Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Giao tiếp sư phạm phát triển tâm lý người học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.63 KB, 11 trang )

Từ nghiên cứu vai trò của hoạt động và giao tiếp chúng ta rút ra ý nghĩa cho bản thân
và giá trị thực tiễn gì để phát triển tâm lý người học trong quá trình dạy học?
Thuyết hành động <.
Do các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ) như L.X.Vugotxki, X.L Rubinstein, A.N
Leonchev cùng với nhiều nhà tâm lý của Đức, Pháp, Bungari sáng lập. Tâm lý học
hoạt động lấy Triết học Mác - Lênin làm cơ sở lý luận và phương pháp luận. Các nhà
Tâm lý học hoạt động cho rằng, tâm lý là sự phản ánh hiện thực khác quan vào não
người. Tâm lý người có cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội, được hình thành trong hoạt
động, giao tiếp và trong các mối quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang bản chất
xã hội và mang tính lịch sử, là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
Khái niệm: Hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới.
Hoạt động tạo nên mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với thế giới khách
quan và với chính bản thân mình, qua đó tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới (khách
thể), cả về phía con người (chủ thể).
**Vai trò của hoạt động.
Hoạt động đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý và nhân
cách cá nhân thông qua hai quá trình:
* Quá trình đối tượng hóa: chủ thể chuyển năng lực và phẩm chất tâm lý của mình
tạo thành sản phẩm. Từ đó, tâm lý người được bộc lộ, khách quan hóa trong quá trình
tạo ra sản phẩm, hay còn đươc gọi là quá trình xuất tâm.
Ví dụ: Khi thuyết trình một môn học nào đó thì người thuyết trình phải sử dụng kiến
thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm của mình về môn học đó để thuyết trình. Trong khi
thuyết trình thì mỗi người lại có tâm lý khác nhau: người thì rất tự tin, nói to, mạch
lạc, rõ ràng, logic; người thì run, lo sợ, nói nhỏ, không mạch lạc. Cho nên phụ thuộc
vào tâm lý của mỗi người mà bài thuyết trình đó sẽ đạt yêu cầu hay không đạt yêu
cầu.
* Quá trình chủ thể hóa: Thông qua các hoạt động đó, con người, tiếp thu lấy tri
thức, đúc rút được kinh nghiệm nhờ quá trình tác động vào đối tượng, hay còn được
gọi là quá trình nhập tâm.
Ví dụ: Sau lần thuyết trình lần đầu tiên thì cá nhân đó đã rút ra được rất nhiều kinh
nghiệm cho bản thân, và đã biết làm thế nào để có một bài thuyết trình đạt hiệu quả


tốt. Nếu lần sau có cơ hội được thuyết trình thì sẽ phải chuẩn bị một tâm lý tốt, đó là:
phải tự tin, nói to, rõ ràng, mạch lạc, logic, phải làm chủ được mình trước mọi người,

** Kết luận


- Hoạt động quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân.
- Sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân phụ thuộc vào hoạt động chủ
đạo của từng thời kỳ.
Ví dụ:
• Giai đoạn tuổi nhà trẻ (1-2 tuổi) hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật: trẻ bắt
trước các hành động sử dụng đồ vật, nhờ đó khám phá, tìm hiểu sự vật xung quanh.
• Giai đoạn trưởng thành (18-25 tuổi) hoạt động chủ đạo là lao động và học tập.
- Cần tổ chức nhiều hoạt động đa dạng và phong phú trong cuộc sống và công tác.
- Cần tạo môi trường thuận lợi để con người hoạt động.
2. Vai trò của giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách cá
nhân.
** Khái niệm.
Theo tâm lý học: Giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa người
với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định.
** Vai trò của giao tiếp
* Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người.
- Nếu không có giao tiếp thì không có sự tồn tại xã hội, vì xã hội luôn là một cộng
đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
- Qua giao tiếp chúng ta có thể xác định được các mức độ nhu cầu, tư tưởng, tình cảm,
vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ đó mà chủ thể giao tiếp đáp ứng
kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao tiếp.
- Từ đó tạo thành các hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với
nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với cộng đồng.

