Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Luan van xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh nghệ an hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.38 KB, 122 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một thực trạng của quá trình phát triển kinh tế và hiện
hữu trong cuộc sống như một yếu tố lịch sử. Nó có thể sinh ra, tồn tại, phát
triển và cũng có thể mất đi ở mỗi con người, mỗi quốc gia hay mỗi xã hội.
Đói nghèo hiện vẫn đang tồn tại, bao vây cuộc sống của mỗi gia đình,
đe dọa con đường phát triển của mỗi quốc gia, thách thức cả nhân loại. Có thể
nói, đói nghèo đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục với mức độ khác
nhau, đặc biệt ở các nước lạc hậu, chậm phát triển.
Với hơn 50% dân số thế giới hiện nay đang phải sống dưới mức 2 USD
một ngày, việc xóa đói, giảm nghèo đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu, là
mục tiêu của thế kỷ XXI và thế giới đã lấy ngày 17 tháng 10 hằng năm là
"Ngày thế giới xóa đói, giảm nghèo".
Hồ Chủ tịch là người đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, chấm dứt sự khủng hoảng đường lối cứu
nước, mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh.
Chính Người đã khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông
nghiệp lạc hậu, chưa kinh qua chủ nghĩa tư bản, bị chiến tranh tàn phá, từng
bước làm cho "nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu, giàu thì giàu thêm" [33, tr. 62]
để đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn luôn chăm lo đến đời sống nhân
dân và đặc biệt chú ý đến vấn đề đói nghèo. Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người kiến lập và đặt nền móng tư tưởng vĩ đại "xóa đói,
giảm nghèo". Xóa đói, giảm nghèo là mục đích, một nội dung, một phương
hướng chiến lược lâu dài của chủ nghĩa xã hội, nó không phải là công việc
cứu tế, là sự ban ơn, mà là một cuộc cách mạng vĩ đại, bền bỉ, tận tâm, tận trí,



2

tận lực. Ngay từ những ngày đầu sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa
thành công, Chính phủ cách mạng lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu vừa được thành lập, ngày đêm phải đối phó với thù trong, giặc ngoài,
nhưng vẫn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo cuộc sống cho người
lao động nghèo khổ, lực lượng cơ bản của cách mạng vừa thoát khỏi cảnh nô
lệ, bị áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến vấn đề chống
đói. Người kêu gọi toàn dân cùng Chính phủ tập trung lực lượng để chống ba
thứ giặc: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, trong đó giặc đói được Người đặt
lên hàng đầu, vì vậy, diệt giặc đói là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách cần phải
giải quyết. Người nhấn mạnh: "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi" [35, tr. 572] và "dân đủ ăn đủ
mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu
dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay đến mấy thì cũng không
thể thực hiện được" [35, tr. 572].
Tiếp tục lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn nửa thế kỷ qua, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa đói, giảm nghèo đã trở thành
mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, một sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa cao cả mang tính nhân văn sâu sắc, một trọng điểm trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quyết sách
để xóa đói, giảm nghèo như: Cải cách ruộng đất; miễn giảm thuế; xây dựng
các công trình xã hội. Bước sang thời kỳ đổi mới, vấn đề xóa đói, giảm nghèo
vẫn luôn được thực hiện. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng
khẳng định: "Hơn bốn năm qua, để đáp ứng các nhu cầu của đời sống nhân
dân, chúng ta đã động viên và phát huy khả năng của toàn xã hội, khuyến
khích người lao động tăng thu nhập và làm giàu chính đáng" [16, tr. 31]. Đại
hội lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh:
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và

trợ cấp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo,


3

hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức
sống một cách bền vững; kết hợp chính sách nhà nước với sự giúp
đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá
giả cho người nghèo, hộ nghèo nhất là đối với vùng đặc biệt khó
khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo [19, tr. 217].
Qua hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, công tác xóa đói,
giảm nghèo đã được xã hội hóa, thu hút được sự tham gia của mọi cấp, mọi
ngành, của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. Thành tựu xóa đói, giảm nghèo của
Việt Nam đã được thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên, công cuộc xóa đói, giảm
nghèo ở nước ta hiện đang phải đối mặt với những khó khăn và thử thách lớn.
Thu nhập và mức chi dùng bình quân đầu người thấp; khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền có xu hướng
tăng; tỷ lệ hộ dân tái nghèo còn lớn, xóa đói, giảm nghèo thiếu tính bền vững.
Nghệ An là tỉnh nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, giáp tỉnh
Thanh Hóa về phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh về phía Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào về phía Tây và phía Đông giáp biển Đông. Với diện tích 16.487 km 2,
Nghệ An chiếm 5,1% diện tích tự nhiên của cả nước. Về dân số, Nghệ An là
địa phương đông dân thứ tư của Việt Nam với trên 3,1 triệu người. Mật độ dân
số 184 người/km2. Với 11/20 huyện, thị thuộc khu vực miền núi và núi cao, Nghệ
An là một tỉnh nghèo, có tỷ lệ hộ nghèo cao so với bình quân chung cả nước.
Trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân Nghệ An rất quan tâm
đến công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện nhiều chính sách, dự án xóa đói,
giảm nghèo và đã mang lại hiệu quả tích cực. Các chương trình, dự án phát
triển kinh tế - xã hội gắn với giảm nghèo trên địa bàn phát huy tốt, tạo điều
kiện thuận lợi cho hộ nghèo, xã nghèo vươn lên.

