Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

yeu to ko tham gia BHXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.77 KB, 65 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
ST
T

TÊN BẢNG

TRAN
G

1

Bảng 1-1: Ma trận xác suất/tác động

22

2

Bảng 1-2: Kỹ thuật theo dõi các danh mục rủi ro hàng đầu

23

3

Bảng 2-1: Số liệu thu BHXH trên địa bàn tỉnh qua các năm

35

4



Bảng 2-2: Tình hình nợ đọng BHXH qua các năm

37

5

Bảng 2-3: Tỉ lệ đóng góp vào quỹ BHXH ở một số nước trên thế
giới:

38

6

Bảng 2-4: Dự báo thu chi quỹ BHXH của Việt Nam

38

DANH MỤC CÁC HÌNH
ST
T

TÊN HÌNH

TRAN
G

1

Hình 1-1:Lưu đồ quy trình sản xuất kinh doanh


19

2

Hình 1-2: : Phân tích rủi ro

20

3

Hình 1-3: Phương pháp PEST

21

4

Hình 1-4: Phương pháp SWOT

22

5

Hình1- 5 : Phương pháp đo lường rủi ro dùng cây quyết định

24

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T

1
2
3
3
4
5
6
7
8
9
10

KÝ HIỆU
BHXH
BHYT
BHTN
BV
DN
KB
KH
KTV
TNLĐ
TTHC
TCTK

NỌI DUNG
Bảo hiểm Xã hội
Bảo hiểm Y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Bệnh viện

Doanh nghiệp
Khám bệnh
Khách hàng
Kỹ thuật viên
Tai nạn lao động
Thủ tục hành chánh
Tổ chức thống kê


MỞ ĐẦU
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước trong thời gian vừa qua , chính
sách BHXH cũng được điều chỉnh, thay đổi để phối hợp với sự chuyển đổi của nền
kinh tế đất nước, với nguyện vọng của người lao động.
Công tác thu hồi nợ BHXH, BHYT, BHTN hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ tính tuân thủ pháp luật của các DN hạn chế, cố
tình chây ỳ, lách luật trong việc đóng BHXH, BHYT, BHTN. Một số DN đã chậm
đóng, chiếm dụng tiền BHXH, BHYT, BHTN để sử dụng cho mục đích kinh doanh.
Đến khi số tiền chiếm dụng quá lớn, DN gặp khó khăn thì mất khả năng trả nợ. Một
số DN thì lách luật, không đóng kịp thời BHXH, BHTN hằng tháng mà cố tình
chậm đóng, chiếm dụng quỹ BHXH, BHTN để phục vụ mục đích kinh doanh.
Ngoài ra, việc quản lý và giám sát các hoạt động kinh doanh của DN giữa các
cơ quan quản lý chưa có hệ thống, gây khó khăn cho cơ quan BHXH, không thu hồi
được nợ BHXH, BHYT, BHTN khi DN giải thể, phá sản hoặc DN mất tích, chủ DN
bỏ trốn. Điều này không chỉ gây thất thoát quỹ BHXH, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi của người lao động mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn tình hình an
ninh xã hội.
Quỹ BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói nó là
vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng quỹ BHXH
(thu - chi quỹ BHXH) nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của quỹ
BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm thế nào để

có thể nâng cao được hiệu quả trong việc thu -chi quỹ BHXH đây là câu hỏi được
đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm nghiên cứu hoạt động BHXH.
Nắm bắt sự thiết yếu của vấn đề, xuất phát từ thực tiễn, đề tài “Quản trị rủi ro
trong công tác thu, chi Bảo hiểm Xã hội – Trường hợp BHXH tỉnh Trà Vinh” đã
được đặt ra nhằm giải quyết một phần của vấn đề Quỹ BHXH – Trường hợp BHXH
tỉnh Trà Vinh.

Trang 3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
1.1 TỔNGQUAVỀRỦIO
1.1.1 Khái niệm chung
Rủi ro có mặt ở khắp nơi, là một phần trong đời sống của mọi cá nhân cũng
như các tổ chức xã hội.
Rủi ro được định nghĩa là một tổ hợp của khả năng xảy ra của một sự kiện
cùng với hệ quả của nó.
Trong hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro là khả năng xảy ra sự kiện không
mong đợi tác động ngược với thu nhập và vốn đầu tư. Thông thường, người ta cho
rằng rủi ro là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại tài chính. Các trường hợp rủi ro
được khái quát hóa bằng sự hiện diện của những tình huống không chắc chắn, mà
nguyên nhân chủ yếu có thể đến từ lý do lạm phát, do biến động lãi suất, tỷ giá, giá
cả hàng hóa, hoặc do đánh giá sai các khả năng tình huống xảy ra, hoặc do quyết
định đầu tư không thích hợp, hoặc cũng có thể do các yếu tố chính trị, xã hội và môi
trường kinh doanh thay đổi,…
Như vậy, có thể coi rủi ro là những điều không chắc chắn của những kết quả
trong tương lai hay là những khả năng của kết quả bất lợi.
Xét trong tính tổng thể, đối với mỗi sự kiện và hệ quả của nó đều chứa đựng
cơ hội mang lại lợi ích và nguy cơ gây hại. Quản trị rủi ro càng ngày càng được coi

là vấn đề liên quan đến cả khía định tích cực và tiêu cực của rủi ro.
Trong một giới hạn hẹp hơn, thông thường khi nói đến hệ quả của sự kiện
người ta nói đến các hệ quả tiêu cực (hậu quả) và quản trị rủi ro do đó được coi là
tập trung vào các yếu tố tiêu cực, gây hại.
Nếu người ta xem xét rủi ro trong khả năng xuất hiện thường xuyên, người ta
có thể đo lường rủi ro dựa trên tỷ lệ với một bên là mức độ chắc chắn xảy ra với
một bên còn lại là mức độ chắc chắn không xảy ra. Khi xác xuất mức độ chắc chắn
xảy ra hoặc không xảy ra bằng nhau, rủi ro là lớn nhất.