Ví dụ: Khi một con người sinh ra được chó sói nuôi, thì người đó sẽ có nhiều lông,
không đi thẳng mà đi bằng 4 chân, ăn thịt sống, sẽ sợ người, sống ở trong hang và có
những hành động, cách cư xử giống như tập tính của chó sói.
* Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi.
- Từ khi con người mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thỏa mãn những nhu
cầu của bản thân.
- Ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người với con
người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển con người.
- Để tham gia vào các quan hệ xã hội, giao tiếp với người khác thì con người phải có
một cái tên, và phải có phương tiện để giao tiếp.
- Lớn lên con người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và quy
định. Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy định cụ
thể, khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ không có nghề nghiệp
theo đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải có nghệ thuật giao tiếp với


mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống.
- Trong quá trình lao động con người không thể tránh được các mối quan hệ với nhau.
Đó là một phương tiện quan trọng để giao tiếp và một đặc trưng quan trọng của con
người là tiếng nói và ngôn ngữ.
- Giao tiếp giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích đối tượng
giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất kinh doanh, thỏa
mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.
- Qua giao tiếp giúp con người hiểu biết lẫn nhau, liên hệ với nhau và làm việc cùng
nhau.
Ví dụ: Từ khi một đứa trẻ vừa mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp với ba mẹ và mọi
người để được thỏa mãn nhu cầu an toàn, bảo vệ, chăm sóc và được vui chơi,…
* Thông qua giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền
văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội.
- Trong quá trình giao tiếp thì cá nhân điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình cho

phù hợp với các chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội, phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực.
- Cùng với hoạt động giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử biến
những kinh nghiệm đó thành vốn sống. Kinh nghiệm của bản thân hình thành và phát
triển trong đời sống tâm lý. Đồng thời góp phần vào sự phát triển của xã hội.
- Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu không có sự giao tiếp giữa con người thì
một đứa trẻ không thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt được.
- Nếu con người trong xã hội mà không giao tiếp với nhau thì sẽ không có một xã hội
tiến bộ, con người tiến bộ.
- Nếu cá nhân không giao tiếp với xã hội thì cá nhân đó sẽ không biết phải làm những
gì để cho phù hợp với chuẩn mực xã hội, cá nhân đó sẽ rơi vào tình trạng cô đơn, cô
lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
- Trong khi giao tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư tưởng, tình
cảm, thấu hiểu và có điều kiện tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại, biết
cách ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Ví dụ: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình thì phải chào hỏi, phải xưng hô cho đúng
mực, phải biết tôn trọng tất cả mọi người, dù họ là ai đi chăng nữa, phải luôn luôn thể
hiện mình là người có văn hóa, đạo đức.
* Thông qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.
- Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên cơ sở
nhận thức đánh giá người khác. Theo cách này họ có xu hướng tìm kiếm ở người khác
để xem ý kiến của mình có đúng không, thừa nhận không. Trên cơ sở đó họ có sự tự
điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng tăng cường hoặc giảm bớt sự
thích ứng lẫn nhau.
- Tự ý thức là điều kiện trở thành chủ thể hành động độc lập, chủ thể xã hội.


- Thông qua giao tiếp thì cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo mục đích tự
giác.
- Thông qua giao tiếp thì cá nhân có khả năng tự giáo dục và tự hoàn thiện mình.

- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm hồn, những
diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần của bản thân, vị thế và các quan hệ xã hội.
- Khi một cá nhân đã tự ý thức đươc thì khi ra xã hội họ thựờng nhìn nhận và so sánh
mình với người khác xem họ hơn người khác ở điểm nào và yếu hơn ở điểm nào, để
nỗ lực và phấn đấu, phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt yếu kém.
- Nếu không giao tiếp cá nhân đó sẽ không biết những gì mình làm có được xã hội
chấp nhận không, có đúng với những gì mà xã hội đang cần duy trì và phát huy hay
không.
- Nếu con người khi sinh ra mà bị bỏ rơi, mà được động vật nuôi thì những cử chỉ và
hành động của bản thân con người đó sẽ giống như cử chỉ và hành động của con vật
mà đã nuôi bản thân con người đó.
Ví dụ:
• Khi tham gia vào các hoạt động xã hội thì cá nhân nhận thức mình nên làm những gì
và không nên làm những việc gì như: nên giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó
khăn, tham gia vào các hoạt động tình nguyện, không được tham gia các tệ nạn xã
hội, chỉ đươc phép tuyên truyền mọi người về tác hại của chúng đối với bản thân, gia
đình và xã hội.
• Hoặc khi tham dự một đám tang thì mọi người ý thức được rằng phải ăn mặc lịch sự,
không nên cười đùa. Bên cạnh đó phải tỏ lòng thương tiết đối với người đã khuất và
gia đình họ.
** Kết luận
- Giao tiếp đóng vai trò quan trong trong sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách
cá nhân.
- Cần phải rèn luyện các kỹ năng giao tiếp.
“Sự phát triển của một các nhân phụ thuộc vào sự phát triển của các cá nhân khác mà
nó giao tiếp trực tiếp và gián tiếP

Mối quan hệ giữa hoạt động và giao tiếp
Hoạt động và giao tiếp là hai khái niệm phản ánh hai loại quan hệ giữa con người với
thế giới xung quanh. Hoạt động là khái niệm phản ánh mối quan hệ giữa con người

với thế giới đồ vật. Con người luôn là chủ thể, thế giới đồ vật luôn là khách thể. Còn
khái niệm giao tiếp phản ánh các mối quan hệ giữa con người và con người. Trong
quan hệ này con người luôn là chủ thể nên đây là quan hệ giữa "chủ thể với chủ thể".
Có nhiều ý kiến khác nhau về mối quan hệ của hoạt động và giao tiếp.


Có nhiều nhà tâm lý học cho rằng giao tiếp như một dạng đặc biệt của hoạt động: xét
về mặt cấu trúc tâm lý, giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động: giao tiếp nào cũng
có động cơ quy định sự hình thành và diễn biến của nó, cũng được tạo thành bởi các
hành động và thao tác. Giao tiếp nào cũng đều có các đặc điểm cơ bản của một hoạt
động: bao giờ cũng có chủ thể, đều nhằm vào đối tượng nào đó, để tạo ra một sản
phẩm nào đó v.v... Giao tiếp cũng là một hoạt động.
Một số nhà tâm lý học khác lại cho rằng, giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù đồng
đẳng. Chúng có nhiều điểm khác nhau nhưng có quan hệ qua lại với nhau trong cuộc
sống của con người. Mối quan hệ này có thể diễn ra theo hai cách sau đây: Theo cách
thứ nhất, giao tiếp diễn ra như là một điều kiện để tiến hành các hoạt động khác. Ví
dụ, muốn tiến hành lao động sản xuất, các công nhân trong một đội sản xuất phải có
quan hệ với nhau. Các quan hệ giao tiếp này có ảnh hưởng nhất định đến năng suất
lao động. Hoạt động dạy học không thể diễn ra như một quá trình thông tin của các
máy truyền tin và thu tin. Trong dạy học nhất thiết phải có giao tiếp giữa người dạy và
người học, giữa người học và người học v.v... Trong các trường hợp này có thể coi
giao tiếp là một mặt của hoạt động.
Theo cách thứ hai, hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con
người với con người. Chẳng hạn trong lao động, con người có vướng mắc nào đó cần
giải quyết. Họ nghĩ đến việc phải gặp, phải nhờ ai đó mới giải quyết được vướng mắc
của mình. Thế là bắt đầu nảy sinh nhu cầu và mục đích giao tiếp. Lúc đó con người
thực hiện quan hệ giao tiếp với người khác và nhờ đó họ đạt được mục đích hoạt động
của mình. Như vậy giao tiếp là điều kiện để con người thực hiện các hoạt động cùng
nhau. Ngược lại, hoạt động là điều kiện để con người thực hiện quan hệ giao tiếp giữa
con người với con người. Trong hoạt động chung, con người buộc phải giao tiếp với