Rút kinh nghiệm thực hiện chương trình giảm nghèo thời kỳ 2001 2005; triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp thực hiện chương trình giảm
nghèo giai đoạn 2006 - 2010, từ năm 2006 đến nay, bình quân hàng năm giảm


4

trên 3% tỷ lệ hộ nghèo, tương đương hơn 18.000 hộ nghèo/năm, đưa tỷ lệ hộ
nghèo từ 27,14% vào đầu năm 2006 xuống còn 17,31% vào cuối năm 2008.
Số hộ thoát nghèo là 56.685, bằng 60% kế hoạch giai đoạn 2006 - 2010. Bên
cạnh những thành tựu đạt được, công tác xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An vẫn
còn những tồn tại. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh vẫn cao hơn so với bình quân của
cả nước; một số huyện miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 40%, trong đó có
3 huyện nằm trong tổng số 61 huyện của cả nước có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%
(Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong) [56]. Do vậy, tỉnh Nghệ An cần đẩy mạnh
hơn nữa việc thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo.
Trước yêu cầu đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm
nghèo cũng như thực trạng đói nghèo, công tác xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ
An, lý giải một cách khoa học cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề xóa đói, giảm
nghèo, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo để
đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn địa phương Nghệ An là yêu cầu
cấp thiết. Chính vì vậy, chúng tôi chọn "Xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Nghệ An
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xóa đói, giảm nghèo được xác định là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, một chủ trương lớn, một quyết
sách lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, chính vì thế đã được nhiều
người quan tâm nghiên cứu, thể hiện qua một số đề tài khoa học cũng như các
luận án, luận văn.
Về đề tài khoa học: Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội làm chủ trì:
- Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993);
- Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993);
- Xóa đói, giảm nghèo (Hà Nội, 1996);


5

Các đề tài khoa học trên đã cung cấp thông tin tổng quát về tình hình
đói nghèo ở Việt Nam, về tỷ lệ nghèo và khoảng cách nghèo, về chuẩn nghèo, từ
đó đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm xóa đói, giảm nghèo ở nước ta.
Về các luận văn, luận án:
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001;
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Đình Đàn: Những giải pháp kinh tế xã hội chủ yếu nhằm xóa đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Lô Xuân Vinh: Những giải pháp cơ bản
nhằm góp phần xóa đói, giảm nghèo ở các huyện miền núi vùng cao tỉnh
Nghệ An, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999;
- Luận văn cao cấp lý luận chính trị của Vi Văn Vân: Xóa đói, giảm
nghèo ở vùng các dân tộc thiểu số huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
Các luận án, luận văn nêu trên đã đánh giá khá đầy đủ về thực trạng
nghèo đói ở Việt Nam cũng như ở một số địa phương, trên cơ sở đó đề ra
những giải pháp cơ bản góp phần thực hiện tốt hơn công tác xóa đói, giảm
nghèo ở nước ta, đặc biệt luận án Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu
nhằm xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh của Trần Đình Đàn, luận văn Những giải
pháp cơ nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo ở các huyện miền núi vùng cao tỉnh
Nghệ An của Lô Xuân Vinh đã nêu ra phương hướng và những giải pháp thiết

thực có tính khả thi trong việc xóa đói, giảm nghèo. Đó là cơ sở để chúng tôi
tiếp thu, tham khảo, định hướng nghiên cứu cho đề tài luận văn của mình.
Một số sách và bài tạp chí:
- Hồ Chí Minh: Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb Thông tin lý luận,
Hà Nội, 1990;


6

- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh
với sự nghiệp giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006;
- Phạm Ngọc Anh (chủ biên): Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
- Nguyễn Huy Oánh: Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền
kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004;
- Nguyễn Thế Hinh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh
tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
- Cao Ngọc Thắng: Tư duy kinh tế Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007;
- Hà Quế Lâm: Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay - thực trạng và giải pháp, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2002;
- Toàn cầu hóa tăng trưởng và nghèo đói - xây dựng một nền kinh tế thế
giới hội nhập, (sách tham khảo), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002;
- Vũ Ngọc Phùng: Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;
- Nguyễn Túc: Xóa đói, giảm nghèo - một cống hiến to lớn của Hồ
Chí Minh cho người nghèo nước ta và thế giới (Nghiên cứu, học tập, vận

dụng tư tưởng, Hồ Chí Minh), Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
- PGS,TS Tạ Ngọc Tấn: Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển hợp
tác xã đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện nay (Tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác xã - những vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008;