Trang 4


1.1.2 Phân loại rủi ro
1.1.2.1 Phân loại theo phương pháp quản trị rủi ro truyền thống
Theo phương pháp phân loại rủi ro truyền thống, có các loại rủi ro như sau:
• Rủi ro thảm họa: Các thảm họa thiên nhiên, thảm họa do con người hoặc
có sự tác động gián tiếp của con người (hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố,…)
• Rủi ro tài chính: các khoản nợ xấu, tỷ giá hối đoái, cổ phiếu hay lãi
suất biến động,…
Rủi ro tài chính là rủi ro phát sinh từ độ nhạy cảm của các nhân tố giá cả thị
trường như lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa, chứng khoán và những rủi ro doanh
nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính – sử dụng nguồn vốn vay trong kinh doanh, tác
động đến thu nhập của doanh nghiệp.
• Rủi ro lãi suất: Trong hoạt động kinh doanh, hầu như các doanh nghiệp
phải sử dụng vốn vay. Khi lập kế hoạch kinh doanh, tuy lãi suất tiền vay đã được dự
tính, song có rất nhiều yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp tác động
đến lãi suất tiền vay. Chẳng hạn, khi lạm phát xảy ra, lãi suất tiền vay tăng đột biến,
những dự tính và tính toán trong kế hoạch kinh doanh ban đầu bị đảo lộn. Tùy thuộc
vào lượng tiền vay của doanh nghiệp, mức độ tác động tiêu cực của rủi ro lãi suất
cũng sẽ khác nhau.

• Rủi ro tỷ giá: Rủi ro tỷ giá là sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ mà doanh nghiệp
không thể dự báo trước. Trong trường hợp các giao dịch của doanh nghiệp thực
hiện trên cơ sở tỷ giá ngoại tệ mà hành hóa đã được định giá trước, khi tỷ giá có sự
biến động có thể tạo ra rủi ro dẫn đến thua lỗ. Tùy theo quy mô sử dụng ngoại tệ,
doanh nghiệp có thể chịu rủi ro tỷ giá nhiều hay ít.
• Rủi ro biến động giá cả hàng hóa: Đối với các doanh nghiệp có các
giao dịch mua bán hàng hóa theo hợp đồng cố định giá trong một thời gian dài,
rủi ro biến động giá cả hàng hóa có thể sẽ là một rủi ro lớn. Đặc biệt trong trường
hợp nền kinh tế có lạm phát cao, giá cả hàng hóa thay đổi hàng ngày. Đối với đa
số doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm đầu ra thường được ký hợp đồng theo đơn
hàng trước khi sản xuất, khi giá cả biến động, nguyên vật liệu đầu vào tăng,

Trang 5


nhưng giá bán sản phẩm đã cố định từ trước, sẽ chịu nguy cơ rủi ro thua lỗ do chi
phi, giá thành bị đội lên quá cao.
• Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là tính không chắc chắn và tiềm ẩn về
khoản lỗ do không có khả năng thanh toán của bên đối tác. Rủi ro tín dụng có thể vì
nguyên nhân các đối tác không thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý, chẳng hạn
như lẽ ra phải thanh toán tiền mua hàng, nhưng lại không thanh toán đúng hạn, hoặc
thanh toán không đầy đủ, hoặc thậm chí từ chối thanh toán vì nhiều lý do. Ở
nước ta, do đặc điểm của nền kinh tế đang chuyển đổi, nhiều doanh nghiệp chưa đạt
được sự ổn định trong tăng trưởng, phát triển chưa thực sự bền vững, càng làm
gia tăng rủi ro tín dụng. Mặt khác, tỷ lệ lạm phát cao cũng góp phần làm gia tăng
rủi ro tín dụng.
• Rủi ro năng lực kinh doanh: Rủi ro năng lực kinh doanh là những rủi ro
xảy ra do sự thiếu hiểu biết về các kỹ năng giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp.
Rủi ro này phần lớn thuộc về những yếu tố chủ quan trong nội bộ doanh nghiệp.
Các nhân tố có thể dẫn đến rủi ro này có thể kể đến như:

− Thiếu kỹ năng doanh nhân. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, trong khi mô hình hoạt
động, kỹ năng quản trị của doanh nghiệp chưa hoàn toàn thích ứng với yêu cầu của
nền kinh tế thị trường. Hầu hết các hoạt dộng quản lý doanh nghiệp, tổ chức điều
hành, công tác kế hoạch, marketing, kế toán, kỹ năng động viên,… đều chưa đạt
đến trình độ chuyên nghiệp. Tác phong công nghiệp của lao động nước ta còn
thấp, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nền sản suất công nghiệp hiện đại.
Điều này tạo nên nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động và hội nhập kinh tế quốc tế
của doanh nghiêp.
− Sự hiểu biết nghèo nàn về tính năng động của thị trường. Hiểu biết tính
năng động của thị trường là nhân tố chủ yếu để khởi đầu một hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên các nhà quản trị của doanh nghiệp nước ta nói chung còn chưa
có nhiều kỹ năng quản trị thông tin và kiến thức về kinh doanh, thiếu năng lực để
nhận biết các cơ hội và rủi ro để từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn. Nhiều
quyết định đầu tư được đưa ra dựa theo sự thành công của doanh nghiệp đang có

Trang 6


những hoạt động kinh doanh tương tự, nhưng rõ ràng thành công của doanh nghiệp
này không phải là sự đảm bảo thành công của những doanh nghiệp khác trong
cùng lĩnh vực hoạt động. Đây là một rủi ro lớn với các nhà quản trị và doanh
nghiệp.

− Sự thiếu hiểu biết về cách thức chuẩn bị kế hoạch kinh doanh. Kế hoạch

kinh doanh là vấn đề có tính quan trọng cơ bản đối với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Một kế hoạch kinh doanh tốt sẽ giúp chính bản thân chủ doanh
nghiệp hiểu rõ hơn về công việc của mình, đồng thời có thể nhận được sự trợ giúp
tín dụng và bắt đầu cho một dự án đầu tư. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp được

thành lâọ nhưng không có sự chuânt bị một kế hoạch kinh doanh đầy đủ và cụ thể.
− Thiếu thông tin về thị trường. Nhiều doanh nghiệp nước ta còn non trẻ
về tuổi đời và kinh nghiệm trên thị trường, gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm
và tiếp cận các cơ hội trên thị trường. Mặc dù chính phủ đã có một số biện pháp
để khuyến khích và hỗ trợ ra đời một số tổ chức dịch vụ tư vấn và cung cấp thông
tin doanh nghiệp, nhưng hoạt động của các tổ chức này còn hạn chế và dẫn đến
chưa giúp được nhiều doanh nghiệp trong việc giảm thiểu rủi ro do thiếu hụt thông
tin.

