Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Ngày 1532017, cụ Hạnh (95 tuổi) đã tháo đôi bông tai tặng cho chị Hồng làm nghề nhặt rác và sống cạnh nhà cụ Hạnh (đôi bông tai là kỷ vật mà người chồng quá cố của cụ Hạnh đã tặng trong ngày cưới và cụ rất trân trọng. Đôi bông tai bằng vàng có trị giá 15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.44 KB, 14 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao dịch dân sự là một trong những phương tiện hữu hiệu cho các chủ thể
xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng hay trong sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường
phát sinh nhiều loại hình giao dịch mà pháp luật dân sự phải từng bước hệ thống
hoá bằng các quy định cụ thể. Có thể khẳng định rằng, giao dịch dân sự là loại
quan hệ có tính chất phổ biến, được áp dụng rộng rãi nhất trong giao lưu dân sự,
xảy ra hàng ngày và tất cả các chủ thể tiến hành xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
được Bộ luật dân sự ghi nhận là căn cứ pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ dân
sự
Để tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này, nhóm chúng e xin được tìm hiểu về một
tình huống cụ thể như sau:
Ngày 15/3/2017, cụ Hạnh (95 tuổi) đã tháo đôi bông tai tặng cho chị Hồng
làm nghề nhặt rác và sống cạnh nhà cụ Hạnh (đôi bông tai là kỷ vật mà người
chồng quá cố của cụ Hạnh đã tặng trong ngày cưới và cụ rất trân trọng. Đôi bông
tai bằng vàng có trị giá 15 triệu). Buổi tối, các con cháu cụ Hạnh đi làm về phát
hiện đôi bông tai cụ đeo hàng ngày không cánh mà bay liền hỏi cụ thì cụ nói rơi
đâu đó. Mọi người đi tìm quanh nhà và các khu vực cụ hay ngồi chơi nhưng đều
không thấy. Đột nhiên cụ Hạnh nhớ ra là buổi sáng đã tháo đôi bông tai tặng cho
chị Hồng. Trước sự việc đó, các con cụ Hạnh đã sang yêu cầu chị Hồng phải hoàn
trả cho cụ đôi bông tai vì lý do cụ bị lẫn (đãng trí tuổi già) nên mới tháo đôi bông
tai cho chị. Chị Hồng nói, vì cần tiền nên buổi chiều chị đã mang đôi bông tai ra
cửa hàng vàng của chị Nga bán được 10 triệu và trả nợ cho bà Hương toàn bộ 10
triệu đó. Đồng thời, chị Hồng cũng không đồng ý trả lại đôi bông tai, vì chị cho
rằng cụ Hạnh sang chơi nhà chị và tự nguyện cho chị chứ chị không xin và cũng
không cưỡng ép hay đe dọa cụ phải cho.
1


Hỏi:
1. Xác định các loại giao dịch trong tình huống và xác định giá trị pháp lý


của các giao dịch đó?
2. Xác định các căn cứ pháp lý có thể được sử dụng để giải quyết tình
huống?
3. Các con cụ Hạnh có thể đòi lại được đôi bông tai không?
4. Hãy xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến đôi bông
tai nếu giao dịch giữa cụ Hạnh và chị Hồng bị tuyên bố vô hiệu?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.

Xác định các loại giao dịch trong tình huống và xác định giá trị pháp lý
của các giao dịch đó

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. (quy định tại Điều 116 BLDS
2015)
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao
dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội
dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ.
Ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể
khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một giao
dịch dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và
bày tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố là vô
hiệu hoặc sẽ vô hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà đúng với cả pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể này đều
thông qua người đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Giao dịch dân sự trong các trường hợp dới đây đều là hợp đồng, hợp đồng dân
sự có giá trị pháp lý hay không thì trước tiên phải đáp ứng được các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 117 BLDS, cụ thể như sau:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự


2


1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.
* Các loại giao dịch trong tình huống trên là:
- Cụ Hạnh đã tháo bông tai tặng chị Hồng đây là hợp đồng tặng cho tài sản.
- Chị Hồng đã mang đôi bông tai ra cửa hàng vàng của chị Nga bán hợp đồng mua
bán tài sản.
- Chị Hồng trả nợ 10 triệu đồng cho bà hương là hợp đồng cho vay tài sản.
* Giá trị pháp lý của các loại hợp đồng
Căn cứ vào Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản
Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao
tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu
đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Thứ nhất, về hình thức của hợp đồng, các hợp đồng tặng - cho tài sản, mua bán tài sản (ở đây là đôi bông tai bằng vàng), hợp đồng cho vay tài sản( vay tiền) là
sự thỏa thuận của các bên. Bộ luật Dân sự không quy định các hợp đồng trên phải
luôn tuân theo một hình thức bắt buộc, do vậy hình thức của hợp đồng này được
thực hiện theo quy định về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Hợp đồng
không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Thứ hai về nội dung của các hợp đồng trên:
3



Giao dịch thứ nhất, hợp đồng tặng cho tài sản giữa chị Hồng và cụ Hạnh:
Tặng cho tài sản mang ý nghĩa cơ bản quan trọng như: thứ nhất, tặng cho tài
sản là một trong những phương thức chủ sở hữu định đoạt tài sản của mình. Thông
qua tặng cho mà tài sản được chuyển sở hữu từ chủ thể tặng cho sang chủ thể được
tặng cho; thứ hai, việc tặng cho tài sản thường được xác lập giữa những người có
mối quan hệ thân thiết. Việc tặng cho tài sản giữa những người này vừa mang tính
chất trách nhiệm vừa thể hiện sự yêu thương, gắn bó, đùm bọc trong gia đình; bên
cạnh đó, việc tặng cho tài sản mang tính chất nhân đạo thông qua hình thức làm từ
thiện diễn ra ngày càng phổ biến. Đây là những đức cao đẹp, cần được giữ gìn,
phát huy của con người Việt Nam trong bối cảnh xã hội có nhiều giá trị đạo đức tốt
đẹp đang ngày càng mai một.
Theo như giả thiết trên thì cụ Hạnh năm nay đã 95 tuổi và có dấu hiệu đãng trí
tuổi già (khi mà các con hỏi cụ thì cụ nói đã đánh rơi đâu đó, nhưng lúc sau mới
nhớ ra là đem cho chị Hồng). Giao dịch dân sự sẽ bị tuyên là vô hiệu khi chứng
minh được cụ Hạnh mất năng lực hành vi dân sự. Vì khi đó đã vi phạm một trong
những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được nêu trên.
Căn cứ theo Điều 22 BLDS 2015 “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc:
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra
quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần.”
Để Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, cần
đảm bảo các điều kiện sau:
- Một người do bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình.
- Có kết luận của tổ chức giám định về việc người đó bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;


4


- Người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự;
Vậy nên, khi tuyên giao dịch dân sự này vô hiệu thì phải có đủ căn cứ để xác
định cụ Hạnh bị bệnh làm mất năng lực hành vi dân sự. Việc cụ Hạnh già yếu, bị
lẫn hay không nhớ gì hết cần kiểm tra xem cụ có mắc các bệnh như căn cứ trên đưa
ra không và phải có kết luận của tổ chức giám định. Việc xác định một người mất
năng lực hành vi dân sự do già yếu là không có căn cứ pháp luật. Đồng thời, Tòa
án cũng chỉ ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự khi có
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Giao dịch thứ hai: hợp đồng mua – bán tài sản giữa chị Hồng và chị Nga.
Căn cứ vào Điều 430: Hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán
chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.
Hợp đồng mua bán nhà ở, mua bán nhà để sử dụng vào mục đích khác được
thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan.
Hợp đồnng mua bán tài sản là một trong các loại hợp đồng dân sự có tính thông
dụng và phổ biến nhất. Hợp đồng là căn cứ để phát sinh một quan hệ nghĩa vụ dân
sự, nội dung của hợp đồng xác định rõ nghĩa vụ của các bên. Trong hợp đồng mua
bán tài sản, bên bán có nghĩa vụ là chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho
bên mua và bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán. Dấu hiệu quan trọng của
hợp đồng mua bán là chuyển quyền sở hữu tài sản đồng thời tài sản được chuyển
giao.
Khi giao dịch giữa chị Hồng và cụ Hạnh là giao dịch có hiệu lực thì giao dịch
mua – bán giữa chị Hồng và chị Nga cũng hoàn toàn có hiệu lực. Vì khi giao dịch
5