7

Nhìn chung, các công trình trên đã tiếp cận và nghiên cứu vấn đề xóa
đói, giảm nghèo ở nhiều góc độ và địa phương khác nhau. Riêng tư tưởng Hồ
Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo thường gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh về
kinh tế, xã hội và thực hiện chính sách xã hội. Trong cuốn Bước đầu tìm hiểu
tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế của Phạm Ngọc Anh, tác giả nêu rõ quá
trình, hình thành, phát triển và đặc điểm bản chất của tư tưởng kinh tế Hồ Chí
Minh; những nội dung chủ yếu của tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh, trong đó
khẳng định: Nâng cao đời sống nhân dân - một nội dung cốt lõi của tư tưởng
kinh tế Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Huy Oánh trong cuốn Tư tưởng kinh tế
Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay đã đề cập tới nội dung: Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, phát
triển sản xuất để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.
Đây chính là một trong những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,
giảm nghèo. Nhưng nhìn chung, chưa có công trình nào nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo một cách có hệ thống cũng như vấn đề
xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Nghệ An dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì
vậy, đề tài mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu đã được công bố, các luận văn, luận án đã bảo vệ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ, hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,

giảm nghèo; thực trạng xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An, từ đó đưa ra các giải
pháp chủ yếu để góp phần thực hiện thành công chương trình xóa đói, giảm
nghèo trên địa bàn tỉnh theo tinh thần và phương pháp luận Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,
giảm nghèo;


8

- Đánh giá thực trạng công tác xóa đói, giảm nghèo hiện nay ở Nghệ An;
- Đề xuất các giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
- Hệ thống quan điểm được thể hiện trong những bài viết, bài phát
biểu, hoạt động của Hồ Chí Minh liên quan đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo.
- Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An
(thông qua báo cáo của các cơ quan chức năng ở Nghệ An, qua khảo sát tình
hình thực tế ở Nghệ An).
4.2. Phạm vi
- Xóa đói, giảm nghèo là một vấn đề vừa mang tính chất kinh tế, vừa
mang tính chất xã hội; trong luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
dưới góc độ khoa học xã hội nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Để đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện thành công chương
trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh, chúng tôi khảo sát tình hình công
tác xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An trong thời gian từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
mác-xít, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử - lôgíc; phương pháp so sánh,
phân tích và tổng hợp tài liệu; phương pháp khảo sát thực tiễn; gắn lý luận với
thực tiễn v.v...


9

6. Những đóng góp mới của luận văn
- Lần đầu tiên vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
được nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, từ đó khẳng định giá trị lý
luận cũng như thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo.
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xóa
đói, giảm nghèo của tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm góp
phần thực hiện thành công chương trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh
Nghệ An dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần khẳng định giá trị to lớn cũng như tính thời sự của tư
tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu nếu được áp dụng vào thực tiễn, chắc chắn sẽ
mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác xóa đói, giảm nghèo ở Nghệ An.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.



10

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO

1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Quan niệm về đói, nghèo
Đói, nghèo hiện nay không còn là vấn đề của mỗi quốc gia riêng biệt
mà đã trở thành vấn đề chung, mang tính toàn cầu. Xóa đói, giảm nghèo trở
thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhân loại.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, có tới 78 quốc gia thuộc nhóm các nước
nghèo và đang phát triển xây dựng chiến lược thoát nghèo toàn diện; trong đó
có gần 30 tổ chức quốc tế, bao gồm cả tổ chức đa phương, song phương xây
dựng chiến lược hỗ trợ các nước nghèo trong công cuộc chống nghèo, đói.
Tại Hội nghị cấp cao thiên niên kỷ của Liên hợp quốc với sự tham
gia của hơn 150 vị đứng đầu Nhà nước, Chính phủ, cùng nhiều quan chức
của tổ chức này đã ra Tuyên bố thiên niên kỷ, trong đó nêu rõ quyết tâm:
Giúp nhân dân các nước thoát khỏi cảnh nghèo đói, cùng cực, tạo dựng ở
các cấp độ quốc gia và toàn cầu môi trường thuận lợi cho phát triển và xóa
đói, giảm nghèo.
Quan niệm về đói, nghèo hay nhận dạng đói, nghèo của con người
ngày càng đa dạng và phong phú, mở rộng và đầy đủ hơn, nhưng cũng phải
khẳng định rằng chưa có một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về đói
nghèo, bởi vì bản thân quan niệm này cũng đã phải thay đổi rất nhanh chóng
trong suốt ba thập kỷ qua. Đầu những năm 70, đói nghèo chỉ được coi là đói
nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lõi và căn bản nhất để một người bị coi
là nghèo đói đó là sự "thiếu hụt" so với mức sống nhất định. Mức thiếu hụt
này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc vào không gian và
thời gian. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, mức sống của con người



