Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Báo cáo thực tập nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty bảo minh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.61 KB, 87 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người, vì vậy việc chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe là nhu cầu và cũng là đòi hỏi thiết yếu mà cộng đồng và mỗi cá nhân quan tâm. Tuy
nhiên, trong cuộc sống chúng ta khó tránh khỏi những lúc ốm đau, bệnh tật do tác động
của tuổi tác cũng như môi trường sống…. BHYT Việt Nam ra đời là một trong những
chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm giúp
đỡ người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro về sức khỏe để ổn định cuộc sống, góp
phần vào sự phát triển ổn định của đất nước. Nhưng có một thực tế hiện nay là số người
khám chữa bệnh ngày càng tăng, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí
Minh… dẫn đến việc quá tải tại nhiều bệnh viện. Điều này cho thấy người dân phải chịu
nhiều hơn cho chi phí y tế so với trước kia. Đối với những người có bảo hiểm y tế thì
khoản chi phí này có thể được hỗ trợ một phần. Tuy nhiên, nhiều người bệnh có thể sẽ
gặp khó khăn khi khám và điều trị trái tuyến. Hơn nữa là chất lượng dịch vụ khi khám
chữa bệnh bằng BHYT còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của
nhiều đối tượng khác nhau. Đối với bản thân người bệnh và gia đình, bệnh tật không chỉ
là gánh nặng tinh thần mà còn là gánh nặng vật chất, vì không chỉ tốn tiền mà còn có
nguy cơ làm gián đoạn công việc, gián đoạn thu nhập. Vì vậy, nếu như có được sự hỗ trợ
kịp thời sẽ giúp người bệnh và gia đình lấy lại được “ thăng bằng” tài chính. Hiểu được
nhu cầu đó, một loại hình bảo hiểm đã ra đời nhằm đáp ứng được những mong muốn của
người dân và một phần khắc phục được những hạn chế của chế độ BHYT. Đó chính là
bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và
Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng. Nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ cũng ngày
càng được quan tâm phát triển. Doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ bảo hiểm này luôn
chiếm tỷ trọng cao ttrong tổng doanh thu của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Tổng
công ty cổ phần Bảo Minh luôn là công ty có doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm con người
phi nhân thọ cao thứ 2 chỉ sau Bảo Việt. Với doanh thu phí năm 2012 về nghiệp vụ này
là 365 tỷ đồng, chiếm 13,2% thị phần. Là một trong những công ty bảo hiểm thành viên,
Công ty Bảo Minh Hà Nội đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của
Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, giúp cũng cố thương hiệu Bảo hiểm Bảo Minh trên thị
trường, hoàn thành tốt các chỉ tiêu và đóng góp một phần doanh thu đáng kể trong tổng


doanh thu của Tổng công ty. Bảo hiểm con người phi nhân thọ là một trong những nghiệp
vụ đạt được doanh thu cao, có đóng góp nhất định vào tổng doanh thu phí bảo hiểm của
công ty. Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây cho thấy vẫn tồn tại nhiều hạn chế như tỷ
lệ bồi thường cao, vấn đề trục lợi bảo hiểm còn diễn ra khá nhiều …
Trong thời gian thực tập tại công ty, nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ


vì thế em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm con
người phi nhân thọ tại công ty Bảo Minh Hà Nội ”.
Kết cấu đề tài được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về bảo hiểm con người phi nhân thọ và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp bảo hiểm
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm con người phi
nhân thọ tại công ty Bảo Minh Hà Nội
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm
con người phi nhân thọ tại công ty Bảo Minh Hà Nội.
Để có thể hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ
Nguyễn Thị Lệ Huyền đã tận tình hướng dẫn em. Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn
đến tập thể cán bộ, nhân viên công ty Bảo Minh Hà Nội đã hướng dẫn và tạo điều kiện
thuận lợi giúp em trong quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ
tại công ty.
Mặc dù đă cố gắng rất nhiều, song do những hạn chế về thời gian, kiến thức và
kinh nghiệm thực tế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện
hơn.

CHƯƠNG 1


TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM CON NGƯỜI PHI NHÂN THỌ VÀ NĂNG LỰC

CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

1.1.

Tổng quan về Bảo hiểm con người phi nhân thọ

1.1.1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất hằng ngày con người luôn phải
đối mặt với những rủi ro, tai nạn bất ngờ ngoài ý muốn mà chúng ta không thể lường
trước được như ốm đau, tai nạn, già yếu, mất việc làm…. Thực tế hiện nay, do tác động
của môi trường sống hiện đại, ngày càng có nhiều người lo lắng khi phải sống chung với
những rủi ro tiềm ẩn làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng
bởi các chất độc hại, xuất xứ cũng như chất lượng thực phẩm không an toàn, … đang là
những nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và cuộc sống của mọi người
dân không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Tỉ lệ người mắc các bệnh nghiêm trọng
ngày càng tăng cao trong xã hội không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà còn là nỗi lo về
tài chính cho mỗi gia đình. Ngày nay, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của y học hiện đại có thể
giúp chúng ta điều trị thành công nhiều căn bệnh nghiêm trọng, tuy nhiên chi phí thuốc
men và viện phí điều trị ngày càng tăng cao vẫn luôn là nỗi bận tâm của nhiều người. Vì
thế, vấn đề mà xã hội quan tâm là làm thế nào để hạn chế và khắc phục được hậu quả của
rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống của con người.
Có nhiều biện pháp đã ra đời nhằm khắc phục rủi ro như là: phòng tránh, cứu trợ…
và như một tất yếu, bảo hiểm ra đời đóng vai trò là một phương thức hữu hiệu hơn cả.
Cùng với sự phát triển của đất nước, bảo hiểm hiện là một trong những ngành dịch vụ
tăng trưởng khá toàn diện và có những bước tiến lớn cả về tốc độ, quy mô và phạm vi
hoạt động. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà còn góp
phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia đình, cho mọi tổ chức và doanh
nghiệp nhằm cải thiện đời sống và khôi phục sản xuất, kinh doanh. Kinh tế càng phát
triển, đời sống của nhân dân càng cao thì nhu cầu bảo hiểm càng lớn, và các loại hình bảo
hiểm cũng ngày càng được hoàn thiện. Từ đó, bảo hiểm con người phi nhân thọ ( BHCN



