Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Báo cáo chuyên đề sói lở, bồi lằng lòng sông (Bản tiếng việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.51 MB, 14 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI HÀ NỘI


XÓI LỞ VÀ BỒI LẮNG LÒNG SÔNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP THÍCH HỢP ĐỂ ỔN ĐỊNH BỜ SÔNG,
CÔNG TRÌNH BẢO VỆ BỜ SÔNG TẠI ĐOẠN NHÀ
THỜ LASAN MAI THÔN – BÁN ĐẢO THANH ĐATP.HCM

Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện:

lam thi lan huong. ma

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 - 2009


XÓI LỞ VÀ BỒI LẮNG LÒNG SÔNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
THÍCH HỢP ĐỂ ỔN ĐỊNH BỜ SÔNG, CÔNG TRÌNH BẢO VỆ BỜ
SÔNG TẠI ĐOẠN NHÀ THỜ LASAN MAI THÔN – BÁN ĐẢO THANH
ĐA- TP.HCM
TÓM TẮT
Một trong những thảm họa thiên nhiên ở thành phố HCM là sạt lở bờ sông ở bán đảo Thanh
Đa trên sông Sài Gòn. Để bảo vệ cơ sở hạ tầng dọc theo bờ sông, công trình bảo vệ bờ sông
tại đoạn nhà thờ Lasan Mai Thôn đã được xây dựng. Tuy nhiên, do điều kiện thủy văn, thủy
lực và hình thái sông tại đoạn sông cong nhất này, xói lở lòng sông đã xảy ra nhanh chóng tại
bờ lõm, đe dọa sự mất ổn định của công trình bảo vệ bờ đã xây dựng. Dựa trên số liệu đo đạc
địa hình năm 1998, 2003 và 2007; số liệu thủy văn đo đạc trong mùa khô và mùa mưa năm
2007; số liệu địa chất, sự thay đổi của đáy lòng sông đoạn này đã được phân tích và phần
mềm Geoslope đã được sử dụng để đánh giá ổn định của bờ sông. Cuối cùng, phương pháp


thích hợp để ổn định lòng sông và công trình bảo vệ bờ cho đoạn sông này đã được đề xuất
sau khi xem xét các giải pháp khác nhau từ kinh nghiệm đã trải qua trong quá khứ.
Các từ khóa: sông cong, vận tốc cho phép, hình thái sông, công trình bảo vệ bờ sông
1.

GIỚI THIỆU

Được tạo ra từ sông Sài Gòn, bán đảo Thanh Đa (Hình 1) nằm ở quận Bình Thạnh,
thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm gần đây, khu vực này đã và đang phải đối diện với
vấn đề sạt lở bờ sông, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho nhân dân và các tổ chức cơ quan
dọc theo bờ sông. Một số hình ảnh về sạt lở bờ sông tại bán đảo Thanh Đa được trình bày
trong Hình 2. Một trong những thảm họa tồi tệ nhất xảy ra tại đoạn nhà thờ Lasan Mai Thôn
năm 1992, làm hai căn nhà hai tầng bị xụp xuống sông và 5 người thiệt mạng. Từ đó đến nay,
hàng chục vụ sạt lở bờ ở các khu vực khác nhau (Hình 3) và thiệt hại thì không thể tính được.
Vì vậy, một công trình bảo vệ bờ sông đã được xây dựng ở đoạn nhà thờ Lasan Mai Thôn.
Tuy nhiên, đây là một đoạn sông cong nhất và đáy lòng sông chưa được bảo vệ hoàn toàn, đã
là mối đe dọa do xói lở theo thời gian ở khu vực bờ lõm sông cong. Dự án này nghiên cứu sự
thay đổi địa hình đáy sông, các điều kiện thủy văn và địa chất tại khu vực để tìm biện pháp
phù hợp tăng cường ổn định cho công trình bảo vệ đã xây dựng.

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 2 / 14


Khu vực nghiên cứu

Hình 1. Thành phố Hồ Chí Minh và bán đảo Thanh Đa


Kênh Thanh Đa, 2007

Nhà hàng Hoàng Ty, 2001

Biệt thự Lý Hoàng, 2004
Nhà kho tang vật công an Bình Thạnh, 2002
Hình 2. Một số hình ảnh xói lở bờ sông
Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 3 / 14


Vị trí sạt lở bờ sông
Khu vực
nghiên
cứu:
đoạn
Nhà thờ
La san
Mai
Thôn

Hình 3. Các vị trí sạt lở bờ sông tại khu vực bán đảo Thanh Đa- Tp.HCM
2.