11

ngày càng cao hơn, những nhu cầu cho cuộc sống ngày càng nhiều hơn và
quan niệm về nghèo đói cũng được mở rộng. Các yếu tố như nguồn lực người
nghèo, mối quan hệ xã hội, khả năng tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã
hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các rủi ro đã được đưa vào nội dung của
khái niệm đói nghèo. Trong báo cáo phát triển con người năm 1997, Chương
trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã đề cập đến khái niệm đói nghèo về
năng lực, khác với quan niệm đói nghèo về thu nhập. Theo đó, đói nghèo
được tính đến điều kiện khó khăn trong phát triển con người cơ bản. Trong
báo cáo về tình hình thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm
2003 đã nhấn mạnh sự cần thiết sử dụng phương pháp tiếp cận đói nghèo trên
cơ sở quyền lợi cơ bản của con người.
Ở Việt Nam, quan niệm nghèo đói cũng ngày được mở rộng. Nếu như
những năm 90, hỗ trợ người nghèo chỉ giới hạn đến các nhu cầu tối thiểu như
ăn no, mặc ấm thì ngày nay, người nghèo còn có nhu cầu hỗ trợ về nhà ở, giáo
dục, y tế, văn hóa… tức là nhu cầu giảm nghèo và phát triển.
Quan niệm về đói, nghèo hay nhận dạng về đói, nghèo của từng quốc
gia hay từng vùng, từng nhóm dân cư về cơ bản không có sự khác biệt đáng
kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi
tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau chủ yếu
là xác định mức độ thỏa mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc
vào yếu tố lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập
quán của từng vùng, từng quốc gia, dân tộc.
1.1.1.1. Quan niệm về nghèo
Có rất nhiều định nghĩa về nghèo của các học giả, các nhà khoa học
dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau. Chỉ tính riêng trong Từ điển
tiếng Việt năm 1994, đã có 18 định nghĩa về nghèo và các từ đồng nghĩa với

nghèo. Cho đến nay, khái niệm nghèo đươc dùng nhiều nhất là khái niệm
được đưa ra tại hội nghị bàn về giảm nghèo đói do Ủy ban kinh tế và xã hội


12

của Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tháng 9-1993 tại Băng Cốc Thái Lan.
Nghèo: là tình trạng một số bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển và phong tục tập quán của
từng địa phương.
Ở khái niệm trên, cần xem xét ba vấn đề sau:
Nhu cầu của con người bao gồm: Ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa,
đi lại và giao tiếp xã hội.
Nghèo khổ thay đổi theo thời gian: Thước đo nghèo khổ sẽ thay đổi
theo thời gian, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu cơ bản của con người sẽ
thay đổi theo và có xu hướng ngày một cao hơn.
Nghèo khổ thay đổi theo không gian: Thước đo nghèo khổ phụ thuộc
vào sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, của từng vùng.
Đây là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm mở, có tính
chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến
về nghèo. Các tiêu chí về mặt lượng hóa được bỏ ngỏ, bởi vì còn phải tính
đến sự khác biệt, chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và trình
độ phát triển của các vùng miền khác nhau. Khái niệm này sẽ được mở rộng
hơn theo sự phát triển của xã hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người
được mở rộng theo thời gian.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta đã đưa ra các khái niệm
nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuốc sống.

Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.


13

Nghèo tuyệt đối chủ yếu phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không
được thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu của con người, trước hết ăn, mặc, ở…
Nghèo tương đối lại phản ánh sự chênh lệch về mức sống của một bộ
phận dân cư khi so sánh mức sống trung bình của cộng đồng địa phương
trong một thời kỳ nhất định. Do đó, có thể xoá dần nghèo tuyệt đối, còn nghèo
trong đối luôn xảy ra trong xã hội, vấn đề quan tâm ở đây là rút ngắn khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo và hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu
tới mức thấp nhất tỷ lệ nghèo tương đối.
1.1.1.2. Quan niệm về đói
Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo về vật chất để duy trì cuộc sống.
Hay nói cách khác, đói là một nấc thang thấp nhất của nghèo.
Nghèo đói kinh niên: Là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền
cho đến thời điểm đang xét.
Nghèo đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đột xuất vì
nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa
nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống nghèo đói khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng
9/1993. Đồng thời, vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các
cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Do đó, ở nước ta
còn có một số khái niệm sau:

Hộ đói: Là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được
học hành đầy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát…
Hộ nghèo: Là hộ đói ăn không đủ bữa, mặc không đủ lành, không đủ
ấm, không có khả năng phát triển sản xuất…