PNT) ra đời là tất yếu của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và là hình thức
bổ sung cho hai loại hình ra đời trước đó là BHXH và BHYT. BHCN PNT ra đời nhằm
mục đích đảm bảo khắc phục cuộc sống cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro
hay tai nạn bất ngờ đối với thân thể, tính mạng cũng như sự suy giảm hay mất thu nhập
do rủi ro gây ra và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia. Tuy nhiên, BHCN
PNT có đối tượng tham gia rộng hơn so với loại hình BHXH ra đời trước đó, quỹ bảo
hiểm được hình thành từ sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, số tiền chi trả bảo
hiểm phụ thuộc vào các điều khoản trong hợp đồng hay tuỳ thuộc vào sản phẩm cụ thể
mà người tham gia chọn lựa.
Như vậy, BHCN PNT đã thể hiện vai trò khá quan trọng của nó trong đời sống xã
hội, giúp cho con người chống lại những khó khăn bấp bênh trong cuộc sống trước sự đa
dạng và mức độ phức tạp của rủi ro để có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua đó có thể
thấy được sự cần thiết khách quan của BHCN PNT trong đời sống xã hội hiện nay.
1.1.2. Tác dụng của bảo hiểm con người phi nhân thọ


Xem xét mối quan hệ tương quan giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm với
sự phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nuớc, nhiều nhà kinh tế học đã khẳng
định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu của bảo hiểm đối với nền
kinh tế, đặc biệt là bảo hiểm con người. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của một thị
trường bảo hiểm con người mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền
kinh tế thành công nào. Có thể thấy rõ điều đó qua các tác dụng của BHCN PNT
sau:

 Góp phần ổn định đời sống, nhân dân, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người
được bảo hiểm.



Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường, bù đắp khi có rủi ro tổn
thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc
biệt nhằm khôi phục tài chính, vật chất cho người tham gia bảo hiểm như trước khi
xảy ra rủi ro. Mặt dù hệ thống an sinh xã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp
cho những khó khăn đó nhưng cũng chỉ mang tính chất tạm thời trước mắt, không
đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính.Tham gia BHCN PNT sẽ phần nào giải


quyết được những khó khăn đó.
 Góp phần ổn định tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh cho các gia đình, các
doanh nghiệp giúp họ yên tâm làm việc khi rủi ro biến cố hay tai nạn bất ngờ xảy
ra với bản thân người tham gia bảo hiểm.
 Sử dụng hiệu quả những khoản phí bảo hiểm nhàn rỗi chưa phải chi trả, tạo được
nguồn vốn lớn để đầu tư vào lĩnh vực khác


Do tính chất của bảo hiểm là phí thu trước, chi trả bồi thường sau nên khoản
phí thu được sẽ được lập thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng vào mục đích
chi trả bồi thường, dự phòng và là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần tăng trưởng
và phát triển kinh tế.

 Thực hành tiết kiệm, chống lạm phát


BHCN PNT còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt
nhàn rỗi nằm ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm góp phần
chống lạm phát. Điều này không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với từng gia đình mà
còn có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế- xã hội.
 Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống




Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội cũng ngày một nâng
cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường
kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện nhiều hơn những rủi
ro mới. Thế giới đang chuyển biến hết sức phức tạp, khó đoán như khủng hoảng
kinh tế, chiến tranh, khủng bố, xung đột. Trong tình hình như vậy, BHCN PNT sẽ
là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh và
trong cuộc sống cho mọi người.

 BHCN PNT còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như: tạo công ăn việc làm
cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp
sống văn minh lành mạnh và tiết kiệm có kế hoạch….
1.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm con người phi nhân thọ
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ chỉ ra đời và phát triển khi nền kinh tế- xã hội
hội tụ đủ những điều kiện nhất định thì BHCN PNT đã ra đời sớm hơn, với mục đích chủ


yếu là góp phần khắc phục hậu quả khi người tham gia bảo hiểm gặp phải rủi ro, từ đó
góp phần ổn định tài chính cho họ. Bởi vậy BHCN PNT có những đặc điểm cơ bản sau:
 Hậu quả của rủi ro mang tính chất thiệt hại vì những rủi ro được bảo hiểm ở đây là
ốm đau, bệnh tật, tai nạn, thai sản liên quan đến sức khỏe và thân thể con người.
 Đối tượng được bảo hiểm thường được quy định trong khoảng độ tuổi nào đó. Các
công ty bảo hiểm không chấp nhận bồi thường cho những người có tuổi quá thấp
hoặc quá cao vì việc quản lý rủi ro rất phắc tạp.
 So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm của BHCN PNT ngắn hơn, thường
trong vòng một năm, thậm chí có những nghiệp vụ thời hạn bảo hiểm chỉ trong vài
ngày hoặc vài giờ như bảo hiểm tai nạn hành khách. Do vậy, phí bảo hiểm thường
được đóng một lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.
 Các nghiệp vụ BHCN PNT thường được kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác

trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Việc triển khai kết hợp này sẽ giúp làm giảm
chi phí khai thác, chi phí quản lý… của công ty bảo hiểm từ đó có thể giảm phí
bảo hiểm.
 BHCN PNT được coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các laoij
hình bảo hiểm ra đời trước như BHYT, BHXH.
1.2.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm

Trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam nhìn chung đã có những bước
phát triển rất đáng ghi nhận. Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đã mở ra cho nghành bảo hiểm nước ta
những cơ hội lớn để phát triển nhưng đồng tời cũng đặt các doanh nghiệp bảo hiểm trước
những thách thức và khó khăn không nhỏ. Trước thực trạng trên, để có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường kinh doanh mới đòi hỏi từng doanh nghiệp bảo hiểm phải không
ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình cũng như cho từng sản phẩm
kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Không nằm ngoài xu thế phát triển chung
đó, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ cũng luôn quan tâm đến việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình, và coi đó là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm


Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm, hoạt động của một DNBH bao gồm :
 Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, gồm nhận tái và nhượng tái bảo
hiểm
 Đề phòng hạn chế rủi ro, tổn thất
 Các công tác giám định tổn thất
 Đại lý giám định tổn thất, xem xét giải quyết bồi thường và yêu cầu người thứ ba
bồi hoàn