TÀI LIỆU CƠ BẢN


2.1

Tài liệu địa hình

Khu vực dự án nằm ở bờ lõm của đoạn sông cong bán đảo Thanh Đa trên sông Sài Gòn.
Tài liệu địa hình cho thấy một hố xói sâu với mái bờ rất dốc hiện diện tại chân của bờ kè đã
xây dựng. Tài liệu địa hình lịch sử cũng chứng minh rằng khu vực đã bị sạt lở do mất ổn định
bờ.
Số liệu địa hình tham khảo như sau:
-

Bản đồ địa hình tỷ lệ 1/200, khảo sát năm 1998

-

Địa hình tỷ lệ 1/5000, khảo sát năm 2003 và các mặt cắt ngang khảo sát tháng 4 năm
2007 bởi Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (SIWRR)- cuối mùa khô với hệ thống
định vị DGPS [3]. Vị trí các mặt cắt ngang thể hiện trên Hình 4.
-

SÔ HOÏA VÒTRÍ MAË
T C AÉ
T
9
6
MC

MC
MC


1

MC

MC 7

11

MC 10

MC 8

MC

12

13

5

MC

4

14
MC

3

15


2

16

M
C
17
M
C
18
M
19

9 11

C

6

M

13

C
20

16

21


1

21

Hình 4. Vị trí các mặt cắt ngang khảo sát

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 4 / 14


2.2

Địa hình tỷ lệ 1/1000 và các mặt cắt ngang khảo sát năm 2007 bởi Viện Khoa học
Thủy lợi miền Nam với hệ thống định vị DGPS [3].
Tài liệu địa chất

Tài liệu địa chất từ các nguồn khác nhau cho thấy mặt cắt địa chất của khu vực gồm 3
lớp đất chủ yếu. Từ mặt đất trở xuống, lớp thứ nhất là lớp đất đắp, dày từ 0 đến 1 m, bao gồm
cát, gạch đá và đất mềm. Lớp thứ hai là lớp bùn sét, dày từ 20 đến 23 m – lớp đất mềm yếu
đến sét dẻo chảy với hạt bụi, có trọng lượng 1.5 T/m 3 và có màu xám xanh, xám đen. Lớp này
có độ ẩm trung bình 70% đến 100%, giới hạn dẻo vào khoảng 34 đến 38%, giới hạn chảy
khoảng 70% và chỉ số dẻo khoảng 33%. Giá trị lực cố kết không thoát nước (S u) từ 13 đến 18
(KN/m2). Phía dưới lớp bùn sét là lớp thứ 3. Đây là lớp cát hạt mịn lỏng đến chặt, trọng
lượng tự nhiên vào khoảng 18kN/m3, thí nghiệm xuyên (SPT -N) có giá trị từ 15 đến 30.
2.3


Tài liệu khí tượng [4]
2.3.1

Nhiệt độ

Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 27oC với giá trị trung bình tháng khác biệt
khoảng 2 đến 3oC.
-

Nhiệt độ cao nhất là 40oC (vào năm 1912),

-

Nhiệt độ thấp nhất 13.8oC (vào năm 1937).

-

Chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm vào khoảng 8 đến 10 oC. Ban ngày, nhiệt độ từ
33 đến 35oC trong khi ban đêm nhiệt độ hạ xuống còn từ 22 đến 24oC.

2.3.2

Mưa

Lượng mưa trung bình năm ở Tp HCM tại trạm Tân Sơn Nhất The khoảng 1930 mm.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 với số ngày mưa lớn hơn 20 ngày mỗi tháng
trong giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 10. Thời gian mưa từ 30 đến 180 phút.
2.3.3

Độ ẩm


Độ ẩm trung bình thay đổi từ 70% trong mùa khô đến 85% trong mùa mưa.
-

Độ ẩm trung bình năm là 78%,
Độ ẩm lớn nhất là 99%,
Độ ẩm thấp nhất là 24%.