14

Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những
cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm, nước sạch… trình độ
dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo: Là địa bàn tương đối rộng nằm ở khu vực khó khăn, hiểm
trở, giao thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Và còn nhiều khái niệm khác như: Nghèo không gian, nghèo thời gian,
nghèo môi trường, nghèo lứa tuổi… Tất cả chỉ xác định rõ hơn đặc điểm, mức
độ, nguyên nhân của các đối tượng nghèo và từ đó có các giải pháp thích hợp
cho từng đối tượng nghèo khác nhau.
Như vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện
như: Thu nhập bị hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm
bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến,
ít được tham gia vào quá trình ra quyết định… Đói nghèo có nguồn gốc căn
nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc
gia trong quá trình phát triển, đói nghèo thực chất là hiện tượng kinh tế - xã
hội phức tạp, chứ không thuần túy là vấn đề kinh tế cho dù các tiêu chí đánh
giá của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi
nghiên cứu những tác động ảnh hưởng đến thực trạng, xu hướng, cách thức
giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá những tác động của nhân tố
chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; có như vậy mới đề ra các giải
pháp đồng bộ cho công tác xóa đói, giảm nghèo ở nước ta.
1.1.2. Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo

1.1.2.1. Khái niệm xóa đói, giảm nghèo
Hộ nghèo, xã nghèo là những thuật ngữ đã được người dân Việt Nam
sử dụng từ ngàn đời xưa, còn thuật ngữ xóa đói, giảm nghèo chỉ mới xuất
hiện trong những năm gần đây.
Giảm nghèo hay xóa đói, giảm nghèo chính là làm cho bộ phận dân
cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo, biểu


15

hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói cách khác,
giảm nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên một mức
sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện
lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt
của mỗi người.
Khi ta nói giảm nghèo thì trong đó đã bao hàm xóa đói và khái niệm
giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi, nghèo có thể tái sinh hoặc khi khái niệm
nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Do đó, việc đánh giá mức độ giảm nghèo
phải được đánh giá trong một thời gian và không gian nhất định.
Giảm nghèo là một phạm trù mang tính lịch sử, do đó, chỉ có thể từng
bước giảm nghèo, chứ chưa thể xóa sạch được nghèo. Chỉ khi nào xã hội loài
người đạt tới trình độ xã hội cộng sản như chủ nghĩa Mác - Lênin dự đoán thì
hiện tượng nghèo sẽ không còn nữa và giảm nghèo cũng không còn.
Do cách đánh giá và nhìn nhận nguồn gốc khác nhau nên cũng có
nhiều quan niệm về giảm nghèo khác nhau. Ở nước ta hiện nay, nghèo đói
không phải do bóc lột của giai cấp tư sản và địa chủ đối với lao động như
trước đây mà do nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế lạc hậu kém phát triển sang nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế
này, tồn tại và đan xen nhiều trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất

cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng
vai trò chủ đạo, thay thế các trình độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến sự giàu,
nghèo khác nhau trong các tầng lớp dân cư.
Như vậy, xóa đói, giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện
quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã
hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo, xóa đói, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện
giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển


16

một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó, họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn để
từng bước thoát ra khỏi tình trạng nghèo.
Trong tiến trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
có mối quan hệ biện chứng. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật
chất để xóa đói giảm nghèo. Ngược lại, xóa đói giảm nghèo là nhân tố đảm
bảo sự tăng trưởng kinh tế mang tính bền vững. Tuy nhiên, trong mối quan hệ
này, xóa đói, giảm nghèo vẫn là yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào yếu tố
tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế, nếu tăng trưởng kinh tế chịu tác động
của các quy luật kinh tế như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh,
lợi nhuận, năng suất lao động… thì xóa đói, giảm nghèo lại chịu sự tác động
của quy luật phân hóa giàu nghèo, vấn đề phân phối và thu nhập, vấn đề lao
động và việc làm, các chính sách xã hội… Trong quá trình vận động, các quy
luật, yếu tố tác động lên tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo theo
nhiều chiều hướng, có khi trái ngược nhau. Do vậy, để đảm bảo được tăng
trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo đòi hỏi Nhà nước có sự can thiệp sao
cho sự tác động của các quy luật có hướng đồng thuận. Đây là vấn đề không
hề đơn giản và không phải quốc gia nào cũng làm được.
1.1.2.2. Xóa đói, giảm nghèo là một yêu cầu cấp thiết để phát triển

đất nước bền vững
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, nó vừa là vấn đề lịch sử
để lại, vừa là vấn đề phát triển mà hầu hết các quốc gia đều vấp phải. Nó đụng
chạm trực tiếp đến cuộc sống con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng
xã hội. Mỗi quốc gia, ở các mức độ phát triển khác nhau, đều phải quan tâm
giải quyết vấn đề đói, nghèo để vượt qua những trở ngại của sự phát triển nhằm
vươn tới sự phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới công bằng xã hội.
Hiện nay, nghèo đói đã, đang diễn ra trên quy mô lớn và hậu quả của
nó tác động đến mọi vấn đề trong đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, xã
hội và môi trường sinh thái. Nó có ảnh hưởng không chỉ đối với các quốc gia