• Rủi ro tác nghiệp: trang thiết bị, hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất

hư hỏng, chuỗi cung ứng hoặc quy trình sản xuất lỗi, bị gián đoạn, công nhân
viên bị tai nạn sản xuất,…
• Rủi ro chiến lược: Chiến lược và quản trị chiến lược quyết định sự sống
còn, hưng thịnh hay suy vong của một tổ chức, do vậy quản trị chiến lược cũng
đồng nghĩa với quản trị rủi ro chiến lược.
Các loại rủi ro chiến lược gồm có:
− Rủi ro dự án (dự án chậm tiến độ, phát sinh chi phí, thất bại)
− Rủi ro từ khách hàng (mất khách hàng, mất thị trường, thị phần)
− Rủi ro từ đối thủ cạnh tranh (xuất hiện đối thủ không thể đánh bại)
− Rủi ro thương hiệu (thương hiệu bị mất giá trị)
− Rủi ro ngành (ngành kinh doanh trở thành vùng phi lợi nhuận)
− Rủi ro đình trệ (doanh nghiệp không tăng trưởng, suy thoái)
1.1.2.2 Phân loại rủi ro theo nguồn gốc rủi ro
Theo nguồn gốc rủi ro, gồm có các loại rủi ro chính như sau:

Trang 7


• Rủi ro do môi trường thiên nhiên: bão lụt, sóng thần, cháy rừng, động

đất,…gây ra các thiệt hại lớn về người và của, làm cho doanh nghiệp, đặc biệt các
doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu bị tổn thất nặng nề.
• Rủi ro do môi trường văn hóa: do sự thiếu hiểu biết về phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, lối sống,… của dân tộc, cộng đồng khác từ đó gây ra các hành xử không
phù hợp gây thiệt hại mất mát về khách hàng, thị phần, mất cơ hội kinh doanh.
Các rủi ro văn hóa đến từ hàng loạt những điều không nhất quán, thiếu hòa
hợp trong mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
với các yếu tố khác như: các giá trị, chuẩn mực văn hóa, đạo đức, các thói quen,
niềm tin và thái độ của cộng đồng, của một vùng hoặc của một quốc gia, khu vực.
• Rủi ro do môi trường xã hội: sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của
con người, cấu trúc xã hội, các định chế,.. cũng có thể gây ra các thiệt hại nặng nề
cho doanh nghiệp nếu không biết và không có sự chuẩn bị từ trước.
• Rủi ro do môi trường chính trị: Môi trường chính trị có ảnh hưởng rất lớn
đến bầu không khí kinh doanh, môi trường kinh doanh. Môi trường chính trị ổn
định sẽ giảm thiểu được rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các
công ty, tập đoàn đa quốc gia việc nắm bắt kỹ, có các chính sách thích hợp với môi
trường chính trị của nước mà doanh nghiệp đến đầu tư kinh doanh là rất quan trọng,
ảnh hưởng lớn đến thành công của doanh nghiệp tại nước sở tại.
• Rủi ro do môi trường luật pháp: Một xã hội tiến bộ và phát triển trong khi
các chế định luật pháp không thay đổi phù hợp kịp thời sẽ gây ra nhiều rủi ro.
Ngược lại, nếu luật pháp thay đổi quá nhiều, thường xuyên, chính sách
không ổn định cũng gây ra nhiều khó khăn, rủi ro cho hoạt động kinh doanh, đặc
biệt là các doanh nghiệp thiếu kiến thức về pháp luật.
Rủi ro thuộc loại này có thể là do một chính sách nào đó của chính phủ tác
động làm khan hiếm nguồn tài chính, gây khó khăn cho doanh nghiệp tiến cận công
nghệ và đầu tư. Chính sách của chính phủ đôi khi gây nên sự bất bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế hoặc bất bình đẳng giữa các khối ngành khác nhau, tạo nên sự
bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Nhiều khi các tập đoang kinh tế lớn thường

Trang 8



tìm cách gây ảnh hưởng lên chính phủ để ban hành chính sách có lợi cho mình và
gây rủi ro bất lợi cho các doanh nghiệp khác.
Tình trạng tham nhũng, nhũng nhiễu của các cơ quan quản lý nhà nước, các
hoạt động kinh tế ngầm, buôn lậu,… không được ngăn chặn hiệu quả cũng tạo nên
các rủi ro cho các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường kinh tế đó.
Trong môi trường kinh doanh quốc tế da dạng, môi trường luật pháp, chuẩn
mực các nước không giống nhau, nếu chỉ nắm rõ luật pháp nước mình mà không
nắm rõ luật pháp của đối tác thì khi hợp tác kinh doanh sẽ gặp rủi ro.
• Rủi ro do môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế thường vận động theo và
bị ảnh hưởng bởi môi trường chính trị. Các ảnh hưởng của môi trường địa-chính trị
đến môi trường kinh tế thế giới cũng như môi trường kinh tế của các quốc gia là rất
lớn.
Các biến động suy thoái kinh tế, cơ sở hạ tầng yếu kém (giao thông, viễn
thông, điện, nước,…) dẫn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng lên. Tình
trạng cắt điện thường xuyên hay ùn tắc giao thông cũng gây đến các rủi ro do đổ vỡ
các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã dự trù từ trước.
Nền kinh tế thiếu minh bạch thông tin, còn nhiều bất bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, nhất là trong các chính sách về đất đai, mặt bằng sản xuất, tiếp
cận vốn vay cũng đặt các doanh nghiệp vào những rủi ro trong hoạt động của mình.
Các động thái, chính sách của các nước lớn có thể ảnh hưởng sâu sắc đến thị
trường thế giới, nhưng luôn tiềm ẩn những vấn đề không thể kiểm soát nổi, nhất là
trên quy mô toàn cầu, dẫn đến rủi ro bất ổn môi trường kinh tế.
• Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức: Rủi ro có thể phát sinh ở mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, mọi hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp
như: nhân sự, công nghệ, tài chính,…
Rủi ro trong môi trường hoạt động của tổ chức có thể xuất hiện dưới nhiều dạng:
thiếu thông tin, sự cố của máy móc, tai nạn lao động, hoạt động quảng cáo sai sót,…
đối với các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có yếu tố