tặng cho có hiệu lực thì khi chị Hồng nhận chiếc bông tai thì chiếc bông tai ấy đã
thuộc sở hữu của chị Hồng và chị có thể mang đi bán bất cứ lúc nào.
Khi giao dịch giữa chị Hồng và cụ Hạnh bị tuyên là vô hiệu thì giao dịch mua –
bán giữa chị Hồng và chị Nga được tuyên là vô hiệu, chị Nga sẽ được xét vào
trường hợp người thứ ba ngay tình nhưng điều 167 BLDS quy định.
- Vì trường hợp này cụ Hạnh bị chiếm hữu ngoài ý chí, nên dù thông qua hợp
đồng mua bán với chị Hồng nên chị Nga không có quyền xác lập sở hữu đối với tài
sản.
Giao dịch thứ ba: Hợp đồng cho vay tài sản giữa chị Hồng và bà Hương
Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao
tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản
cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc
pháp luật có quy định.
Hợp đồng cho vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay tài
sản cùng lạo theo đúng số lượng, chất lượng và trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định nghĩa này đã chứa đựng chủ thể của hợp đồng vay bao gồm bên
cho vay và bên vay, đồng thời nghĩa vụ chính của mỗi chủ thể. Quy định này cũng
cho thấy, hợp đồng vay tài sản bao gồm hợp đồng vay có lãi và hợp đồng vay
không có lãi. Hợp đồng vay tài sản là một loại hợp đồng phổ biến trến thực tế,
được xác lập hàng ngày, hàng giờ cùng với sự phát triển của kinh tế. xã hội.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có mục đích chuyển quyền sở hữu đối với tài
sản vay. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay là thời điểm bên vay
nhận tài sản đó. Khi bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay, bên vay có toàn
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt số tài sản, trừ trường hợp có điều kiện của
bên cho vay về việc sử dụng tài sản.
Khi giao dịch giữa chị Hồng và chị nga là giao dịch có hiệu lực thì giao dịch
giữa chị Hồng và bà Hương cũng hoàn toàn có hiệu lực. Khi giao dịch giữa chị
Hồng và chị nga bị Vô hiệu thì giao dịch giữa chị Hồng và bà hương bị vô hiệu,
6



tiền sẽ phải trả lại cho chị Nga. Vì hợp đồng giữa chị Nga và Chị Hồng không có
đền bù.

2.

Căn Cứ pháp lý để giải quyết các tình huống trên

- Để xác định xem giao dịch dân sự giữa chị Hồng và cụ Hạnh để có bị vô hiệu
không phải dùng các căn cứ pháp lý sau:
Điều 22 BLDS 2015 “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần.”
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
- Khi giao dịch dân sự đầu tiên bị vô hiệu thì sẽ dẫn tới các giao dịch dân sự bị
vô hiệu. Căn cứ pháp lý sẽ được giải quyết như sau:
+ Gia đình cụ Hạnh đòi lại tài sản từ chị Nga căn cứ vào điều 167 BLDS 2015.
Điều 167. Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ
người chiếm hữu ngay tình
Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ

người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được
7


động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
+ Chị Nga được đòi lại tiền từ chị Hồng vì chị Hồng đã xác lập giao dịch mua
bán với chị Hương.
+ Chị Nga cũng được quyền đòi lại tiền từ bà Hương vì chị Hồng đã trả tiền vay
nợ cho bà Hương, căn cứ vào điều 167 BLDS.
+ Trong trương hơp bà Hương bị chị Nga đòi và phải trả tiền thì bà Hương có
quyền đòi lại tiền từ chị Hồng và chị Hồng bắt buộc phải trả vì trước đó đã xác lập
giao dịch cho vay tài sản.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.