nhau để thống nhất hành động. Như vậy, do có hoạt động chung, con người giao tiếp
với nhau để cùng thực hiện mục đích chung. Vì thế, hoạt động và giao tiếp là hai mặt
không thể thiếu của đời sống, của hoạt động cùng nhau giữa con người với con người
trong thực tiễn.
Khi nghiên cứu những quy luật tâm lý của việc dạy và giáo dục. TLHSP nghiên cứu
những vấn đề cụ thể:
+ Yếu tố tâm lý của việc điều khiển quá trình dạy học
+ Nghiên cứu sự hình thành của quá trình nhận thức
Trong hoạt động sư phạm (dạy –học)
Giao tiếp sư phạm mang tính đồng nghiệp giữa người dạy và người học, làm giảm sự
ngăn cách giữa giảng viên và sinh viên.
Hình thành tình cảm nghề nghiệp ở cả người học và người dạy


Phương tiện giao tiếp sư phạm là ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Ngôn ngữ gồm ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết, phi ngôn ngữ là cử chỉ, hành vi, phong thái, nét mặt, nụ
cười…
Khuyến khích người học giao tiếp. Thể hiện sự quan tâm của giảng viên đối với học
viên và các quan điểm của người học
Nhạy cảm với sự tiến bộ của người học và động cơ thúc đẩy việc học của nguwoif học
Hành động khi người học không hứng thú hoặc có vấn đề khó. Hãy đặt ra những câu
hỏi nhằm kích thích tư duy người học
Nguyên tắc trong giao tiếp
- Nguyên tắc đồng cảm
- Nguyên tắc tôn trọng đối tượng giao tiếp
- Nguyên tắc bảo đảm tính mô phạm
- Nguyên tắc thiện ý
- Nguyên tắc vô tư
Tâm lý, nhân cách con người hình thành và phát triển trong quá trình con người tiếp
thu kinh nghiệm xã hội lịch sử do loài người tích lũy được, biến những tri thức đó

thành cái riêng (tâm lý, nhân cách) của mỗi người, nhờ đó con người có khả năng tác
động vào hoàn cảnh và tác động vào chính mình trong quá trình vận động và phát
triển của xã hội và bản thân.
Giao tiếp sư phạm (GTSP) là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển
tâm lý, nhân cách người thầy giáo và học sinh. Trong quá trình giao tiếp này
người thầy sẽ truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm của xã hội, bản
thân....để học sinh tiếp thu và dần dần bồi dưỡng cho nhân cách phát triển tích
cực. Bản thân người giáo viên khi trao đổi, chia sẻ với trò sẽ tự rút ra những
phẩm chất cần bồi đắp thêm để hoàn thiện nhân cách, tâm lý cho chính mình.
Để tìm hiểu rõ vấn đề này, chúng ta cần hiểu được nội hàm khái niệm giao tiếp
sư phạm là gì?
Về khái niệm GTSP, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong nội hàm khái niệm. Đã
có nhiều tác giả, trong nhiều cuốn sách đã được xuất bản, đưa ra các khái niệm theo
quan điểm riêng với nhiều điểm khác nhau và có phạm vi khác nhau.
Nhìn chung khi nghiên cứu về khái niệm GTSP thì từ trước tới nay có thể hệ thống
theo hai xu hướng sau:


+ Xu hướng thứ nhất: các tác giả theo hướng này thường bó hẹp phạm vi của GTSP
vào trong việc giảng dạy, truyền thụ tri thức sao cho hoạt động này diễn ra có hiệu
quả. Đồng thời hạn chế đối tượng chỉ là HS. Hay nói cách khác, họ cho rằng GTSP là
phương tiện để thực hiện hoạt động dạy - giáo dục của người GV. Đại diện là N.D.
Levitốp với quan niệm: “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt tri thức cho trẻ
bằng cách trình bày rõ ràng, hấp dẫn”.
Ph.N. Gônôbôlin thì cho rằng: “Giao tiếp sư phạm là năng lực truyền đạt một cách dễ
hiểu để các em học sinh nắm vững và ghi nhớ tốt tài liệu”.
Hay A.I. Secbacov quan niệm: “Năng lực giao tiếp sư phạm giúp xác lập nên mối
quan hệ qua lại đúng đắn với trẻ, sự khéo léo đối xử sư phạm, việc tính toán tới đặc
điểm cá nhân và lứa tuổi”.
Tác giả A.A.Lêônchiev lại cho rằng “Giao tiếp sư phạm đó là giao tiếp nghề nghiệp

của giáo viên với học sinh trong và ngoài giờ học (trong quá trình giảng dạy và giáo
dục), có những chức năng sư phạm nhất định (nếu giao tiếp là trọn vẹn và tối ưu)
nhằm tạo ra bầu không khí thuận lợi cũng như sự tối ưu khác về tâm lý cho quá trình
học tập, cho việc xây dựng mối quan hệ giữa thầy và trò, cũng như trong nội bộ tập
thể học sinh”
Như vậy, nhìn chung các tác giả theo xu hướng này đều cho rằng GTSP là một nhân
tố rất quan trọng trong việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của người GV. Tuy
nhiên, các tác giả chỉ bó hẹp chủ thể giao tiếp là người GV. Trên thực tế, để dạy học
và giáo dục cho HS nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách HS thì đòi
hỏi khi thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục của mình thì người GV phải biết kết
hợp với các đồng nghiệp, với gia đình HS và các lực lượng xã hội khác, tức các chủ
thể giáo dục khác.
Như vậy, các định nghĩa theo hướng này đã làm hẹp nội hàm khái niệm GTSP.
+ Xu hướng thứ hai: các tác giả theo hướng này đã tiếp thu và khắc phục những hạn
chế của hướng trên và mở rộng phạm vi nghiên cứu GTSP và đã đưa ra được những
định nghĩa bao quát hơn. Và đồng thời cũng nhấn mạnh hơn đến bản chất và chức
năng của GTSP.
Tác giả Ngô Công Hoàn quan niệm “Giao tiếp giữa con người với con người trong
hoạt động sư phạm được gọi là giao tiếp sư phạm”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình trong luận án Phó tiến sĩ khoa học đã đưa ra
khái niệm: Giao tiếp sư phạm là quá trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi
thông tin, cảm xúc, nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập
nên những mối quan hệ giáo dục giữa nhà giáo dục với đối tượng giáo dục, giữa nhà


giáo dục với các lực lượng giáo dục, giữa các nhà giáo dục với nhau để thực hiện mục
đích giáo dục”. Theo tác giả, thì trong hoạt động GTSP, nổi lên không chỉ có mối
quan hệ giữa GV - HS mà còn có cả mối quan hệ giữa GV - các lực lượng giáo dục,
giữa GV - GV. Như vậy, tác giả đã mở rộng phạm vi chủ thể giao tiếp trong hoạt động
sư phạm của mình.