Quản lý quỹ bảo hiểm và hoạt động đầu tư vốn



Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm đó là hoạt động nhằm mục đích
sinh lời, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung
gồm có những đặc điểm sau:
 Đối tượng kinh doanh đa dạng: có đối tượng bảo hiểm là tài sản, trách nhiệm dân
sự và con người. Mỗi đối tượng bảo hiểm bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi
nghiệp vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản
phẩm bảo hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm. Phí đó được tính toán trên cơ
sở khoa học đảm bảo thu bù chi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho
doanh nghiệp. Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong kinh
doanh bảo hiểm càng phát huy tác dụng, do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được.
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vốn pháp định lớn: Nguồn vốn của doanh
nghiệp bảo hiểm bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được, lãi từ hoạt động đầu
tư….Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do pháp luật quy
định (Công ty BHNT là 600 tỷ đồng, Công ty BHPNT là 300 tỷ đồng). Vốn pháp
định lớn như vậy là do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh
rủi ro.
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn phải có dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm:
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ từ phí bảo
hiểm của từng nghiệp vụ đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp. Bởi
lẽ, kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro, phí bảo hiểm thu được các DNBH



phải trích lập dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn, dự phòng toán học….
 Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn gắn liền với hoạt động đầu tư: Hoạt động
đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của DNBH. Hoạt
động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô
doanh nghiệp, tăng quỹ phúc lợi, vừa giúp tăng thu nhập cho người lao động, vừa
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có:
vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước
chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
 Các DNBH hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của Luật kinh doanh bảo
hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia: Điều này nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của DNBH đi đúng hướng, đạt hiệu quả cao, đảm bảo lợi ích của người
tham gia, lợi ích của DNBH và lợi ích của Nhà nước.
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Lý luận về cạnh tranh từ lâu đã có rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu. Cạnh
tranh xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá
(kinh tế hàng hoá, mà cao hơn chính là kinh tế thị trường). Nó phản ánh mối quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa.
Mặc dù "cạnh tranh" không phải là một khái niệm mới nhưng để có được một định nghĩa
thống nhất thì rất khó. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, quan niệm và nhận thức về vấn
đề cạnh tranh, phạm vi và các cấp độ áp dụng nó cũng khác nhau. C.Mác khi nghiên cứu
về chủ nghĩa tư bản đã đề cập đến cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường. Theo C. Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu
được lợi nhuận siêu ngạch". Trong ngôn ngữ học, khái niệm cạnh tranh được hiểu là "cố
gắng giành phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những
lợi ích như nhau". Theo Đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh là sự "tranh đua giữa những
cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, giành phần hơn, phần thắng về mình". Theo từ
điển thuật ngữ kinh tế học " Cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn

hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà


không phải ai cũng có thể giành được". Như vậy nếu hình dung toàn bộ nền kinh tế như
một trường đua trong thể thao, ai tham gia vào đó cũng đều mong muốn đạt giải bằng sự
cố gắng hết mình, thì cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế - xă hội, nó
làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều phải luôn tự hoàn thiện mình để đạt được kết
quả cao nhất có thể.
Từ thực tế đã cho thấy, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về cạnh
tranh. Tuy nhiên, xét theo quan điểm tổng hợp thì có thể hiểu khái niệm cạnh tranh như
sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi
biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu kinh tế của mình,
thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản
xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình
cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với
người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Xét trên phương diện doanh nghiệp, theo định nghĩa của CIEM và UNDP thì
"Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài
nước". Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là khả năng cạnh tranh
bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, biểu thị cách
thức cơ bản để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hoá sản phẩm mà bất kỳ một DN nào ở
một ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể:
Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu vào cần
thiết (chi phí) để tao ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận). Doanh
nghiệp càng nâng cao được hiệu quả thì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra càng
thấp và như vậy thì doanh nghiệp sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí.
Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản phẩm

được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng gắn với
khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000 "Chất lượng là


tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu
cầu đã được công bố hoặc chấp nhận". Người cung cấp phải tối ưu hoá chất lượng sản
phẩm, không được để "thấp" hơn nhu cầu nhưng cũng không nên thừa hay "cao" quá mức
cần thiết để không ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm. Sản phẩm có chất lượng cao giúp
doanh nghiệp tăng uy tín, từ đó có thể tăng giá bán.
Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công nghệ,
hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức... của doanh nghiệp. Trong đó đổi mới công nghệ được
coi là yếu tố chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp khác biệt hóa sản phẩm
so với đối thủ cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp vì thế thường sản
xuất theo seri sản phẩm, không duy trì lâu hoặc với khối lượng lớn một sản phẩm nào đó.
Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu khách
hàng, doanh nghiệp cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn.
Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục tiêu đáp
ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực
cạnh tranh quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều doanh nghiệp phải có năng lực cạnh
tranh. Và ngược lại các doanh nghiệp chỉ có thể cạnh tranh tốt trong một quốc gia có nền
kinh tế thuận lợi, chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu
cơ sở hạ tầng đảm bảo....Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp
cũng là một yếu tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh nghiệp
thành công nhưng cũng có doanh nghiệp bị thất bại. Bên cạnh đó doanh nghiệp chỉ có sức
cạnh tranh cao khi sản phẩm của mình có năng lực cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh
tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngoài chất
lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào danh tiếng và uy tín của doanh nghiệp.



Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều kiện để
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế đất nước. Hiện nay
nước ta đang tiến sâu vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh
trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày càng trở nên cấp
thiết hơn bao giờ hết. Trong đó tính chủ động tích cực, sáng tạo của các doanh nghiệp
nắm giữ vai trò quyết định.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
Để đánh giá năng lực cạnh tranh (NLCT) của một sản phẩm bảo hiểm trên thị
trường, trước tiên cần phải xem xét các chỉ tiêu đánh giá NLCT của DNBH về sản phẩm
đó. Với các DNBH nói chung và mỗi doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (DNBH PNT)
nói riêng, NLCT của doanh nghiệp về một sản phẩm được đánh giá dựa trên các chỉ tiêu
sau:
a. Quy mô và năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
Năng lực tài chính không chỉ là yếu tố quyết định tới NLCT của DNBH mà còn
ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm. Vì khi xem xét tiềm lực
tài chính của nhà bảo hiểm, với một khả năng tài chính mạnh nhà bảo hiểm sẽ giúp khách
hàng có cơ sở để tin tưởng và tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp mình, đẩy mạnh doanh
thu cho sản phẩm, từ đó góp phần nâng cao NLCT cho sản phẩm. Năng lực tài chính của
doanh nghiệp được phản ánh qua: quy mô nguồn vốn, quy mô tài sản, quy mô các quỹ dự
phòng nghiệp vụ….
 Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh nghiệp,
các quỹ và các khoản lãi tích lũy. Vốn điều lệ là vốn ghi trong điều lệ doanh nghiệp và
được đóng góp khi doanh nghiệp thành lập. Đối với những ngành quy định vốn pháp định
khi thành lập, trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải luôn duy trì mức vốn điều lệ
đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định. Đặc biệt với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm có chu trình kinh doanh đảo ngược thì việc đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu là vô
cùng quan trọng để thực hiện các cam kết với khách hàng. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt
Nam hiện nay quy định mức vốn pháp định cho doanh nghiệp bảo hiểm là 600 tỷ đồng

đối với doanh nghiệp BHNT và 300 tỷ đồng đối với doanh nghiệp BHPNT.


Nhưng trên thực tế để có khả năng tài chính mạnh, từ đó mở rộng hoạt động kinh
doanh, các DNBH thường có vốn điều lệ lớn hơn nhiều so với vốn pháp định và luôn tìm
mọi biện pháp để tăng số vốn điều lệ của mình.
 Tài sản
Nguồn tài sản chính là sự thể hiện ra bên ngoài tiềm lực tài chính của mỗi DNBH.
Khi khách hàng muốn đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp sau khi xem xét số
vốn điều lệ thì họ sẽ nhìn vào nguồn tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ.
Do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ nên tài sản
của doanh nghiệp không chỉ là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận
tải,…mà còn chủ yếu tồn tại dưới các hình thức như: các quỹ đầu tư tài chính ngắn hạn,
bất động sản hay tiền gửi ngân hàng…Trong đó các tài sản dưới dạng các khoản đầu tư
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu tài sản và có vai trò vô cùng quan trọng đối
với các công ty vì tài sản của DNBH chủ yếu hình thành từ nguồn vốn là phí thu được
của khách hàng. Sau khi thu được phí bảo hiểm, doanh nghiệp sẽ sử dụng nguồn vốn này
đem đầu tư sinh lời. Đầu tư chính là cách hữu hiệu để phát triển quỹ tài chính và tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Nguồn tài sản của doanh nghiệp càng lớn càng chứng tỏ doanh
nghiệp có nền tảng tài chính tốt nên sức cạnh tranh doanh nghiệp cũng như sức cạch
tranh của các sản phẩm bảo hiểm sẽ cao.
 Dự phòng nghiệp vụ
Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được
trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm
đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, Thực chất đây
là nguồn vốn vay của nhà bảo hiểm vì sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, DNBH đã có
trong tay một khoản lớn phí nhưng nếu trong thời hạn bảo hiểm có sự kiện bảo hiểm xảy
ra DNBH phải tiến hành bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm. Nhưng nhiều khi số tiền phải
chi trả lớn hơn nhiều lần so với phí bảo hiểm thu được và rủi ro xảy ra trên quy mô lớn,
do đó để đảm bảo nghĩa vụ của mình đối với khách hàng, doanh nghiệp buộc phải thiết

lập các khoản dự phòng nghiệp vụ.
Đối với DNBH PNT, các quỹ dự phòng bao gồm 3 loại quỹ quan trọng nhất là dự
phòng phí, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn.
Việc trích lập các quỹ dự phòng không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật mà còn


là bắt buộc và có tính pháp lý cao đối với DNBH.
Nếu các khoản dự phòng phí được thực hiện một cách chính xác, hợp lý thì doanh
nghiệp có khả năng đảm bảo được quyền lợi đối với khách hàng, góp phần nâng cao uy
tín của doanh nghiệp, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và nâng cao được sức cạnh tranh của
sản phẩm đó trên thị trường.
Việc trích lập các khoản dự phòng đầy đủ hàng năm là vô cùng cần thiết đối với
mỗi DNBH PNT và quy mô của các quỹ được trích cũng khá lớn. Để đảm bảo khả năng
sinh lời của nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi này, các công ty bảo hiểm thường sử dụng phần
lớn các nguồn quỹ này đem đi đầu tư ở nhiều lĩnh vực và hình thức đầu tư khác nhau như
đầu tư bất động sản, mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, mua cổ phiếu, cho vay
thế chấp….Tuy nhiên, do đây là nguồn vốn vay nên các khoản đầu tư này phải được đảm
bảo tính thanh khoản, có thể nhanh chóng chuyển sang tiền mặt để chi trả và bồi thường
cho khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm bất ngờ xảy ra.
Nếu doanh nghiệp bảo đảm trích đúng và đầy đủ các khoản dự phòng, sẽ tạo niềm
tin nơi khách hàng và từ đó sẽ tích cực tham gia bảo hiểm tại công ty, gia tăng doanh thu
cho sản phẩm, từ đó nâng cao được NLCT.
b. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm
Sự thành công của một doanh nghiệp cần có sự đóng góp của rất nhiều nguồn lực
khác nhau trong đó nguồn nhân lực luôn được coi là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp nhất
quyết định đến chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các DNBH
cũng không là ngoại lệ, hơn nữa kinh doanh bảo hiểm là một ngành kinh doanh dịch vụ
vô hình nên nguồn nhân lực càng đóng vai trò quan trọng, là tài sản quý giá góp phần
nâng cao NLCT của doanh nghiệp nói chung và của từng nghiệp vụ nói riêng. Khi một
DNBH có đội ngũ nhân lực chất lượng cao cả về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề

nghiệp thì sẽ mang lại sự thỏa mãn cho khách hàng, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Đặc biệt
là sản phẩm BHCN PNT liên quan tới vấn đề chăm sóc sức khỏe cũng như hỗ trợ tài
chính cho người tham gia bảo hiểm nên rất cần sự hướng dẫn và tư vấn của các nhân viên
bảo hiểm để chọn sản phẩm phù hợp. bởi vậy, cần có một đội ngũ nhân viên tốt có thể để
lại ấn tượng tốt đối với khách hàng, làm việc mang lại hiệu quả cao từ đó duy trì khách
hàng cũ và có thêm nhiều khách hàng mới giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh cả với
những đối thủ nặng ký trên thị trường.