2.3.4

Bốc hơi

Giá trị bốc hơi trung bình năm là 1300 mm trong khi bốc hơi trung bình tháng vào khoảng
130-160 mm và trong mùa mưa là 70 -90 mm.
2.3.5

Nắng

Mỗi ngày có khoảnng 7 đến 8 giờ nắng và trung bình 2600 giờ nắng mỗi năm.
2.4

Thủy văn [3]
2.4.1

Triều

Sông Sài Gòn bị ảnh hưởng bởi chế độ bán nhật triều biển đông. Biên độ triều cao vào
khoảng 3.5 đến 4 m. Hai giai đoạn triều cường và triều kém hàng tháng và hàng ngày. Thủy
triều ghi nhận được ở trạm Phú An, vào khoảng 10 km phía hạ du của khu vực nghiên cứu có
thể tóm tắt như sau:

-

Mực nước cao nhất (100 year): +1.54 m,
Mực nước thấp nhất (100 year): -2.47 m,
Mực nước trung bình năm:
+ 0.05 m,
Mực nước trung bình tháng nhỏ nhất : -0.22 m

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 5 / 14


Giá trị mực nước lớn nhất và thấp nhất không khác biệt nhiều trong mùa mưa cũng như mùa
khô.
2.4.2

Lưu lượng và vận tốc

Trong khu vực không có số liệu về vận tốc và lưu lượng ngoài trừ số liệu đo đạc năm 2007
của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam trong năm 2007 như sau:
+ Lưu lượng đo 24 lần trong ngày tại 2 mặt cắt (xem Hình 5) đã được khảo sát bởi SIWRR
với hai chu kỳ (bằng máy ADCP – và vận tốc có thể trích ra từ máy ADCP):
Vị trí đó lưu lượng và vận tốc
trên sông Sài Gòn, khu vực
nhà thờ Lasan Mai thôn

Hình 5. Vị trí mặt cắt đo lưu lượng

-

Vận tốc dòng chảy đo đạc từ 19 đến 22 tháng 4 năm 2007 đại diện cho mùa kiệt trong
giai đoạn triều . Mặt cắt vận tốc phía thượng lưu vào lúc 17 và 23 giờ được thể hiện
trên Hình 6 và Hình 7 tương ứng.
-

Hình 6. Mặt cắt vận tốc lúc 17 giờ ngày
19/04/2007

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Hình 7. Mặt cắt vận tốc lúc 23 giờ ngày
19/04/2007

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 6 / 14


Hình 8. Lưu lượng hàng giờ tại mặt cắt thượng lư, từ 19-22/04/2007
-

Vận tốc dòng chảy từ 17 đến 20 tháng 10 năm 2007 đại diện cho mùa lũ, triều cường
và xả lũ từ hồ Dầu Tiếng với lưu lượng 200 m3/s. Một mặt cắt phân bố lưu tốc tại mặt
cắt thượng lưu lúc 12 và 19 giờ của ngày 17/10/2007 thể hiện trên Hình 11.
-

Hình 9. Mặt cắt phân bố vận tốc lúc 12 giờ
ngày 17/10/2007


Hình 10. Mặt cắt phân bố vận tốc lúc 19 giờ
ngày 17/10/2007

Hình 11. Lưu lượng giờ tại mặt cắt thượng lưu từ 17-20/10/2007
2.4.3

Bùn cát đáy lòng sông

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 7 / 14


Bùn cát đáy lòng sông được lấy mẫu và phân tích thành phần hạt.
Vị trí lấy mẫu thể hiện trên Hình 16. Có 2 loại mẫu khác nhau, loại một là bùn sét với
đường kính trung bình (D50) vào khoảng 0.002 đến 0.006 mm thường xuất hiện tại mái bờ
sông. Loại mẫu khác là cát hạt mịn với D50 vào khoảng 0.10 to 0.40 mm, thường xuất hiện ở
đáy sông
3.

XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN

+ Nguyên nhân xói lở bờ sông ở bán đảo Thanh Đa đã được xác định một cách định tính như
sau [2], [6]:
-

Vận tốc dòng nước (bao gồm dòng chảy lũ, dòng chảy thủy triều và dòng chảy xoắn ở

khu vực đoạn sông cong vượt quá vận tốc giới hạn cho phép của đất mái bờ sông khu
vực bán đảo Thanh Đa,