Trang 9


đầu tư nước ngoài rủi ro còn có thể xuất hiện trong mọi khâu của quá trình đám
phán ký kết thực hiện các giao dịch ngoại thương.
• Rủi ro do nhận thức của con người: Nhận thức của con người luôn có
giới hạn và hạn chế nhất định. Khi nhận diện và phân tích không đúng vấn đề có
thể đưa đến kết luận sai lầm. Nếu nhận thức và thực tế hoàn toàn khác nhau thì
rủi ro càng lớn.
1.1.2.3 Phân loại rủi ro theo đối tượng rủi ro
Theo đối tượng rủi ro có các loại rủi ro như sau:
• Rủi ro về tài sản
• Rủi ro về nhân lực
• Rủi ro về trách nhiệm
1.1.2.4 Phân loại rủi ro theo các ngành, lĩnh vực hoạt động
Theo các ngành, lĩnh vực hoạt động có thể kể đến các loại rủi ro như:












Rủi ro trong công nghiệp

Rủi ro trong nông nghiệp
Rủi ro trong kinh doanh thương mại
Rủi ro trong hoạt động ngoại thương
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong kinh doanh du lịch
Rủi ro trong lĩnh vực đầu tư
Rủi ro trong ngành xây dựng
Rủi ro trong hoạt động vận tải
Rủi ro trong ngành giáo dục- đào tạo
Rủi ro trong lĩnh vực công nghệ cao,…

1.1.2.5 Phân loại rủi ro theo môi trường hoạt động.
Theo môi trường hoạt động có thể phân loại rủi ro như sau:
− Rủi ro do môi trường bên trong: Là rủi ro mang lại do các vấn đề nội
tại bên trong doanh nghiệp. Theo đó có thể tiếp cận nghiên cứu rủi ro theo hướng:
 Rủi ro theo từng lĩnh vực hoạt động của tổ chức: quản trị,
marketing, tài chính – kế toán, sản xuất – tác nghiệp, nghiên cứu phát triển,…
 Rủi ro theo bộ phần phòng ban: Hành chính nhân sự, dự án, …

Trang 10


− Rủi ro do môi trường bên ngoài: là những yếu tố bên ngoài, doanh nghiệp
không kiểm soát được, nhưng có ảnh hưởng và tác động đến hoạt động và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với rủi ro do môi trường bên ngoài, cần phải xác định được các yếu tố
rủi ro đến từ môi trường vĩ mô, môi trường vi mô và đặc biệt ngày nay cần chú
trọng đến môi trường thế giới.
1.1.3 Rủi ro và hoạt động của doanh nghiệp
Trong hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro, tỷ suất sinh lợi và quyết định đầu

tư là bộ ba các tham số quan trọng, là thước đo của thành quả đầu tư. Tỷ suất sinh
lợi đại diện cho tỷ lệ phần trăm gia tăng trong tài sản của nhà đầu tư từ kết quả đầu
tư. Khi đầu tư, các nhà đầu tư đều muốn hoạt động đầu tư của mình có tỷ suất sinh
lợi cao nhất có thể.
Trong kinh doanh, rủi ro là bạn đồng hành của tỷ suất sinh lợi. Rủi ro là sự
không chắc chắn của tỷ suất sinh lợi trong tương lai. Rủi ro và tỷ suất sinh lợi có
mối quan hệ cùng chiều mà người ta thường gọi là sự đánh đổi giữa rủi ro và tỷ suất
sinh lợi. Tỷ suất sinh lợi mà người t among đợi nhận được khi quyết định đầu tư
được gọi là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng. Người đầu tư có lý trí chỉ quyết định đầu tư khi
tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn mức rủi ro có thể.
Rủi ro, tỷ suất sinh lợi và quyết định đầu tư có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau. Có thể ví quyết định đầu tư như một cỗ xe, trong đó tỷ suất sinh lợi là
động cơ còn rủi ro là bộ phanh để hãm lại. Nếu cỗ xe mà không có phanh thì khi
xảy ra tai nạn sẽ vô cùng nghiêm trọng. Và như vậy, xét trong một chừng mực nào
đó, rủi ro cũng có tác dụng hữu ích đối với nhà đầu tư, nó cảnh tỉnh nhà đầu tư cần
tỉnh táo và sáng suốt khi đưa ra quyết định đầu tư.
Rủi ro nói chung thường dẫn đến kết quả là có sự thiệt hại về tài chính ở mức
độ khác nhau đối với doanh nghiệp. Khi gặp rủi ro, tùy theo quy mô và mức độ,
doanh nghiệp sẽ bị sụt giảm giá trị tài sản, dẩn đến tổn thất phần lớn vôn skinh
doanh hoặc mất hoàn toàn vốn. Khi đó doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khánh

Trang 11


kiệt về tài chính. Việc khắc phục được tình trạng này đối với các doanh nghiêp là
hết sức khó khăn và tổn thất là rất lớn.
Trên thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp do gặp phải rủi ro quá lớn và không
có biện pháp quản trị rủi ro hiệu quả đã dẫn đến phá sản. Vì vậy quản trị rủi ro là
việc làm rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp.
1.2 TỔNGQUAVỀẢRỊỦIO

1.2.1 Khái niệm chung
Mọi doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu tạo ra lợi thế cạnh tranh
và đem lại giá trị tăng thêm cho những đối tác bên trong và bên ngoài của doanh
nghiệp gắn kết chặt chẽ với hoạt động của mình. Để có thể đạt được mục tiêu đó,
doanh nghiệp thường xây dựng cho mình chiến lược hoạt động cùng hàng loạt
những chương trình, kế hoạch để thực thi những chiến lược đã được đề ra. Trong
quá trình thực thi chiến lược sẽ thường có nhiều rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng đến
quá trình tiến tới mục tiêu của doanh nghiệp. Hệ thống quản lý rủi ro doanh nghiệp
được thiết lập nhằm san lấp những khiếm khuyết này.
COSO (The Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway
Commission - là một Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia Hoa kỳ về chống gian lận
khi lập báo cáo tài chính) định nghĩa quản trị rủi ro doanh nghiệp “là một quy trình
được thiết lập bởi hội đồng quản trị, ban quản lý và các cán bộ có liên quan khác
áp dụng trong quá trình xây dựng chiến lược doanh nghiệp thực hiện xác định
những sự vụ có khả năng xảy ra gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp đồng thời quản
lý rủi ro trong phạm vi cho phép nhằm đưa ra mức độ đảm bảo trong việc đạt được
mục tiêu của doanh nghiệp”. Trong khi đó, rủi ro được định nghĩa là tập hợp của
các khả năng có thể xảy ra của một sự việc nào đó cũng như hậu quả của nó.
Quản lý rủi ro doanh nghiệp ngày nay được coi như là một bộ phận không
thể tách rời với chiến lược doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là chiến lược của doanh
nghiệp sẽ được xem là không đầy đủ nếu thiếu vắng sự gắn kết với quản lý rủi ro.
Một doanh nghiệp da giầy nào đó chẳng hạn bất ngờ phải đối mặt với một vụ kiện
chống bán phá giá dẫn tới những thua thiệt trong việc nhận đơn hàng. Nhân công