Do sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không được mong đợi và khá trừu tượng,
khách hàng đa dạng và hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm còn nhiều hạn chế nên hoạt
động kinh doanh bảo hiểm còn gặp không ít khó khăn đặc biệt là khâu khai thác, chào
bán sản phẩm. Để có thể đạt được kết quả và hiệu quả cao trong kinh doanh, đòi hỏi mỗi
DNBH cần có một đội ngũ nhân lực vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao lại có đạo
đức nghề nghiệp tốt, vì trong bảo hiểm dễ xảy ra trục lợi khi có sự phối hợp giữa cán bộ
của DNBH và khách hàng.
 Việc đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của một DNBH được thực hiện thông
qua đánh giá các chỉ tiêu sau:
+ Số lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty nói chung và cán
bộ nhân viên phụ trách về nghiệp vụ BHCN PNT nói riêng.
+ Năng suất lao động bình quân trong doanh nghiệp:
=
Trong đó:
là năng suất lao động bình quân trong kỳ1 lao động
D là doanh thu của DNBH trong kỳ
là số lượng lao động bình quân trong kỳ của DNBH
+ Thu nhập bình quân và các chính sách đãi ngộ đối với các nhân viên
 Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp thông qua các tiêu chí:
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp: Một mô hình bộ máy tổ chức gọn
nhẹ vừa mang tính chuyên biệt nhưng lại hoạt động hiệu quả và linh hoạt sẽ góp phần

nâng cao năng lực quản lý điều hành cũng như đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý của ban điều hành công ty sẽ giúp đưa
ra được các quyết định, các chiến lược kinh doanh đúng đắn trong từng giai đoạn phát
triển của công ty.
+ Tính linh hoạt và thích nghi của DNBH: Do thị trường bảo hiểm thường xuyên
biến động và các đối thủ cạnh tranh của DNBH cũng không ngừng thay đổi chiến lược
kinh doanh của mình nên để có thể tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh thì buộc các


DNBH phải tự làm mới mình. Để đánh giá tính đổi mới của DNBH hay của sản phẩm
người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
- Sự đổi mới về tư duy và chiến lược kinh doanh theo những biến động của thị
trường
- Sự đổi mới về sản phẩm như: cải tiến về chất lượng sản phẩm, thay đổi về giá cả,
giá trị gia tăng của các sản phẩm được triển khai, thiết kế sản phẩm mới….
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý điều hành DNBH nói chung
và quản lý về nghiệp vụ BHCN PNT nói riêng. Hiện nay, công nghệ thông tin giữ một vai
trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm cũng vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý đã và đang trở thành
một yếu tố tác động trực tiếp tới NLCT của DNBH và sản phẩm bảo hiểm. Với sự hỗ trợ
của các phần mềm quản lý, đánh giá rủi ro, kế toán phục vụ thu chi,…đã giúp cho các
DNBH có thể thu thập và xử lý thông tin dữ liệu một cách nhanh chóng, chính xác, tiết
kiệm tối đa chi phí về thời gian, giúp cho việc giao dịch với khách hàng diễn ra thuận tiện
hơn nên DNBH sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
c. Thị phần và thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm
 Thị phần của DNBH:
Hầu hết các DNBH khi gia nhập thị trường thường đặt mục tiêu cao nhất cho mình
là chiếm được phần càng lớn càng tốt trong miếng bánh thị trường hay còn gọi là thị phần
mà doanh nghiệp chiếm giữ.

Thị phần của DNBH là tỷ lệ % thị trường của DNBH nắm giữ so với các đối thủ
cạnh tranh. Thị phần gồm có thị phần tuyệt đối và thị phần tương đối.
Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ % kết quả tiêu thụ sản phẩm của DNBH này so với kết
quả tiêu thụ sản phẩm cùng loại của các DNBH khác trên thị trường.
Thị phần tương đối của DNBH được tính theo tỷ lệ thị phần của DNBH
Thị phần của DNBH

=

Thị phần của SPBH

=

Doanh thu phí của DNBH
Doanh thu phí của toàn thị trường
Doanh thu phí về sản phẩm của doanh nghiệp
Doanh thu phí về sản phẩm của toàn thị trường


Việc xác định thị phần của DNBH cũng như SPBH chính là xác định chỗ đứng của
DNBH trên thị trường. Do vậy, thi phần luôn được coi là chỉ tiêu hàng đầu khi đánh giá
NLCT của doanh nghiệp hoặc của SPBH. Thị phần của doanh nghiệp càng lớn chứng tỏ
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường càng cao, sự tín nhiệm của khách hàng đối với
doanh nghiệp càng tăng, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng và phát triển nên
NLCT của các SPBH mà doanh nghiệp đang triển khai sẽ có NLCT càng cao vì khách
hàng đã biết nhiều đến uy tín của doanh nghiệp.
Ngược lại, NLCT đó càng mạnh mẽ thì có nhiều khách hàng sẽ chọn SPBH của
doanh nghiệp, càng góp phần giúp doanh nghiệp gia tăng thị phần.
 Thương hiệu của DNBH về sản phẩm BHCN PNT:
Theo tâm lý chung của đại đa số khách hàng, họ thường có xu hướng tiêu dùng

những sản phẩm thông qua việc biết tới thương hiệu của doanh nghiệp sản xuất ra chúng,
vì chỉ khi có một thương hiệu mạnh mới mang tới cho khách hàng sự an tâm về chất
lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ mà họ chọn mua. Một thương hiệu được nhiều
người biết tới sẽ có tác dụng lớn thu hút khách hàng tới tiêu dùng sản phẩm, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nhưng ngược lại chính niềm tin và sự tín nhiệm
của khách hàng cũng góp phần không nhỏ tạo dựng thương hiệu, uy tín của doanh
nghiệp. Thương hiệu không chỉ tạo sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp mà nó còn
là một rào cản vô hình vô cùng lợi hại hạn chế sự gia nhập thị trường của các đối thủ
cạnh tranh trong tương lai. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng việc xây dựng thương
hiệu có thể coi là vấn đề mang tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp mà đặc biệt là
những doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm là lời hứa như DNBH trên thương trường cạnh
tranh khốc liệt hiện nay.
Kinh nghiệm của rất nhiều công ty hàng đầu trên thế giới đã chứng minh, thương
hiệu là một tiêu chí hàng đầu về đánh giá NLCT của DNBH và NLCT về sản phẩm của
doanh nghiệp đó. Việc đánh giá thương hiệu chính là việc đánh giá hình ảnh của doanh
nghiệp được định vị như thế nào trong con mắt người tiêu dùng. Khách hàng biết đến
công ty như thế nào qua việc biết tới sản phẩm, tên tuổi, logo, slogan,…của doanh
nghiệp.
Thương hiệu là khối tài sản vô hình vô cùng to lớn đối với mỗi DNBH, nhưng
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, các nhà bảo hiểm phải
làm gì để giữ gìn và phát triển thương hiệu của mình. Đó thực sự là một bài toán hóc búa


