêu cầu các em viết
đúng, đủ. Với học sinh khá giỏi thì khuyến khích và hướng các em viết câu
văn hay, bài văn sinh động.
- Đối với học sinh, để làm được một bài văn miêu tả con vật hay, giàu
hình ảnh, cảm xúc, lôi cuốn người đọc bắt buộc các em phải có được ky
năng làm bài. (Từ quan sát, lựa chọn ý, sắp xếp ý, viết đoạn, viết bài.) Và
các yêu cầu bổ trợ cho quá trình rèn luyện ky năng. Vì vậy ngoài giờ học
tập làm văn, học sinh cần có thói quen tích lũy vốn từ, trau dồi cách sử
dụng nó thông qua tất cả các giờ học. Ngoài ra, học sinh có thể tìm thêm
sách tham khảo, báo, truyện để đọc, điều đó cũng rất bổ ích cho việc học
văn của các em.
II. Phạm vi áp dụng:
Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 21


Tôi đã thường xuyên áp dụng các biện pháp trên khi giảng dạy cho
học sinh lớp mình, đặc biệt quan tâm nhiều đến các em yếu để giúp các em
theo kịp các bạn trong lớp đồng thời giúp các em viết được mọi bài văn
miêu tả và cuối năm đã đạt hiệu quả cao. Tôi nghĩ rằng với những biện
pháp này có thể áp dụng cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Huỳnh Văn
Đảnh, các trường trong huyện và các trường trong tỉnh nhà.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng
trong quá trình giảng dạy thực tế của lớp 4 mình chủ nhiệm. Tuy kết quả
bước đầu chưa cao lắm, nhưng với tâm huyết và lòng nhiệt tình, với những

nỗ lực của bản thân tôi đã tích lũy được một số bài học thực tiễn.Về những
biện pháp giúp học sinh học tốt bài văn miêu tả con vật ở lớp 4.

Nguyễn Thị Phương Mai

Trang 22



×