Như vậy, các tác giả theo hướng này đã có quan niệm bao quát hơn về GTSP. Chủ thể
GTSP không còn bó hẹp là GV mà là tất cả các lực lượng có liên quan đến việc giáo
dục HS. Đồng thời, mục tiêu cuối cùng của GTSP không phải chỉ là sự truyền đạt tri
thức một cách có hiệu quả mà còn nhằm thiết lập các mối quan hệ sư phạm và phát
triển nhân cách HS. Do đó, GTSP còn là quá trình trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lý,
tình cảm, nhận thức, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia giao
tiếp.
Khi tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng các khái niệm theo hướng thứ hai đã thể hiện khá
đầy đủ và bao quát về GTSP. Do vậy, trong đề tài này, chúng tôi đồng tình theo hướng
này.
Sau khi phân tích và tiếp thu các khái niệm về GTSP, chúng tôi thấy rằng nội hàm của
khái niệm GTSP có các ý sau:
- GTSP là một phạm trù tương đối độc lập và gắn bó chặt chẽ với hoạt động sư phạm:
nó vừa là điều kiện của hoạt động sư phạm vừa là một thành tố của hoạt động sư
phạm. Do vậy, GTSP là mặt bản chất của quá trình sư phạm.
- GTSP là một quá trình tiếp xúc tâm lý giữa các chủ thể giáo dục với nhau và với đối
tượng giáo dục (HS) nhằm đạt được mục đích giáo dục nhất định.
Trên cơ sở đó, chúng tôi xây dựng khái niệm GTSP như sau:
GTSP là quá trình tiếp xúc tâm lý, trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, cảm xúc,
nhận thức và tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm thiết lập nên những mối
quan hệ giáo dục giữa các chủ thể liên quan đến quá trình giáo dục và giữa chủ thể
giáo dục với đối tượng giáo dục để thực hiện mục đích giáo dục.
* Chủ thể của giao tiếp sư phạm
GTSP với đặc thù vừa là điều kiện vừa là phương tiện để nhà sư phạm thực hiện hoạt
động sư phạm của mình nên chủ thể của GTSP là các nhà sư phạm trực tiếp tham gia
quá trình giáo dục HS. Tuy nhiên, để có thể giáo dục HS thì nhà sư phạm phải kết hợp
với các lực lượng giáo dục khác như các đoàn thể, phụ huynh HS, các tổ chức xã hội
khác. Do đó, GTSP có chủ thể là toàn bộ các lực lượng tham gia vào quá trình giáo
dục. Tuy nhiên, nhà sư phạm có vị trí chủ chốt trong hoạt động giáo dục nói chung và



GTSP nói riêng. Do đó, để giáo dục HS tốt thì đòi hỏi nhà sư phạm phải hết sức tinh
tế trong khi giao tiếp và phải có phương pháp GTSP khoa học phù hợp với đối tượng,
mục đích và hoàn cảnh giao tiếp.
Trong khi thực hiện hoạt động sư phạm, các nhà sư phạm giao tiếp với nhau, giao tiếp
với các lực lượng giáo dục khác nhằm giáo dục HS nên HS vừa là đối tượng của hoạt
động sư phạm lại vừa là đối tượng của hoạt động GTSP. Tuy nhiên, trong khi giao tiếp
thì HS cũng là chủ thể. Vì vậy, HS cũng có những nhận xét, những đánh giá mang
tính chủ quan và dựa vào trình độ nhận thức của các em về đối tượng giao tiếp. Việc
đánh giá đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động học tập mà còn ảnh hưởng
đến quá trình hình thành và rèn luyện nhân cách của HS. Do vậy, khi giao tiếp với HS
thì nhà sư phạm cần hết sức khéo léo và mô phạm.
* Nội dung và phương tiện trong quá trình GTSP giữa thầy giáo và học sinh.
+ Tri thức và phương thức giành lấy tri thức (thông qua hình thức dạy học).
Theo nghĩa rộng, tri thức là những hiểu biết, những kinh nghiệm mà loài người đã tích
lũy về tất cả các mặt như tự nhiên, xã hội, con người v.v… Hay nói cách khác tri thức
là toàn bộ nền văn hóa của nhân loại đã được tích lũy theo thời gian. Trong dạy học
thì tri thức là kiến thức đã được kiểm nghiệm, được đánh giá, được chứng minh là
khoa học và đúng đắn nên những tri thức đó được gọi là những tri thức khoa học. Còn
những kiến thức khác được gọi là tri thức thông thường.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức, điều khiển, điều chỉnh hoạt động
học của HS nhằm tái tạo lại tri thức mà loài người đã phát hiện ra từ đó làm tâm lý trò
phát triển.
Trong dạy học GV sử dụng hệ thống tri thức làm phương tiện, bằng các phương pháp
dạy học khoa học để tác động tới HS, giúp các em hiểu và vận dụng được các tri thức
đó vào trong hoạt động học và vào ngay cuộc sống thường ngày của các em. Do đó,
tri thức đối với GV là một công cụ then chốt trong quá trình dạy học. Đồng thời tri
thức đó cũng là đối tượng cơ bản và chủ yếu mà HS cần chiếm lĩnh thông qua hoạt
động học. Nhờ có việc tiếp thu, lĩnh hội nắm vững và vận dụng các tri thức này một
cách tích cực, chủ động, tự giác vào trong hoạt động sống của mình mà HS có thể