vì mỗi thương hiệu của mỗi doanh nghiệp không thể được hình thành và phát triển một
sớm một chiều mà nó là kết quả của một quá trình phấn đấu lâu dài và kiên trì theo
phương châm, chiến lược kinh doanh của bản thân mỗi doanh nghiệp. Một thương hiệu
nếu chỉ được tạo lập thông qua việc quảng cáo, khuếch trương tên tuổi của doanh nghiệp
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thì không thể là một thương hiệu bền
vững. Thương hiệu chỉ thực sự bền vững trên thương trường khi nó được xây dựng nên từ
con đườngchất lượng. Chất lượng của bộ máy lãnh đạo, của từng cá nhân trong doanh

nghiệp, chất lượng của các sản phẩm mà doanh nghiệp đó mang tới cho khách hàng và
những đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Như vậy, nếu DNBH đã hoặc đang cố gắng xây dựng cho mình một thương hiệu
tốt thì chắc chắn các sản phẩm của họ cũng sẽ có NLCT rất cao.
 Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm và cả
DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: Doanh thu và lợi nhuận.
Doanh thu của DNBH phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời kỳ
nhất định (thường là 1 năm). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên quan phục vụ
phân tích hoạt động kinh doanh trong DNBH. Chỉ tiêu này bao gồm các bộ phận cấu
thành: doanh thu về hoạt động kinh doanh BH và tái bảo hiểm; thu nhập từ đầu tư và các
khoản thu khác.
Chi phí của DNBH là toàn bộ số tiền DNBH chi ra trong kỳ phục vụ quá trình hoạt
động kinh doanh trong vòng 1 năm.
Dựa vào kết quả thu chi sẽ tính được lợi nhuận mà DNBH thu được trong 1 năm.
Có 2 chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí
Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận cũng có thể tính riêng cho từng nghiệp
vụ bảo hiểm. Khi đó, cần đảm bảo nguyên tắc: những khoản thu, chi nào có liên quan
trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như: phí bảo hiểm, chi
bồi thường, STBH chi trả,…), những khoản thu gián tiếp (chi quản lý doanh nghiệp, thu
nhập đầu tư,…) phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so


với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung.
 Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân doanh
nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh
nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn với những mục tiêu kinh tế - xã hội.
Trước hết là những mục tiêu của DNBH, sau đó là của ngành bảo hiểm và toàn bộ nền
kinh tế - xã hội. Bởi vì bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính xã hội.
Cho nên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một DNBH không chỉ xét trên góc độ kinh
tế mà còn phải xét trên góc độ phục vụ xã hội.
+ Đứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ số
giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
Hd = D/C (1)
Hc = L/C (2)
Trong đó:
Hd, Hc: Hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi nhuận
D: Doanh thu trong kỳ
C: Tổng chi phí chi ra trong kỳ
L: Lợi nhuận thu được trong kỳ
Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu, chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận cho DNBH. Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt, vì với chi phí nhất định,
DNBH sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng.
+ Đứng trên góc độ xã hội:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
Hx = Ktg/Cbh (3)
Hx = Kbt/Cbh (4)
Trong đó:


Hx: hiệu quả xã hội của DNBH
Cbh: Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh BH trong kỳ
Ktg: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
Kbt: Số khách hàng được bồi thường trong kỳ
Chỉ tiêu (3) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ thu hút được bao nhiêu

khách hàng tham gia bảo hiểm, chỉ tiêu (4) nói lên cùng với đồng chi phí đó đã góp phần
giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên
cứu.
 Một số chỉ tiêu cụ thể:
+ Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu

=

Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản

=

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

=

Lợi nhuận ròng
Tổng doanh thu
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu

* 100%

* 100%

* 100%


Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi
của doanh nghiệp. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ đông và doanh
thu của công ty. Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu.
Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là
lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu – ROE là tỷ số tài chính để đo khả năng sinh lợi
trên mỗi đồng vốn cổ phần ở một công ty cổ phần. Tỷ số này cho biết cứ 100 đồng vốn
chủ sở hữu của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận. Nếu tỷ số này mang
giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là công ty làm ăn thua lỗ.
Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản – ROA là một tỷ số tài chính dùng để đo lường khả năng
sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp. Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa


doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả.
Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Mức lãi hay lỗ được đo bằng
phần trăm của giá trị bình quân tổng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ số cho biết hiệu quả
quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp.
+ Cổ tức cho các cổ đông: Sau khi công ty thu được lợi nhuận sau thu ế, một phần
lợi nhuận này sẽ được giữ lại để thực hiện tái đầu tư, phần còn lại được chia cho các cổ
đông dưới hình thức cổ tức. Cổ tức các cổ đông nhận được càng lớn chứng tỏ hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Các chỉ tiêu về chi phí: Trong kinh doanh bảo hiểm, vấn đề chi phí có vai trò khá
quan trọng vì tiết kiệm chi phí hoạt động kinh doanh sẽ giúp các nhà bảo hiểm có điều
kiện để giảm phí, tăng chất lượng dịch vụ khách hàng từ đó tạo điều kiện nâng cao NLCT
cho sản phẩm.
Tỷ lệ bồi
thường

Tổng số tiền chi trả trong kỳ về nghiệp vụ
=


Tổng phí bảo hiểm thu được trong kỳ về
nghiệp vụ

* 100%

Đây là chỉ tiêu rất quan trọng khi đánh giá tình hình hoạt động của DNBH về bất
kỳ nghiệp vụ nào. Nó phản ánh số phí bảo hiểm mà doanh nghiệp sử dụng để chi trả. Chỉ
tiêu này càng lớn chứng tỏ chi phí mà doanh nghiệp phải chi cho sản phẩm càng lớn, gây
ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm và ngược lại.