-

San lấp nhân tạo ở bờ sông làm gia tải quá mức ở bờ sông,

-

Sóng tàu đập vào bờ sông,

-

Khai thác cát tạo nên độ dốc vượt quá độ dốc ổn định của bờ sông v.v...,

+ Các điều kiện xói đáy sông là vận tốc dòng chảy vượt quá vận tốc giới hạn cho phép và sức
tải cát của lòng sông tại khu vực nghiên cứu vượt quá lượng bùn cát thực tế. Tuy nhiên, do
thiếu tài liệu về sức tải cát, điều kiện thứ hai không được đề cập. Do đó, vận tốc trung
bình dòng chảy và vận tốc xói cho phép của vật liệu đáy sông được tính toán so sánh để
xem xét khả năng xói lở do dòng chảy gây ra.
Vận tốc xói cho phép của vật liệu bờ sông (Vo) được tính toán dựa vào biểu đồ của ASCE
Task Committee (1967) ( Hình 12) và có hiệu chỉnh với chiều sâu nước của Mehrota (1983)
[7] cho thấy Vo vào khoảng 1.5 m/s đối với lớp bùn sét và khoảng 0.35 m/s đối với cát mịn.

Hình 12. Vận tốc tới hạn của bùn cát đáy là một hàm số của đường kính hạt trung bình (theo
ASCE Task Committee, 1967)
Hình 13 chấm các điểm vận tốc và vận tốc không xói cho phép trên cùng một hình vẽ cho
thấy cả hai giai đoạn khảo sát vận tốc dòng chảy, vận tốc trung bình và vận tốc lớn nhất (V mean
and Vmax) của dòng chảy vượt quá vận tốc không xói cho phép V o. Tính toán giá trị (V mean –
Vo) /Vo, số liệu thống kê cho thấy trong cả hai giai đoạn khảo sát (V mean – Vo) /Vo vào khoảng

50% đến 70% với tần suất là 85%. Điều này thể hiện khả năng bị xói lở của bờ sông là khá
cao trong cả mùa khô và mùa mưa.
Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 8 / 14


Hình13. Vận tốc dòng chảy và vận tốc không xói cho phép của đáy lòng sông, tháng 04/2007
Bởi vì dòng chảy lũ xả từ hồ Dầu Tiếng xuống là không cao so với lưu lượng dòng
chảy lớn nhất (200 m3/s so với lưu lượng lớn nhất là 2000 m 3/s), ảnh hưởng của lũ là không
lớn trong mùa lũ. Hơn nữa, hồ Dầu Tiếng chưa từng xả lũ lớn hơn 200 m 3/s từ khi vận hành
đến nay, do đó dòng chảy lũ không đóng vai trò lớn trong quá trình sạt lở bờ sông. Điều đó
nghĩa là dòng chảy thủy triều là dòng chảy chính tạo ra xói lở bờ sông trong khu vực nghiên
cứu. Tất nhiên, vận tốc dòng chảy trung bình ở đây tỷ lệ thuận với dòng chảy xoắn trong đoạn
sông cong – là nguyên nhân chính của việc xói lở bờ lõm sông cong và bồi lắng ở bờ lồi. Hơn
nữa, sức tải cát của dòng chảy cũng tỷ lệ thuận với vận tốc trung bình với số mũ bậc cao hơn
3 [8].
4.

BIẾN ĐỔI HÌNH THÁI SÔNG

4.1 Trên mặt bằng
Chồng các bản đồ đã có các năm 2003 và 2007 với cùng hệ tọa độ cho thấy hố xói cục
bộ chỉ di chuyển vào phía bờ lõm, mà không di chuyển ngược hay xuôi. Lấy đường đồng mức
-20 m của các bản đồ thấy rằng tốc độ di chuyển vào khoảng 5m/năm và diện tích vùng xói lở
ngày càng hẹp hơn.
4.2 Trên mặt cắt ngang
4.2.1 Giai đoạn 1998 - 04/2007

So sánh tất cả các mặt cắt ngang thể hiện trên hình 14, nó chỉ ra rằng xu thế di chuyển của
hố xói cục bộ vào phía bờ lõm của sông và có những nhận xét như sau:

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 9 / 14


SÔ HOÏA VÒTRÍ MAË
T C AÉ
T
9
6
MC

MC

MC 7

11

MC 10

MC 8

MC

12


13

5

MC

4

14
MC

3
MC

1

MC

15

2

16

M
C
17
M
C

18
M
19

9 11

C

6

M

13

C
20

16

21

1

21

Hình 14. Các mặt cắt ngang khảo sát
-

Cao trình đáy sâu nhất của hố xói hầu như không thay đổi,


-

Trong vòng 9 năm, chiều rộng lấn vào bờ của hố xói từ 5 đến 30 m,

-

Chiều sâu xói trong 9 năm từ 0 đến 5 m.