hình thành kỹ năng, năng lực và phát triển nhân cách tốt đẹp. Hơn nữa, khi thực hiện
hoạt động học, HS lại lấy các tri thức đã lĩnh hội làm phương tiện để nhận thức, đánh
giá và bổ trợ cho các tri thức các em đang cần chiếm lĩnh. Do đó, trong dạy và học,
GV và HS đều lấy tri thức làm nội dung và phương tiện cho giao tiếp của mình.
Trong dạy học, GV không chỉ sử dụng các tri thức khoa học làm phương tiện để dạy
học mà ngay cả những tri thức thông thường mà họ tiếp thu, học hỏi trong cuộc sống
cũng được GV sử dụng như phương tiện bổ trợ cho bài giảng của mình. Đồng thời từ


việc giảng dạy, GV lại tự nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp thu các tri thức về khoa học
cũng như về đời sống để hoàn thiện hơn nữa hoạt động dạy của mình, làm cho bài
giảng sâu sắc hơn, dễ hiểu hơn và khoa học hơn.
Tri thức được giảng dạy trong hoạt động sư phạm không chỉ là những tri thức đã được
hệ thống hóa trong sách giáo khoa, trong tài liệu về các mặt của đời sống mà còn là cả
những tri về bản thân của hoạt động dạy học như cách dạy và học, phương pháp giành
lấy tri thức tối ưu v.v.. những tri thức này góp phần không nhỏ vào hiệu quả của hoạt
động dạy và học.
Tóm lại, hệ thống tri thức trong quá trình dạy học rất rộng lớn, đa dạng và sâu sắc.
Đòi hỏi GV và HS phải có sự chủ động, tích cực và không ngừng tìm tòi, nghiên cứu,
học hỏi để nắm vững các tri thức cơ bản, vận dụng được vào hoạt động của mình và
mở rộng được các kiến thức khác nhằm hình thành và phát triển nhân cách của bản
thân theo yêu cầu của xã hội, làm cho GV trở thành người vừa “hồng” vừa “chuyên”,
còn HS vừa có hiểu sâu biết rộng lại hình thành cho bản thân những kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng với những tri thức đã được tiếp thu.
+ Phẩm chất đạo đức của nhân cách người thầy giáo với tư cách là một phương tiện
trong quá trình GTSP.
Trong dạy học, người GV không chỉ sử dụng các tri thức, kinh nghiệm của loài người
tích lũy được làm phương tiện giúp HS hình thành và phát triển nhân cách của mình
mà ngay bản thân người GV với những phẩm chất, năng lực của mình chính là yếu tố
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của HS. Đặc biệt HS chịu