Tỷ lệ chi quản lý =

Chi quản lý về nghiệp vụ
Tổng phí bảo hiểm của nghiệp vụ

* 100%

Tỷ lệ này cho biết để khai thác được một đồng phí bảo hiểm, doanh nghiệp phải bỏ
ra bao nhiêu đồng chi phí cho quản lý nghiệp vụ.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
NLCT của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. NLCT của sản phẩm
phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của
người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán,….
Với mỗi sản phẩm bảo hiểm nói chung và các sản phẩm BHSK và TNCN nói


riêng,mỗi DNBH khi triển khai sản phẩm của mình trên thị trường đều phải cân nhắc về
NLCT của sản phẩm so với các đối thủ cạnh tranh. Về cơ bản, các DNBH thường quan
tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của sản phẩm như sau:

1.2.3.1. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm bảo hiểm nói chung và BHSK và TNCN nói riêng được
đánh giá thông qua mức độ thỏa mãn yêu cầu của khách hàng cùng với các dịch vụ sau
bán hàng như giám định, bồi thường,…
Mỗi sản phẩm bảo hiểm đều được biểu hiện trên hợp đồng bảo hiểm (trong quy
tắc, điều khoản, biểu phí). Nội dung cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm thường bao gồm:
 Đối tượng bảo hiểm
 Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
 Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ
 Thời hạn bảo hiểm
 Mức phí bảo hiểm và phương thức nộp phí
 Các quy định về việc giải quyết bồi thường và xử lý tranh chấp nếu có
Có thể thấy chính những yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên chất lượng của mỗi
sản phẩm bảo hiểm. Bên cạnh đó, còn phải kể đến chất lượng của khâu giám định tổn thất
và giải quyết bồi thường, chi trả. Thực hiện tốt khâu này một cách chủ động, nhanh
chóng, chính xác, hợp lý chính là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của DNBH
đối với khách hàng của mình.
1.2.3.2. Giá cả sản phẩm
Cạnh tranh bằng giá phải được đảm bảo về mặt luật pháp thông qua các quy định
về quản lý phí bảo hiểm. Sau đó phí bảo hiểm phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài chính của
doanh nghiệp, bao gồm khả năng chi trả bồi thường, các chi phí hoạt động và đảm bảo có
lãi.
Với mục tiêu theo hướng cạnh tranh, doanh nghiệp thực hiện việc định giá sản
phẩm dựa trên giá cả sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc đối thủ cạnh tranh
tiềm năng. Cụ thể, DNBH sẽ phải xem xét các yếu tố:


 Số lượng đối thủ cạnh tranh và số sản phẩm cạnh tranh
 Yếu tố chi phí gắn với sản phẩm của từng đối thủ cạnh tranh
 Nguồn lực tài chính của từng đối thủ nói chung cũng như nguồn lực từng đối

thủ cạnh tranh dành riêng cho sản phẩm
 Vai trò của sản phẩm trong danh mục sản phẩm của đối thủ cạnh tranh
 Hành vi định giá trước đây của từng đối thủ
 Phản ứng dự kiến của từng đối thủ cạnh tranh trước sự thay đổi của giá cả
 Điểm mạnh, điểm yếu của từng đối thủ cạnh tranh
Tiếp cận với những thông tin này sẽ giúp DNBH đưa ra những mức giá phù hợp
cho sản phẩm của mình trong mối quan hệ với giá của các sản phẩm của các đối thủ cạnh
tranh.
Hiện nay, cạnh tranh bằng phí được DNBH PNT thực hiện thông qua hoạt động hạ
phí mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Thông thường các DNBH tìm cách hạ phí thông
qua giảm chi phí hành chính, chi phí quản lý, chi phí ký kết hợp đồng,…
1.2.3.3. Dịch vụ đi kèm sản phẩm
Trong điều kiện kinh tế thị trường, muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh
doanh, trước hết các doanh nghiệp phải bảo vệ được thị phần thị trường hiện có của
mình, sau đó bằng các biện pháp cạnh tranh sẽ phát triển dần sang thị trường tiềm năng
mà mình đã xác định. Do đặc thù của sản phẩm bảo hiểm, nên trong kinh doanh bảo hiểm
vấn đề tổ chức dịch vụ khách hàng, giữ khách hàng luôn được coi trọng. Các DNBH luôn
đánh giá và nhận thức rất cao công tác này vì:
 Làm tốt công tác dịch vụ khách hàng trước hết là giữ được khách hàng, nhất là
những khách hàng truyền thống, có STBH lớn. Từ đó giúp tiết kiệm chi phí khai thác ban
đầu, tăng thêm kinh nghiệm phòng tránh rủi ro. Hơn thế, khách hàng cũ còn có khả năng
lôi kéo khách hàng mới về với DNBH.
 Công tác dịch vụ khách hàng còn tạo ra sự khác biệt so với các đối thủ cạnh
tranh (nhất là trong giao tiếp, chăm sóc, dẫn dụ khách hàng), từ đó nhiều khách hàng sẽ
chung thủy hơn với DNBH. Đồng thời còn tạo cảm giác cho họ về những quyền lợi mà
họ được hưởng không chỉ có giá trị của sản phẩm bảo hiểm mà cả chất lượng phục vụ.


 Thực hiện tốt công tác dịch vụ khách hàng cũng góp phần cải thiện môi trường
làm việc, nâng cao uy tín của DNBH.