3. Các con cụ Hạnh có thể đòi lại được đôi bông tai không?
Trong trường hợp này các con của cụ Hạnh không thể đòi lại được đôi bông tai.
Giao dịch dân sự giữa cụ Hạnh và chị Hồng đã được xác lập và nếu muốn đòi lại
được đôi bông tai thì phải có điều kiện khiến giao dịch dân sự này vô hiệu.
* Về hình thức của hợp đồng, đây là hợp đồng tặng cho tài sản – là sự thỏa
thuận của các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở
hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng
ý nhận.
Bộ luật Dân sự không quy định Hợp đồng tặng cho tài sản phải luôn tuân theo
một hình thức bắt buộc, do vậy hình thức của hợp đồng này được thực hiện theo
quy định về hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Hợp đồng không bị vô hiệu
trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác.
8


Do đó việc cụ Hạnh cho chị hồng đôi bông tai bằng vàng không vi phạm điều
kiện về hình thức của hợp đồng.
* Về nội dung của hợp đồng:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh,
thay đổi, hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 116 BLDS).
Như đã phân tích ở trên, loại giao dịch trong tình huống này là hợp đồng dân
sự. Hợp đồng tặng cho tài sản hình thành trên cơ sơ thỏa thuận giữa bên tặng cho
và bên được tặng cho, theo đó, bên tặng cho tài sản của mình và chuyển sở hữu cho
bên được tặng mà không yêu cầu đền bù và hợp đồng tặng cho đồng ý nhận. Bởi vì
bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên thì pháp luật
cũng đặt ra một số yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể tuân theo,đó là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự. Chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia .
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.

9



Theo quy định của Luật nếu một giao dịch dân sự không đáp ứng đầy đủ ba
điều kiện trên thì giao dịch dân sự ấy sẽ bị vô hiệu.
Xét từng điều kiện của giao dịch ở tình huống trên :
Thứ nhất, Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù
hợp với giao dịch dân sự được xác lập
Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự. Năng lực dân sự này có từ khi cá nhân đó sinh ra và mất từ khi cá nhân đó
chết đi. Năng lực hành vi dân sự là khả năng cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa
vụ dân sự bằng hành vi của mình ( khả năng chủ quan). Người từ đủ 18 tuổi trở lên
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị tòa án tuyên bố mất năng
lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự
Theo giả thiết của tình huống,cụ Hồng đã 95 tuổi do vậy xét về độ tuổi,cụ hoàn
toàn có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Các con của cụ cho rằng do cụ bị lẫn
( đãng trí do tuổi già) thì cũng không thể khẳng định là cụ bị mất năng lực hành vi
dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự. Bởi vì đấy chỉ là cái nhìn chủ quan
của người muốn lấy lại tài sản. Hơn nữa không có kết luận pháp y và không có
tuyên bố của tòa án thì dưới góc độ pháp luật cụ vẫn là người bình thường ( dù
dựa trên góc độ dân sự). Cho nên cụ Hạnh có quyền xác lập mọi giao dịch.
Từ những phân tích trên,đây là giao dịch hợp pháp có đầy đủ điều kiện của 1
giao dịch dân sự nên nó sẽ không bị vô hiệu hóa. Đồng nghĩa với việc các con của
cụ sẽ không có quyền đòi lại đôi bông tai từ chị Hồng
Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.

10


“Tự nguyện” bao gồm các yêu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí.Nếu
một trong 2 yếu tố này không có hoặc không thống nhất thì cũng không thể có tự
nguyện .Giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lí, Bộ luật

dân sự xác định một số trường hợp không có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các
trường hợp do giả tạo ,do nhầm lẫn,do bị lừa dối, bị đe dọa do xác lập tại thời điểm
mà không nhận thức và làm chủ hành vi của mình.
Ở tình huống trên cụ Hạnh đã tháo đôi bông tai tặng cho chị Hồng làm nghề
nhặt rác và sống cạnh nhà cụ Hạnh. Có nghĩa là trong trừng hợp này cụ Hạnh hoàn
toàn tự nguyện tháo đôi bông tai ra và tặng cho chị Hồng.Vì bản thân chị Hồng
không hề có hành vi đe dọa hay nói gì lừa dối để khiến cụ tặng cho đôi bông tai.
Hành vi tháo đôi bông tai ra để tặng cho chị Hồng là hành vi tự nguyện của cụ
Hạnh mà không hề có sự can thiệp của yếu tố khách quan nào.Và cụ Hạnh vẫn
nhận thức và điều khiển được hành vi của mình mà không có sự xúi dục hay mê
hoặc từ ai khác. Cho nên người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không trái với pháp
luật,đạo đức xã hội thì giao dịch mới có hiệu lực pháp luật. Mục đích của giao dịch
là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn khi xác lập giao dịch đó. Nội dung của
giao dịch dân sự là tổng hợp các khoản mà các bên đã cam kết đã thỏa thuận trong
giao dịch dân sự. Chỉ những tài sản được phép giao dịch , những công việc được
phép thực hiện không vi phạm điều cấm pháp luật, không trái với đạo đức mới là
đối tượng của giao dịch dân sự. Những giao dịch xác lập nhằm trốn tránh pháp luật
hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung không hợp
pháp không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó.
Ở tình huống trên,tài sản được đem ra giao dịch là chiếc bông tai bằng vàng nó
hoàn toàn hợp pháp không phải tài sản cấm. Cụ Hạnh tặng cho chị Hồng hoàn toàn
không vi phạm pháp luật và trái với đạo đức.
11