Trang 12


của một nhà máy nào đó bất ngờ đình công làm ngưng trệ sản xuất. Hàng loạt nhân
viên giỏi của một công ty nào đó ra đi để chuyển sang doanh nghiệp khác hoặc
thành lập công ty riêng .v.v. Những rủi ro đó sẽ làm cho doanh nghiệp bị bất ngờ và

dẫn đến thiệt hại ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh nghiệp nếu như chúng không
được doanh nghiệp lường trước. Tất cả những vấn đề đó đều được thiết kế và soi rọi
trong lăng kính của quản lý rủi ro doanh nghiệp.
Quản trị rủi ro theo nghĩa rộng cung cấp cho doanh nghiệp một biện pháp đẻ
phát huy, sử dụng năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho sự biến
động của thị trường hơn là chờ đợi sự biến động rồi mới tìm cách đối phó lại.
Mục tiêu cảu quản trị rủi ro không phải là ngăn cấm, mà là biết tiếp nhận và
chấp nhận rủi ro một cách chủ động, có kiến thức đầy đủ và hiểu biết rõ ràng để có
thể đo lường và giúp giảm nhẹ rủi ro. Quản trị rủi ro có nghĩa là tất cả các chi tiết
rủi ro cần phải được vận hành trong phạm vi chấp nhận được, có giới hạn và chịu sự
kiểm soát.
Quản trị rủi ro là sự vận hành chương trình mà có thể hoàn thiện hoạt động,
quản lý được các nguồn lực quan trọng, đảm bảo sự tuân thủ các quy định, đạt được
mục tiêu duy trì sự cân bằng tài chính và cuối cùng là ngăn chặn sự mất mát, thiệt
hại cho doanh nghiệp. Quản trị rủi ro là một hành động chủ động trong hiện tại để
bảo vệ kết quả ở thì tương lai.
Có nhiều loại rủi ro khác nhau được xâm nhập từ bên ngoài doanh nghiệp
cũng như phát sinh bên trong doanh nghiệp. Rủi ro thường được phân loại vào
những nhóm chính như rủi ro chiến lược, rủi ro hoạt động, rủi ro tài chính, rủi ro
quản lý tri thức và rủi ro tuân thủ.
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có
hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất
mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro đồng thời tìm cách biến rủi ro thành những
cơ hội thành công.
Quản trị rủi ro là phần trung tâm trong quản trị chiến lược của các tổ chức.
Đó là quá trình mà ở đó các tổ chức, một cách có phương pháp, nhận thức các rủi ro

Trang 13



gắn với hoạt động của họ, với mục tiêu đạt được lợi ích bền vững trong từng hoạt
động và xuyên suốt quá trình vận hành của tất cả các hoạt động.
Trọng tâm của một quản trị rủi ro tốt là phải nhận diện và ứng phó với các rủi
ro đó. Mục đích của việc này là tối đa hóa giá trị bền vững trong tất cả hoạt động của
tổ chức.Bằng cách nhận thức được các yếu tố tiềm ẩn tích cực và tiêu cực có thể ảnh
hưởng đến tổ chức, qua đó tăng khả năng thành công và giảm thiểu khả năng thất bại
cũng như giảm thiểu sự không chắc chắn về việc đạt được các mục tiêu tổng thể.
Quản trị rủi ro cần được xem là một hoạt động liên tục, xuyên suốt trong
hoạt động chiến lược củacác tổ chức. Nó cần nhận thức được một cách có phương
pháp tất cả những rủi ro có thể xảy đến với hoạt động của tổ chức trong quá khứ,
hiện tại và đặc biệt là trong tương lai.
Việc này cần phải được tích hợp vào trong văn hóa của tổ chức cùng với một
chính sách và chương trình hành động hiệu quả được lãnh đạo bởi cấp quản lý cao
nhất. Các mục tiêu cần phải được diễn giải đến từng cấp độ chiến lược, chiến thuật
và hoạt động, gán định trách nhiệm xuyên suốt trong toàn bộ tổ chức đối với các
cấp quản lý và nhân viên, trong đó coi quản trị rủi ro cũng chính là phần việc trong
phạm vi trách nhiệm công việc của từng người. Việc này hỗ trợ cho công tác quản
lý, đo lường đánh giá hoạt động và khen thưởng, đồng thời thúc đẩy hiệu quả hoạt
động của tổ chức ở mọi cấp công tác.
Quản lý rủi ro doanh nghiệp có mục đích hoạt động là bảo vệ và đóng góp
những giá trị tăng thêm cho doanh nghiệp và các đối tác liên quan của doanh nghiệp
hỗ trợ doanh nghiệp đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua những nội dung cơ bản
sau thể hiện tác dụng của quản lý rủi ro doanh nghiệp:
• Xây dựng khuôn khổ nhằm giúp doanh nghiệp thực hiện kế hoạch tương
lai có tính nhất quán và có thể kiểm soát;
• Tăng cường năng lực trong việc ra quyết định, lập kế hoạch và sắp xếp thứ
tự ưu tiên công việc trên cơ sở hiểu biết thấu đáo và chặt chẽ về hoạt động kinh
doanh, môi trường kinh doanh, cơ hội và thách thức của doanh nghiệp;

Trang 14



• Góp phần phân bổ và sử dụng hiệu quả những nguồn lực trong doanh
nghiệp;





Giảm thiểu những sai sót trong mọi khía cạnh của doanh nghiệp;
Bảo vệ và tăng cường tài sản cũng như hình ảnh doanh nghiệp;
Phát triển và hỗ trợ nguồn nhân lực và nền tảng tri thức của doanh nghiệp;
Tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.