ảnh hưởng rất lớn từ những phẩm chất đạo đức của người thầy mà dạy các em. Do đó
GV được coi là tấm gương lớn cho HS soi mình vào đó mà học tập và tu dưỡng đạo
đức bản thân.
Phẩm chất đạo đức của người GV thể hiện trong cái tâm của họ. Mỗi thầy, cô giáo
phải luôn thể hiện rõ cái tâm trong sáng trong nghề nghiệp. Cái tâm của người thầy,
giáo được biểu hiện ở sự gần gũi, tận tình trong dạy bảo HS trong mọi lúc, mọi nơi
mà không quản ngại gian nan, khó nhọc. Cái tâm trong sáng còn được thể hiện ở sự
công bằng, vô tư trong đánh giá đối với HS mà không bị khúc xạ bởi những cám dỗ
vật chất tầm thường.
Cái tâm trong sáng của người thầy còn được thể hiện ở lòng dũng cảm, sự kiên quyết
trong đấu tranh chống cái xấu, cái sai trong xã hội, những tiêu cực lệch lạc trong suy
nghĩ và hành động của những đồng nghiệp và trong chính bản thân mình.
Trong GTSP, mỗi cử chỉ, điệu bộ, thái độ và hành vi ứng xử cũng như lời nói của GV
đều được HS coi như những chuẩn mực để các em học tập và làm theo. Vì vậy, để
hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy giáo hôm nay phải không


ngừng tự đổi mới, tự rèn luyện đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo để mỗi
người thầy thực sự là những tấm gương sáng về đạo đức cho HS noi theo.
GTSP có vai trò quan trọng trong hoạt động sư phạm nói chung và trong việc
hình thành nhân cách người GV và HS nói riêng.
Cuộc đời đi học trong nhà trường của mỗi người kéo dài trên dưới 20 năm và trong
khoảng thời gian đó, mỗi cá nhân với tư cách là người học hay còn gọi là học sinh,
được tiếp xúc, học hỏi với rất nhiều nhà giáo dục khác nhau và ở các trình độ khác
nhau, bao gồm từ GV trực tiếp giảng dạy, các nhà quản lý giáo dục cho đến các lực
lượng giáo dục khác. Vì vậy, trong hoạt động sư phạm, GTSP của nhà giáo dục với
HS nhằm mục đích giúp HS tiếp thu những tri thức khoa học trong các lĩnh vực khác
nhau của cuộc sống mà loài người đã tích lũy được theo phương pháp nhà trường.
Qua đó các loại tri thức mà HS đã tiếp thu trở thành công cụ, phương tiện tác động
vào thế giới xung quanh, đồng thời tác động vào bản thân mỗi HS. Trong quá trình đó,

các phẩm chất và năng lực (nhân cách) từng bước được hình thành và phát triển ngày
càng ở trình độ cao hơn, hoàn thiện hơn đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự phát triển xã
hội và phát triển cá nhân. Nói cách khác, GTSP là điều kiện không thể thiếu thực đẩy
sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của HS, đảm bảo cho các em một
cuốc sống thực sự có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Theo nghĩa đó, sẽ là bất
hạnh nếu trẻ em vì một lý đi nào đó mà không được tới trường, không có cơ hội GTSP
với thầy, cô giáo – đại diện cho giao tiếp của xã hội đối với HS.
Trong GTSP, GV có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với các chủ thể giáo dục khác và với
lớp lớp các thế hệ HS. Vì vậy, GV ngày càng thấu hiểu trọng trách của mình đối với
việc góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp chấn
hưng đất nước, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Và từ đó họ càng
yêu tha thiết nghề nghiệp, làm việc hết mình vì HS thân yêu, không ngại gian khổ, hy
sinh vươn lên trau dồi năng lực và phẩm chất mẫu mực của nhà giáo. Nói cách khác,
GTSP với HS và các lực lượng giáo dục khác trở thành điều không thể thiếu và là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách tốt đẹp
của nhà giáo. Thông qua GTSP, GV có thể đánh giá được những mặt mạnh cũng như
hạn chế của mình về ngôn ngữ, về trình độ chuyên môn và xã hội, về kinh nghiệm,
vốn sống của bản thân so với các đối tượng đó. Từ đó, họ sẽ tìm mọi biện pháp khắc
phục những nhược điểm và trau dồi những tri thức cũng như rèn luyện cho mình cách
thức ứng xử, giao tiếp sao cho phù hợp với đối tượng, đạt hiệu quả giao tiếp đồng thời
khẳng định được bản thân. Vì thế, GV có thể ngày càng hoàn thiện PCGTSP của bản
thân nói riêng cũng như nhân cách nói chung.



×