Tuy nhiên,nếu con của cụ chứng minh được cụ bị lẫn do tuổi già không nhận
thức và điều khiển được hành vi của mình lúc đưa bông tai cho chị Hồng (có giám
định của bệnh viện và có tuyên bố của tòa án) thì giao dịch dân sự này sẽ bị hủy
bỏ.Và đương nhiên chị Hồng phải trả lại đông bông tai vàng đấy hoặc giá trị tài sản

ban đầu của tài sản.
4.

Hãy xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến đôi bông
tai nếu giao dịch giữa cụ Hạnh và chị Hồng bị tuyên bố vô hiệu?

Khi giao dịch giữa chị Hồng và cụ Hạnh bị tuyên bố vô hiệu khi không có đủ
điều kiện theo điều 117 BLDS 2015 thì tất cả các giao dịch sau bị vô hiệu. Gia đình
cụ Hạnh có quyền yêu cầu chị Nga chủ tiệm vàng lập tức trao trả đôi bông tai
bằnưa\g vàng, chị Nga có nghĩa vụ phải trao trả đôi bông tai bằng vàng trong một
khoảng thời gian nhất định ( căn cứ theo theo Điều 167 BLDS 2015: Chủ sở hữu
có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu
ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này
thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản;
trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại
động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu
ngoài ý chí của chủ sở hữu). Ở đây, động sản bị chiếm giữ không có căn cứ pháp
luật và tài sản bị chiếm hữu ngoài ý chí chủ sở hữu, dù động sản này có được thông
qua hợp đồng có bền bù.
Khi đó chị Nga có quyền yêu cầu chị Hồng trả với số tiền là 10 triệu cho mình,
chị Hồng lúc đó phải có nghĩa vụ trả tiền cho chị Nga.
Chị Nga có quyền đòi bà Hương 10 triệu đồng vì căn cứ theo điều 167 BDLS
ta có thể đưa ra kết luận sau.
Bà Hương có được số tiền 10 triệu nhưng không biết số tiền đó ở đâu ra, hợp
đồng cho vay giữa bà Hương và chị Hồng là hợp đồng không đền bù vì bà Hương
cho chị Hồng vay 10 triệu mà không có điều kiện gì thêm. Do đó chị Nga có quyền
đòi bà Hương số tiền này.
Bà Hương có quyền đòi số tiền 10 triệu cho chị Hồng vay thông qua hợp đồng
cho vay tài sản, chị Hồng có nghĩa vụ phải trả số tiền này. Trong trường hợp chị
Hồng không trả được thì chị Hồng có thể viết đơn tố cáo đến các cơ quan tố tụng

để giải quyết.
KẾT LUẬN
12


Có thể nói, trong điều kiện nền kinh tế phát triển và hội nhập sâu rộng như
hiện nay, vai trò của giao dịch dân sự ngày càng được đề cao hơn bao giờ hết. Tuy
nhiên, trong thực tế các giao dịch này phát sinh nhanh chóng và có nhiều yếu tố tác
động đến. Vì vậy việc xác định, phân loại chúng một cách cụ thể, chính xác là điều
vô cùng cần thiết để có thể xác định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có
liên quan. Từ đó ngoài việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh thì chúng
ta cần nâng cao sự hiểu biết về pháp luật nói chung và vấn đề tự nguyện trong giao
dịch dân sự nói riêng, tránh tình trạng vấp phải những sai lầm không đáng có.

13


14



×