Chính sách quản lý rủi ro được xây dựng trong đó xác định phương pháp tiếp
cận đối với rủi ro và quản lý rủi ro. Đồng thời chính sách quản lý rủi ro cũng nêu rõ
trách nhiệm trong việc quản lý rủi ro trong toàn bộ doanh nghiệp.
Hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm xác định định hướng chiến lược
và cơ cấu cho chức năng quản lý rủi ro doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động hiệu
quả nhất. Các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp có trách nhiệm trước hết trong
việc quản lý rủi ro hàng ngày, gắn kết việc nhận thức và tuyên truyền về quản lý rủi
ro trong bộ phận mình công tác. Kiểm toán nội bộ là người đảm bảo rằng công tác
quản lý rủi ro được thực thi có hiệu quả thông qua việc đánh giá theo chương trình,
kế hoạch của kiểm toán nội bộ.
Tùy thuộc quy mô của doanh nghiệp có thể thiết lập một bộ phận chuyên
trách đảm nhiệm chức năng quản lý rủi ro trong doanh nghiệp. Nhìn chung, nhiệm
vụ của bộ phận này cần phải thực hiện bao gồm:
• Xây dựng chính sách và chiến lược quản lý rủi ro trong doanh nghiệp;
• Thiết kế định hướng quản lý rủi ro ở cấp độ chiến lược và chức năng;
• Xây dựng văn hóa nhận thức về rủi ro trong doanh nghiệp trong đó có việc

đào tạo về quản lý rủi ro trong doanh nghiệp;
• Xây dựng chính sách và tổ chức quản lý rủi ro nội bộ đối với các bộ phận
chức năng trong doanh nghiệp;
• Thiết kế và rà soát quy trình quản lý rủi ro;
• Điều phối các hoạt động chức năng khác nhau có liên quan đến vấn đề
quản lý rủi ro trong doanh nghiệp;
• Xây dựng các quy trình ứng phó với rủi ro trong đó có các chương trình dự
phòng và duy trì hoạt động kinh doanh thường xuyên;
• Chuẩn bị báo cáo về quản lý rủi ro đệ trình hội đồng quản trị và các đối tác
liên quan của doanh nghiệp.

Trang 15


Quy trình quản lý rủi ro được thiết kế mang tính đồng bộ và có sự gắn kết
với việc xây dựng và thực thi chiến lược của doanh nghiệp. Về cơ bản, quy trình
quản lý rủi ro cần chứa đựng những giai đoạn hay bước công việc cơ bản như xác
định rủi ro, mô tả rủi ro, lượng hóa rủi ro, phân tích rủi ro, xếp hạng rủi ro, đánh
giá rủi ro, lập báo cáo về rủi ro, xử lý rủi ro, theo dõi và rà soát quy trình trình
quản lý rủi ro.
Kèm theo quy trình quản lý rủi ro là hệ thống những phương pháp luận và
công cụ phục vụ công tác quản lý rủi ro đồng bộ được thiết kế cho các công đoạn
khác nhau của quy trình kinh doanh. Để thực thi quy trình quản lý rủi ro một cách
hiệu quả cần tranh thủ sự ủng hộ và cam kế tủng hộ của lãnh đạo doanh nghiệp,
phân công trách nhiệm rõ ràng cũng như phân bổ nguồn lực phù hợp, đào tạo và
tuyên truyền về quản lý rủi ro cho mọi đối tượng liên quan
Việc quản trị rủi ro, do vậy, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, có thể kể đến các
yêu tố chủ yếu như:






Quy mô của tổ chức (lớn hay nhỏ)
Tiềm lực của tổ chức (mạnh hay yếu)
Môi trường hoạt động của tổ chức (đơn giản hay phức tạp)
Nhận thức của lãnh đạo (chú trọng hay không chú trọng quản trị rủi ro)

Các nội dung chính của khái niệm quản trị rủi ro gồm có:





Nhận dạng – phân tích – đo lường rủi ro
Kiểm soát – phòng ngừa rủi ro
Tài trợ rủi ro khi nó xuất hiện
Tìm cách biến rủi ro thành cơ hội thành công

1.2.2 Mục tiêu, động cơ và lợi ích của quản trị rủi ro
1.2.2.1 Mục tiêu của quản trị rủi ro
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của quản trị rủi ro là phải kiểm soát
được rủi ro. Đối với một quyết định đầu tư hay giao dịch kinh doanh cụ thể, có
nhiều rủi ro tiềm tang cùng đe dọa xảy ra. Các rủi ro này có thể xảy ra nhưng cũng
có thể không xảy ra, tác động của chúng có thể dao động từ rất lớn đến rất nhỏ.
Chúng có thể chỉ là đe dọa, nhưng cũng có thể làm doanh nghiệp bị tổn thất nặng

Trang 16



nề. Do vậy, vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là làm thế nào để kiểm soát được rủi ro,
giới hạn tác động của nó trong phạm vi cho phép, chấp nhận được.
Mục tiêu thứ hai của quản trị rủi ro là phải biến rủi ro thành lợi thế kinh
doanh, cơ hội để thành công. Rủi ro không hoàn toàn chỉ có nghĩa là thua lỗ hoặc
thất bại mà rủi ro cũng có thể tạo ra cơ hội để kiếm được lợi nhuận. Do vậy mục
tiêu quan trọng đặt ra đối với quản trị rủi ro là cần phải giúp doanh nghiệp nhận
thức đúng thực trạng rủi ro và khả năng chuyển đổi rủi ro thành lợi thế. Trên cơ sở
nhận thức này, doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng các nguồn lực để biến các rủi ro
thành lợi thế, cơ hội thành công.
Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng lực, chủ động
trong việc xây dựng các dự án đầu tư phù hợp với năng lực của mình và chủ động
phòng ngừa rủi ro ngay từ khi bắt đầu triển khai kế hoạch kinh doanh. Doanh
nghiệp cần xây dựng các kịch bản, từ xấu nhất đến tốt nhất để luôn giữ được khả
năng chủ động ứng phó trong mọi trường hợp rủi ro có thể xảy ra.
1.2.2.2 Động cơ của quản trị rủi ro
Lý do chính, động cơ để doanh nghiệp tiến hành quản trị rủi ro là những
quan ngại liên quan đến độ bất ổn của các yếu tố trên thị trường như: lãi suất, tỷ giá,
giá cả hàng hóa, sự điều chỉnh thay đổi của chính sách pháp luật, những khó
khăn không lường trước được của môi trường kinh doanh.
Những bài học thất bại của các doanh nghiệp khác khi không quan tâm đến
quản trị rủi ro cũng góp phần khuyến khích doanh nghiệp cần phải chú trọng
hơn đến vấn đề này. Nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập đầy đủ vào thị
trường thế giới, các quan hệ giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa
dạng và phức tạp hơn. Cơ hội kiếm lợi nhuận có nhiều hơn nhưng rủi ro cũng nhiều
hơn. Những điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chú trọng hơn nữa đến đầu tư
nguồn lực cho quản trị rủi ro.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế, các sản phẩm phái sinh cũng bắt đầu
được giới thiệu và xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Chính sự ra đời của những
sản phẩm này cũng tạo nên một tác động tâm lý to lớn về yêu cầu phòng ngừa rủi ro