 Một khi đã giữ được khách hàng cũ và lôi kéo them nhiều khách hàng mới nhờ
công tác dịch vụ khách hàng không chỉ góp phần tăng doanh thu mà còn tiết kiệm được
nhiều khoản chi khác.
Công tác dịch vụ khách hàng thường được xem xét dưới 2 nội dung: dịch vụ chăm
sóc khách hàng và dịch vụ hỗ trợ khách hàng
Dịch vụ chăm sóc khách hàng được thực hiện sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm,
thông qua những lời thăm hỏi, tặng quà trong các dịp lễ tết, sinh nhật, trong tư vấn đề
phòng và hạn chế tổn thất….
Đối với các DNBH PNT, dịch vụ hỗ trợ khách hàng thường được thực hiện dưới
hình thức tổ chức các “Hội nghị khách hàng”, nhằm mục đích duy trì mối liên hệ thường
xuyên với họ. Qua hội nghị khách hàng, DNBH sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng
về các loại sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm, những ý kiến đóng góp của họ về mỗi loại sản
phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp đã tung ra thị trường, những vấn đề còn tồn tại trong
các khâu dịch vụ,….
1.2.3.4. Hệ thống phân phối sản phẩm
Hình thức cạnh tranh này biểu hiện rất phong phú và đa dạng, gồm: phân phối trực
tiếp (gặp gỡ trực tiếp, điện thoại, thư tín, mail, …), phân phối gián tiếp (công ty môi giới,
đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ). Việc lựa chọn kênh phân phối của DNBH có mối quan hệ
tương tác với thị trường mục tiêu và sản phẩm mà DNBH chào bán. Mục tiêu của kênh
phân phối là giới thiệu và bán sản phẩm theo cách vừa đem lại hiệu quả cho DNBH vừa
thích hợp với người tiêu dùng. Các DNBH thường định kỳ điều chỉnh kênh phân phối để
tăng tính cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả cao trong bán hàng.
Kênh phân phối trực tiếp là thích hợp khi khách hàng có sự am hiểu nhất định về
sản phẩm bảo hiểm, đặc biệt đối với các sản phẩm bảo hiểm mang tính đại trà và đã được
triển khai từ trước. Kênh phân phối gián tiếp nên được sử dụng khi DNBH chào bán
nhiều loại sản phẩm bảo hiểm cùng lúc, đặc biệt với các sản phẩm mới được triển khai
trên thị trường hoặc những sản phẩm đặc biệt, ít tính phổ thông hoặc với nhóm khách
hàng có yêu cầu đặc biệt về sản phẩm bảo hiểm.
1.2.3.5. Quảng bá sản phẩm



Nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm, các DNBH phải thực hiện các hoạt động
xúc tiến bán hàng, phổ biến nhất là 2 công cụ: tuyên truyền quảng cáo trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các hoạt động quan hệ với công chúng. Hình thức cạnh tranh
này thường đòi hỏi chi phí lớn, các doanh nghiệp áp dụng hình thức này thường là các
doanh nghiệp có vốn lớn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm và phải có chiến lược khai
thác từng thị trường mục tiêu một cách rõ ràng, chính xác thì mới hiệu quả.
Các phương tiện thông tin đại chúng truyền thống được sử dụng để quảng cáo bao
gồm: vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, bảng hiệu, áp phích. Hiện nay,
mạng internet cũng đang trở thành một dạng phương tiện thông tin đại chúng phổ biến vì
các DNBH đã và đang xây dựng những trang web cho phép người sử dụng máy tính có
thể tìm hiểu các thông tin về sản phẩm và về DNBH. Các hình thức quảng cáo này cung
cấp cho khách hàng các thông tin về sản phẩm, xây dựng sự ưa thích của khách hàng đối
với sản phẩm, củng cố thái độ hay thói quen mua hiện thời của khách hàng đối với sản
phẩm của doanh nghiệp. Để tăng tính cạnh tranh trên thị trường, một số DNBH cũng thực
hiện truyền thông về lớp sản phẩm vượt trội hẳn so với lớp sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh.
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
Cạnh tranh là quy luật phổ biến nhất, tác động mạnh mẽ nhất tới quá trình vận hành
của nền kinh tế thị trường nên bất cứ doanh nghiệp nào khi thị tham gia thị trường đều
phải đương đầu với cạnh tranh. Đó là một cuộc chiến tranh mà họ không thể không đối
mặt. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và khi nền kinh tế ngày càng phát
triển, cạnh tranh diễn ra trên quy mô ngày càng rộng hơn với mức độ khốc liệt hơn trong
mọi lĩnh vực và một ngành dịch vụ như bảo hiểm cũng không phải ngoại lệ. Một sản
phẩm bảo hiểm chỉ thực sự chiếm lĩnh được thị trường, chiến thắng các sản phẩm cùng
loại của đối thủ cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam khi có được NLCT. NLCT
của DNBH về một sản phẩm là khả năng sản phẩm đó được tiêu thụ nhanh chóng trong
khi thị trường có rất nhiều nhà bảo hiểm cũng đang triển khai sản phẩm tương tự.
Xuất phát từ những đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm khiến cho việc chào bán sản
phẩm gặp rất nhiều khó khăn, các doanh nghiệp thường đổ xô vào các sản phẩm đang

được thị trường ưa chuộng bằng cách cải tiến cho sản phẩm của mình hoàn thiện hơn,
tăng cường truyền thông quảng cáo sâu rộng, giảm phí để thu hút khách hàng, tăng hoa
hồng,….Điều này đã khiến cho cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm diễn ra vô cùng khốc


liệt và đôi lúc có thể nói là không lành mạnh. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các
DNBH trong nước với nhau, giữa DNBH trong nước và nước ngoài mà còn giữa các
DNBH với các dịch vụ tài chính khác như ngân hàng,….Chính áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt này đã khiến cho vấn đề nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm bảo hiểm trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết nhằm góp phần nâng cao NLCT cho toàn doanh nghiệp.
Thực tế không chỉ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam mà thị trường bảo hiểm thế
giới cũng đã chứng minh rằng khách hàng luôn muốn tham gia bảo hiểm tại những
DNBH lớn, có uy tín trên thị trường vì thực chất bán bảo hiểm chính là bán lời hứa, lời
cam kết của công ty đối với khách hàng. Một thương hiệu mạnh có thể cam kết sẽ mang
tới cho khách hàng những sản phẩm đạt tiêu chuẩn, giúp họ có thể tìm kiếm, lựa chọn sản
phẩm một cách dễ dàng phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy, nâng cao NLCT của
doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết để định vị hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí
khách hàng giúp DNBH có thể nâng cao NLCT cho sản phẩm. NLCT của sản phẩm tăng
cao sẽ góp phần tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và ngược lại sức cạnh tranh của
doanh nghiệp tăng sẽ thúc đẩy NLCT của sản phẩm.


×