17

nghèo mà còn có nguy cơ lan rộng và tác động toàn cầu như tàn phá môi
trường sinh thái, vấn đề di dân quốc tế ồ ạt, tiêu cực xã hội lan rộng v.v... Vì
vậy, sự nghiệp chống nghèo đói không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối
với các nước phát triển. Để giải quyết vấn đề nghèo, đói cần thiết phải có
quan niệm đúng về nghèo đói. Tại khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên
hợp quốc về phát triển xã hội, tháng 6 năm 2000, tại Gơnevơ - Thụy Sỹ, các
thành viên đã thống nhất cam kết, phấn đấu giảm một nửa số người nghèo
trên thế giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "Tấn
công vào nghèo đói" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện
về xóa đói, giảm nghèo. Tại Hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000,
Liên hợp quốc, một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những
mục tiêu ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI.
Đói nghèo, bệnh tật và lạc hậu thường đi liền với nhau, là một trong
những vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà cộng đồng quốc tế phải cùng hợp sức
giải quyết. Xóa đói, giảm nghèo không phải chỉ là một giải pháp tình thế mà
nó là một chương trình trong toàn bộ chiến lược phát triển của đất nước. Thực

hiện xóa đói, giảm nghèo không chỉ bằng cách tăng trưởng kinh tế, mà còn
phải thực hiện công bằng xã hội. Về thực chất, nó nằm trong tiến trình cải tạo
sâu sắc về mọi mặt đời sống xã hội. Nếu nói đói nghèo là lực cản của phát
triển, thì xóa đói, giảm nghèo là con đường phá vỡ lực cản đó, tạo tiền đề cho
sự phát triển.
Xóa đói, giảm nghèo còn là yêu cầu cần thiết ổn định chính trị, xã hội.
Ở nước ta hiện nay, có trên 90% số hộ nghèo tập trung ở vùng nông thôn, nhất
là vùng trung du, miền núi; trong đó số hộ nghèo là vùng dân tộc ít người và
những hộ thuộc diện chính sách phải ưu tiên chiếm tỷ lệ khá cao. Trong
những năm gần đây, một số vấn đề về chính trị, xã hội ở vùng miền núi và
những nơi khó khăn diễn biến phức tạp. Tình trạng một số tổ chức phản động
khôi phục, chống phá, truyền đạo bất hợp pháp và nạn mê tín gia tăng, nếu
gắn với nghèo đói thường xuyên sẽ có nguy cơ tạo nên sự mất ổn định chính


18

trị. Điều đó có nghĩa là xóa đói, giảm nghèo ở nước ta không đơn thuần là một
chương trình kinh tế mà còn là chương trình mang ý nghĩa ổn định chính trị, xã
hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ.
Ở khía cạnh khác, nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội
và chính trị: Các tệ nạn xã hội phát sinh như: Trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại
dâm... đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất
định có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết,
tỷ lệ và cấp độ của nghèo vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả mất ổn
định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt là nguy cơ "diễn
biến hòa bình" và chiến tranh biên giới mềm.
Đói nghèo liên quan đến toàn bộ các mối quan hệ kinh tế, xã hội. Nếu
không giải quyết vấn đề đói nghèo sẽ nẩy sinh các hiện tượng gây mất ổn
định xã hội, ảnh hưởng xấu tới chính trị. Phân hóa giàu, nghèo đến một mức

độ nào đó, sẽ trở thành phân hóa giai cấp, xung đột xã hội, nguy cơ làm chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, bản thân sự đói nghèo đã bao hàm nội
dung kinh tế. Vì vậy, xóa đói, giảm nghèo là một yêu cầu cấp thiết để phát
triển đất nước bền vững.
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo. Xóa đói, giảm nghèo được coi là mục tiêu
xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngay từ
khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu cơ bản trong
hoạt động của mình là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa
để đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân.
Xóa đói, giảm nghèo vừa là một nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, vừa là
nhiệm vụ cơ bản lâu dài trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước ta, bởi vì, sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn luôn đặt ra
mục tiêu: Mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống
của nhân dân. Chính vì thế, đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống đạo


19

lý của dân tộc "thương người như thể thương thân" mà còn là nhiệm vụ để
đảm bảo ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xóa đói,
giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động
mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thoát nghèo.
Xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng
kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng
tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực
lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn "cất cánh".
Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế tăng
trưởng bước đầu đã tạo việc làm, nguồn vốn và cơ hội vươn lên cho người
nghèo. Hàng loạt các chính sách quốc gia về giải quyết việc làm và xóa đói,