Trang 17


trong các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp liên
doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.2.3 Lợi ích của quản trị rủi ro
Quản trị rủi ro giúp các công ty giảm thuế, giảm chi phí phá sản, tránh rơi
vào tình trạng phá sản.
Quản trị rủi ro đảm bảo cho doanh nghiệp một trạng thái an toàn trong hoạt
động, tăng sự tin cậy, tập trung cho hoạt động kinh doanh, ra quyết định đúng đắn,
tránh các quyết định sai lầm. Trong một số trường hợp có thể biến rủi ro thành lợi
thế để tìm kiếm lợi nhuận.
Một doanh nghiệp có chương trình quản trị rủi ro hiệu quả sẽ hoạt động ổn
định, được các đối tác và các tổ chức tài trợ vốn tin cậy, giảm rủi ro tín dụng, từ đó
giảm chi phí đi vay.
Quản trị rủi ro có hiệu quả giúp doanh nghiệp tránh được những trường hợp
vướng vào các tranh chấp, kiện tụng pháp lý, nhờ vậy làm tăng tính đảm bảo pháp
lý và uy tín trong kinh doanh.
1.2.3 Nội dung của quản trị rủi ro
1.2.3.1 Nhận dạng – Phân tích – Đo lường rủi ro
1.2.3.1.1 Nhận dạng rủi ro
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro hoạt
động kinh doanh của tổ chức.
Cần xác định được:
• Nguồn gốc của rủi ro
• Đối tượng rủi ro
• Tổn thất
Như vậy, việc nhận dạng rủi ro được tiến hành qua quá trình theo dõi và
nghiên cứu, từ đó đưa ra được thống kê rủi ro, đi đến dự báo và đề xuất các biện
pháp và giải pháp.

Các phương pháp nhận dạng rủi ro:
• Lập bảng câu hỏi: Dựa vào bảng câu hỏi để nhận dạng rủi ro.
− Gặp phải các loại rủi ro nào?

Trang 18








Xác định mức độ tổn thất (bao nhiêu?)
Tần suất xuất hiện rủi ro trong một khoảng thời gian nhất định?
Biện pháp phòng ngừa, tài trợ rủi ro?
Kết quả đạt được?
Rủi ro chưa xuất hiện nhưng có thể xuất hiện không? Lý do là gì?

Từ đó đánh giá, đề xuất công tác quản trị rủi ro.
• Phân tích báo cáo tài chính: Phân tích bảng tổng kết tài sản, báo cáo hoạt
động sản xuất kinh doanh, các tài liệu bổ trợ khác để có thể xác định được mọi nguy
cơ rủi ro của tổ chức về tài sản, nguồn nhân lực và trách nhiệm pháp lý.
• Phương pháp lưu đồ: Đây là một phương pháp quan trọng để nhận dạng
rủi ro. Để thực hiện phương pháp này cần xây dựng lưu đồ trình bày tất cả các
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Một quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể được mô tả ngắn
gọn theo lưu đồ hình 1.1 dưới đây:

ĐẦU VÀO


HỘP
Đ E N (QUÁ
TRÌNH XỬ
LÝ)

ĐẦU RA

Hình 1-1:Lưu đồ quy trình sản xuất kinh doanh
• Phương pháp thanh tra hiện trường nghiên cứu tại chỗ: Xuất phát từ quá
trình quan sát, theo dõi trực tiếp các hoạt động, từ đó tiến hành phân tích, đánh giá,
đi đến nhận dạng rủi ro và đề ra các biện pháp quản trị.
• Phương pháp phân tích hợp đồng: Đối với các trường hợp nghiên cứu
cụ thể, có thể tiến hành nhận diện rủi ro qua phương pháp phân tích hợp đồng.
Việc phân tích hợp đồng cần xem xét một cách toàn diện và chi tiết đối với các

Trang 19


điều, khoản , mục quy định trách nhiệm, quyền hạn và các ràng buộc giữa các bên
tham gia ký kết hợp đồng, thể hiện trong văn bản hợp đồng, các phụ lục kèm theo.
• Tên hàng hóa (nội dung hợp đồng)
• Quy định về phẩm chất hàng hóa
• Quy định về số lượng hàng hóa
• Quy định về giá cả
• Quy định về giao hàng
• Quy định về thanh toán
• Quy định về bao bì, ký mã hiệu
• Quy định về bảo hành
• Quy định về điều khoản phạt

• Quy định về bảo hiểm
• Quy định về bất khả kháng
• Quy định về khiếu nại
• Quy định về trọng tài
• Các quy định, điều khoản khác
1.2.3.1.2 Phân tích rủi ro
Quá trình phân tích rủi ro là một quá trình quan trọng sau khi đã có sự nhận
dạng rủi ro, nhằm tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến rủi ro và từ
đó đề ra các biện pháp phòng ngừa.

Hình 1-2: : Phân tích rủi ro.
Nguồn rủi ro có thể phân làm hai loại, đó là nguồn rủi ro vi mô và nguồn rủi
ro vĩ mô.

Trang 20


Nguồn rủi ro vi mô, hay còn gọi là nguồn rủi ro từ bên trong, là những nguồn
đến từ nội tại của doanh nghiệp mà ban quản lý có thể tác động để thay đổi.
Nguồn rủi ro vĩ mô, hay còn gọi là nguồn rủi ro từ bên ngoài, là những nguồn
đến từ môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp không có khả năng tác động tới.
Đối với các nguồn rủi ro khác nhau, cần vận dụng các phương pháp phân tích
rủi ro khác nhau: phương pháp PEST cho vĩ mô và phương pháp SWOT cho vi mô.