Những ví dụ điển hình về sự thay đổi của đáy sông trình bày trên các Hình 23, 24 và 25
cho các mặt cắt ngang 6, 11 (trung tâm hố xói) và 13 tương ứng.
4.2.1 Giai đoạn 04/2007-11/2007
Cùng áp dụng phương pháp như trên để xem xét sự thay đổi đáy sông trong mùa lũ 2007.
Bản đồ địa hình tháng 4 và tháng 11 năm 2007 được chồng lên nhau để so sánh. Sự thay đổi
hình thái sông cũng giống như ở đoạn sông cong, nghĩa là xói lở ở bờ lõm đoạn sông cong và
bồi lắng ở bên bờ lồi. Kết quả chi tiết thể hiện trên Bảng 1 cho các mặt cắt ngang khác nhau.
Một số nhận định được tóm tắt như sau
Bảng 1. Tính toán thể tích xói bồi trong mùa lũ (từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2007) tại đoạn
sông nhà thờ La San Mai Thôn
Khoảng
Diện tích (m2)
Thể tích (m3)
cách các
Mặt cắt
Xói (bờ
Bồi lắng (bờ
mặt cắt
lõm)
lồi)
(m)
Xói

Bồi
MC1
9 .64
114.91
MC2
50.83
59.30
62
1,874.50
5,400.37
MC3
14.76
54.80
61
2,000.54
3,479.93
MC4
36.88
85.60
65
1,678.31
4,562.88
MC5
50.59
174.81
56
2,449.04
7,291.37
MC6
16.09

149.35
55
1,833.76
8,914.28
MC7
15.96
132.68
60
961.52
8,460.90
MC8
18.07
45.80
65
1,105.86
5,800.56
MC9
29.18
80.83
56
1,323.01
3,545.62
MC10
27.74
80.65
47
1,337.80
3,794.90
Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04


Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 10 / 14


Mặt cắt

Diện tích (m2)
Xói (bờ
Bồi lắng (bờ
lõm)
lồi)
115.36
177.70
36.33
188.91
19.11
92.32
23.45
91.96
60.42
152.96
22.61
70.03
17.06
155.49
22.40
113.85
34.31
78.32

51.18
33.65
10.72
101.84

Khoảng
cách các
mặt cắt
(m) 48
43
48
55
55
39
64
50
58
63
61

Thể tích (m3)

Xói
MC11
3,434.41
MC12
3,261.27
MC13
1,330.63
MC14

1,170.44
MC15
2,306.43
MC16
1,619.12
MC17
1,269.36
MC18
986.34
MC19
1,644.47
MC20
2,692.82
MC21
1,887.91
36, 167.54
Cân bằng (Bồi lắng –Xói lở) (m3) trong mùa lũ 2007

5.

Bồi
6,200.44
7,882.14
6,749.70
5,067.77
6,735.26
4,348.27
7,216.47
6,733.41
5,572.90

3,527.16
4,132.46
115, 416.77
79, 249.24

-

Cao trình đáy hố xói hầu như không đổi

-

Chiều sâu xói tại bờ lõm và chiều dày bồi ở bờ lồi gần như bằng nhau, từ 0 đến 2 m.

-

Tổng thể tích bồi là 115,417 m3 trong khi tổng thể tích xói là 36,167 m 3. Điều này cho
thấy khoảng 80,000 m3 bùn cát được giữ lại tại đoạn sông này trong mùa lũ.
PHƯƠNG PHÁP THÍCH HỢP ỔN ĐỊNH MÁI DỐC BỜ SÔNG

5.1 Phân tích ổn định mái dốc
5.1.1 Phương pháp tính toán
Phân tích tính ổn định của mái dốc sử dụng chương trình SLOPE/W với phương pháp
Bishop đã được sử dụng rộng rãi cho cho hầu hết các công trình bảo vệ mái dốc.
5.1.2 Số liệu tính toán và kết quả tính
Số liệu địa chất sử dụng kết quả khảo sát địa kỹ thuật như đã trình bày trong mục 2.2.
Tính toán ổn định mái dốc được thiết lập cho tất cả các mặt cắt ở thượng và hạ lưu hố xói cho
đến vị trí có hệ số ổn định lớn hơn 1.15 (theo tiêu chuẩn tính toán hiện hành). Một mặt cắt
điển hình được mô tả trên Hình 15 với hệ số ổn định là 0.98. Kết quả của các mặt cắt khác
cho thấy từ mặt cắt 9 đến 15 (vào khoảng 325 m), hệ số ổn định nhỏ hơn 1, do đó cần thiết
phải gia cố công trình kè đã xây dựng khỏi bị xụp đổ.


Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 11 / 14


Hình 15. Tinh toán hệ số ổn định của mặt cắt 13, trường hợp hiện trạng
5.1.3 Lựa chọn giải pháp phù hợp
Bằng cách phân tích các thành phần tác động lên cung trượt cho thấy có vài biện pháp
để tăng hệ số ổn định chống trượt.
+ Tính chất cơ lý của đất có thể cải thiện bằng phương pháp nhân tạo. Phương pháp
này đưa sâu vào nền đất những vật liệu như xi măng, cát, vữa hoặc các chất khác. Tuy nhiên,
giải pháp này dù đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, nhưng ở Việt Nam mới
chỉ đang thử nghiệm, cho nên không đi sâu hơn vào phương pháp này
+ Gia tăng sức chống cắt của mặt trượt bằng cách đóng thêm cọc (thông thường là cọc
bê tông cốt thép) sâu hơn mặt trượt. Tuy nhiên, phương pháp này không thể ngăn cản xói lở
tiếp tục do dòng chảy xoắn ở đoạn sông cong, đo đó không chọn phương pháp này.
+ Gia tăng sức chống cắt của cung trượt bằng cách gia cố chân kè với các bao tải cát
và chồng lên lớp bao tải cát này lớp rọ đá bảo đảm mái dốc m=3 (xem Hình 16). Phương
pháp này đã được ứng dụng rộng rãi trong các điều kiện tương tự ở Việt Nam [ công trình bảo
vệ bờ sông tại Vĩnh Long, Sa Đéc, Tân Châu (trên sông Tiền), tại Long Xuyên ( trên sông
Hậu), là phương pháp thích hợp cho khu vực này.

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 12 / 14



Bao tải cát gia cố chân

Hình 16. Tính toán hệ số ổn định tại mặt cắt 11- gia cố bao tải cát tại chân kè và trải phủ mái
dốc bằng rọ đá
6.

THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN

Đối với trường hợp xói lở cục bộ trên đoạn sông cong, trên thế giới có nhiều biện pháp
bảo vệ bờ. Chúng có thể là các hệ thống mỏ hàn (cứng hay mềm) để đẩy dòng chảy không tấn
công vào bờ và cùng lúc đó lấy bùn cát tạo ra bồi lắng ở chân mái dốc.
Trong quá khứ, đã có hệ thống mỏ hàn cho nước xuyên qua áp dụng ở Việt Nam –
trường hợp công trình bảo vệ bờ sông ở Mỹ Thuận (sông Tiền – tỉnh Tiền Giang – Hình 17)
và công trình bảo vệ bờ ở Phan Rang (sông Dinh, Thị Xã Phan Rang- tỉnh Ninh Thuận – Hình
18). Trong thực tế, công trình ở Phan Rang rất thành công trong việc bẫy bùn cát ở chân mái
dốc trong khi công trình ở Mỹ Thuận không thể lấy được nhiều bùn cát do sông Cửu Long có
ít bùn cát hơn so với sông Dinh.

Cọc bê tông
Đáy sông

Hình 17. Cắt dọc mỏ hàn cho nước chảy qua tại công trình bảo vệ bờ sông tại Mỹ Thuận

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 13 / 14



Hình 18. Hệ thống mỏ hàn cọc cho nước chảy qua tại công trình bảo vệ bờ sông Dinh, Thị xa
Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận
Hơn nữa, sự phân bố bùn cát không cân bằng (thể tích bồi trừ thể tích xói) trong mùa
lũ 2007 lại tập trung ở phía bờ lồi, làm cho khả năng bẫy bùn cát để ổn định chân ở phía bờ
lõm khó khăn.
Phương pháp cải thiện tính chất cơ lý của đất nền nên được nghiên cứu sâu hơn và hệ
thống mỏ hàn cho nước chảy qua cần được thí nghiệm trong mô hình vật lý, hoặc là mô hình
toán 2 hoặc 3 chiều để có thể đạt độ tin cậy hơn.

Chuyên đề tiếng Anh
Nhóm : 04

Giáo viên hướng dẫn : Lâm Thị Lan Hương
trang 14 / 14



×