giảm nghèo được ban hành và hoàn thiện, cùng với các chương trình hành
động cụ thể như: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở những xã đặc biệt
khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương trình phủ
xanh đất trống, đồi trọc (Chương trình 137); Chương trình quốc gia xúc tiến
việc làm (Chương trình 120); thành lập quỹ xóa đói, giảm nghèo, cùng rất
nhiều chương trình, dự án hỗ trợ về nước sạch, và vệ sinh môi trường, dân số,
dinh dưỡng…
Qua hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, công tác xóa đói,
giảm nghèo đã được xã hội hóa, thu hút sự tham gia của mọi cấp, mọi ngành,
của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thành tựu xóa đói, giảm nghèo của Việt
Nam đã được thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên, công cuộc xóa đói, giảm
nghèo của Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn và thử
thách lớn. Thu nhập và mức chi dùng bình quân đầu người thấp; khoảng cách
chênh lệch giữa giàu, nghèo; giữa thành thị, nông thôn; giữa các vùng miền
có xu hướng tăng; tỷ lệ hộ dân tái nghèo còn lớn, xóa đói, giảm nghèo thiếu
tính bền vững. Bởi vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xóa
đói, giảm nghèo. Xóa đói, giảm nghèo là một yêu cầu cấp thiết để phát triển
đất nước bền vững.


20

1.2. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO

1.2.1. Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về xóa đói, giảm nghèo
1.2.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
* Cơ sở lý luận
- Quan niệm của dân tộc ta về chống đói nghèo, về quá trình vật lộn

thoát nghèo.
Đói, nghèo là một thực trạng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nó hiện hữu trong cuộc sống như là một yếu tố lịch sử. Lịch sử dựng nước và
giữ nước của Việt Nam cho thấy dân tộc ta cũng đã và đang phải đấu tranh
chống lại đói nghèo, vươn lên thoát khỏi cái nghèo.
Việt Nam là một quốc gia ở khu vực Đông Nam châu Á, với 54 dân tộc
anh em sinh sống trên một địa bàn mà thiên nhiên vừa ưu đãi, lại vừa khắc nghiệt.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, có khí hậu nắng ẩm mưa nhiều, đất đai rất
thích hợp với việc trồng lúa nước và phát triển của nhiều loài động, thực vật.
Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội đó cùng với cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm trong hàng nghìn năm đã tạo nên những đặc trưng cơ bản
của một dân tộc mà nông dân chiếm đại đa số.
Sinh sống trong điều kiện thiên nhiên vừa ưu đãi, vừa khắc nghiệt đã
tạo cho người Việt Nam đức tính cần cù, thông minh trong việc chống thiên
tai để tồn tại và phát triển, để xóa cái đói, giảm cái nghèo. Nhân dân ta đã anh
dũng chế ngự thiên nhiên, cải tạo điều kiện sống, bảo vệ tính trường tồn và
phát triển của dân tộc. Những câu ca dao, tục ngữ như "Nước lụt thì lút cả
làng/ Hễ mà có lụt thiếp chàng cùng lo", hay "Thuận vợ thuận chồng tát biển
Đông cũng cạn", "Thuận bầu thuận bạn tát cạn biển Đông"… nói lên quá trình
vật lộn chống thiên tai của người dân Việt Nam.


21

Thiên nhiên vừa ưu đãi, vừa khắc nghiệt, đức tính cần cù, thông minh
dũng cảm đã hun đúc nên ở người Việt Nam tư duy sản xuất giàu tính sáng
tạo, để vượt qua nghèo đói. Với những kinh nghiệm tổng hợp về kỹ thuật
canh tác, về thiên văn, thủy lợi, kỹ thuật nông nghiệp cổ truyền Việt Nam
được đúc kết thành 4 khâu cơ bản là: Nước, phân, cần, giống có giá trị khoa
học mà sau này còn phát triển. Những câu ca dao "Chớ thấy sóng cả mà ngã

tay chèo", "Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn", hay "Được mùa
chớ phụ ngô khoai, đến khi thất bát lấy ai bạn cùng" đã nói lên đức tính siêng
năng, cần cù, vượt khó trong tăng gia, sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng của
con người Việt Nam.
Bên cạnh khó khăn do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước, người Việt Nam luôn luôn phải đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, để giữ vững độc lập chủ quyền của Tổ quốc. Với tinh thần
yêu nước nồng nàn, ý chí tự lập tự cường, anh dũng kiên cường bất khuất, con
người Việt Nam đã vượt qua bao khó khăn, đánh tan kẻ thù xâm lược, bảo vệ
nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.
Người Việt Nam không chỉ bất khuất, kiên trung đấu tranh trong chống
giặc ngoại xâm; thông minh, cần cù trong lao động sản xuất mà còn là những
con người có tinh thần đoàn kết, sống nhân ái, thủy chung có nghĩa, có tình,
có trước, có sau. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc "uống nước nhớ
nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", "lá lành đùm lá rách", nhân hậu, thủy chung…
luôn được giữ gìn, bồi đắp từ đời này qua đời khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, học tập, hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải gắn bó chặt chẽ với truyền thống dân tộc; không thể nói đã thấm nhuần
chủ nghĩa Mác - Lênin mà lại không có sự hiểu biết về truyền thống của chính
dân tộc mình. Người nói:
Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế.
Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp


22

hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu,
bốn biển một nhà. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau
có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình,
có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được [40, tr. 554].