Hình 1-3: Phương pháp PEST
Với phương pháp PEST đôi khi còn có thể mở rộng thêm thành SLEPT (thêm
yếu tố Legal (Luật pháp)) / SLEEPT (thêm yếu tố Environmental (môi trường)).

Trang 21



Hình 1-4: Phương pháp SWOT
1.2.3.1.3 Đo lường rủi ro
Đo lường rủi ro là một nội dung quan trọng nhằm đo lường mức rủi ro và
khả năng gây hại của các biến rủi ro đến hoạt động của doanh nghiệp.
Đánh giá khả năng có thể xảy ra và tác động của rủi ro để xác định quy mô
và độ ưu tiên.
Công cụ và kỹ thuật lượng tính về rủi ro có thể sử dụng:
• Ma trận xác suất/ Tác động.
Bảng 1-1: Ma trận xác suất/tác động
Tần suất xuất hiện
Mức độ

Cao

Thấp

Cao

I

II

Thấp

III

IV

Nghiêm trọng


• Kỹ thuật theo dõi các danh mục rủi ro hàng đầu.

Trang 22


Bảng 1-2: Kỹ thuật theo dõi các danh mục rủi ro hàng đầu
Mục rủi ro

Xếp hạng

Biện pháp giải quyết rủi ro

từng tháng
Lập kế hoạch không phù hợp

1

2

3

Xác định phạm vi kém

2

3

3


Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo

3

1

2

Ước tính chi phi chưa chính xác

4

4

3

Ước tính thời gian kém

5

5

3

Xem lại kế hoạch
Hợp với khách hàng/ đối tác
làm rõ hơn về phạm vi
Bổ nhiệm Quản lý dự án
mới thay thế
Xem lại ước tính chi phí

Xem lại ước tính thời gian,

lịch biểu.
• Phương pháp đánh giá của chuyên gia: Trong một số hoàn cảnh và điều

kiện, có thể dựa vào trực giác và kinh nghiệm của các chuyên gia để giúp trong việc
nhận biết xu thế của rủi ro. Các chuyên gia có thể phân loại rủi ro (cao, vừa, thấp)
từ đó có thể xây dựng các phương án xử lý tinh vi phức tạp hay đơn giản.
• Phương pháp đo lường rủi ro dùng cây quyết định: Cây quyết định là một
phương pháp dùng biểu đồ để xác định hành động tốt nhất trong các tình huống mà
ở đó kết quả tương lai là không chắc chắn. Ví dụ sau đây minh họa một cây quyết
định giúp tính toán giá trị tiền tệ kỳ vọng (EMV: Expected Money Value) của một
quyết định dựa trên xác suất sự kiện rủi ro và giá trị kỳ vọng tiền tệ:

Trang 23


Hình1- 5 : Phương pháp đo lường rủi ro dùng cây quyết định
• Phương pháp mô phỏng: Phương pháp này dùng mô hình của một hệ thống
để phân tích hành vi mong chờ hay hoạt động của hệ thống. Phương pháp Monte
Carlo mô phỏng kết quả của một mô hình nhiều lần để cung cấp một phân bố thống
kê của những kết quả đã tính toán.
1.2.3.2 Kiểm soát – phòng ngừa rủi ro
Kiểm soát là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược,
chương trình hành động,… để ngăn ngừa né tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất,
những ảnh hưởng không mong đợi có thể đến với tổ chức.
Có nhiều biện pháp để kiểm soát:
• Biện pháp né tránh rủi ro
− Chủ động né tránh từ trước khi rủi ro xảy ra
− Né tránh bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro

• Biện pháp phòng ngừa tổn thất
− Tập trung tác động vào chính mối nguy hiểm để ngăn ngừa tổn thất (ví dụ
có thể thực hiện mua bảo hiểm)
− Tập trung tác động vào môi trường rủi ro
− Chọn ngân hàng có uy tín để mở thư tín dụng (L/C)
− Mua bảo hiểm rủi ro

Trang 24


− Tập trung vào sự tương tác giữa mối nguy cơ và môi trường rủi ro, thông
qua các định chế trung gian, bên thứ ba để tiếp cận thị trường và tạo quan hệ tốt với
địa phương.
• Biện pháp giảm thiểu tổn thất
− Cứu vớt tài sản còn sử dụng được
− Chuyển nợ (ví dụ bồi thường bảo hiểm cho bên thứ ba)
− Xây dựng các kế hoạch phòng ngừa rủi ro
− Dự phòng
− Phân tán rủi ro
• Chuyển giao rủi ro
− Chuyển giao tài sản hoặc hoạt động có rủi ro đến cho người khác/ tổ chức
khác

− Ký hợp đồng với người khác/ tổ chức khác trong đó quy định chỉ chuyển

giao rủi ro, không chuyển giao tài sản cho người nhận rủi ro.
• Đa dạng hóa rủi ro: đa dạng thị trường, đa dạng tập khách hàng,…để
phòng chống rủi ro.
1.2.3.3 Tài trợ rủi ro
Đối với tài trợ rủi ro, có hai biện pháp tài trợ rủi ro:

• Tự khắc phục rủi ro: Tự mình thanh toán các tổn thất
• Chuyển giao rủi ro: Đối với các đối tượng, tài sản mua bảo hiểm thì khi
xảy ra tổn thất việc đầu tiên là khiếu nại đòi bồi thường. Ngoài ra việc chuyển
giao rủi ro cũng có thể thực hiện thông qua những hợp đồng cung cấp những
phương tiện để đền bù tổn thất xảy ra.
1.2.4 Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản trị rủi ro
1.2.4.1 Quy mô và hình thức tổ chức của doanh nghiệp
Rủi ro hiện diện trong mọi quyết định đầu tư hay giao dịch kinh doanh của
mọi doanh nghiệp, không phân biệt quy mô và loại hình. Nhưng mức độ ảnh hưởng
của rủi ro thì hết sức khác nhau giữa các doanh nghiệp, tùy thuộc vào quy mô, hình
thức tổ chức của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp lớn thường có bộ máy tổ chức đồng bộ, đội ngũ
chuyên gia chuyên nghiệp, chương trình quản lý rủi ro được đầu tư cao, cơ chế
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ,... đồng thời các doanh nghiệp này có đủ điều kiện để

Trang 25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×