Có thể nói rằng, trong quá trình dựng nước và giữ nước, người Việt
Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, trước sự khắc nghiệt của thiên
nhiên, sự xâm lược của ngoại bang… nhưng với tinh thần yêu nước sâu sắc,
với những đức tính tốt đẹp như: Thông minh, cần cù, chịu khó… con người
Việt Nam đã vượt qua tất cả để tồn tại và phát triển. Trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, những con người Việt Nam đang vượt qua
những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, để có được cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, xóa sạch đói nghèo.
Quá trình vật lộn với thiên tai khắc nghiệt, đấu tranh chống giặc ngoại
xâm để vươn lên thoát khỏi cái đói, nghèo đã hình thành nên những kinh
nghiệm quý báu trong quá trình dựng nước và giữ nước cho dân tộc Việt Nam
và đây cũng chính là một trong những cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về xóa đói, giảm nghèo.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chống đói nghèo, lạc hậu;
giải phóng quần chúng lao động thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu, phân tích xã hội tư bản để chỉ
ra những quy luật vận động và phát triển của nó, đồng thời đã đề cập một
cách khá toàn diện và sâu sắc tình cảnh nghèo đói và bị bóc lột đến cùng cực
của giai cấp vô sản và những người làm thuê trong chủ nghĩa tư bản. Trong
các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã mô tả cặn kẽ, xác thực tình
cảnh nghèo đói của những người vô sản phải bán sức lao động cho chủ nghĩa tư
bản để kiếm sống. Phụ nữ và trẻ em phải làm việc đến kiệt sức trong các xưởng
thợ; nông dân bị cưỡng đoạt ruộng đất, mất hết tư liệu sản xuất… Họ trở thành
nạn nhân của tình trạng bị bóc lột giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng


23

dư tuyệt đối của các chủ tư bản trong các thời kỳ tích lũy nguyên thủy và thời
kỳ cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, nguồn

gốc trực tiếp dẫn đến tình trạng nghèo đói ở đây là phương thức phân phối giá
trị thặng dư trong xã hội một cách bất công giữa nhà tư bản và người lao
động, người lao động chỉ được hưởng một phần giá trị vừa đủ để anh ta tiếp
tục sản xuất, còn bao nhiêu của cải đều thuộc về nhà tư bản, những người không
lao động trực tiếp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất của tình trạng nghèo đói
trong chủ nghĩa tư bản chính là ở chỗ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, ở chế độ áp bức bóc lột và tình trạng nô dịch con người. C. Mác
và Ph. Ăngghen cũng chỉ ra rằng chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu, bóc lột mới có thể
giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm
than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và làm chủ, tiến tới một xã
hội công bằng, văn minh, đạt được sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội.
Tiếp đến, V.I.Lênin đã phân tích những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay
gắt trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX;
qua đó ông nhận thấy, nghèo khổ không chỉ ở các nước tư bản mà còn ở trong
các nước thuộc địa, phụ thuộc, các dân tộc bị áp bức. V.I. Lênin cho rằng,
muốn giải phóng toàn bộ giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa tư bản phải tiến hành cách mạng vô sản do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917,
trong bước chuyển từ "Chính sách cộng sản thời chiến" sang "Chính sách
kinh tế mới", Lênin là người chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa, dùng lợi
ích vật chất, coi đó như một đòn bẩy kinh tế, để khuyến khích người lao động,
giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế.
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử. Nó có thể sinh ra, tồn tại, phát triển
và cũng có thể mất đi.Vậy đến khi nào sẽ không còn đói nghèo nữa?
Học thuyết Mác - Lênin dự báo rằng: Xã hội loài người sẽ trải qua hai
giai đoạn nữa: Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn xã hội


24


chủ nghĩa, lao động và phân phối được thực hiện theo nguyên tắc "làm theo
năng lực, hưởng theo lao động", ở giai đoạn này vẫn còn đói nghèo. Trong
giai đoạn thứ hai, giai đoạn cộng sản chủ nghĩa, khi mà trong xã hội của cải
tuôn ra dào dạt như nước, lúc đó lao động của con người và phân phối của cải
trong xã hội sẽ theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", và
đói nghèo sẽ tự tiêu vong. Tất nhiên, nghèo đói chỉ được hiểu theo nghĩa vật
chất, chứ không được hiểu theo nghĩa tinh thần.
Đói, nghèo không thể tồn tại đồng hành với chủ nghĩa cộng sản. Ở chủ
nghĩa tư bản, C. Mác đã chỉ rõ ở đó có sự bóc lột thậm tệ của giai cấp tư sản
đối với người công nhân, đưa người công nhân đến bần cùng, cùng cực và đói
nghèo nên đã tạo thành mâu thuẫn đối kháng, làm cơ sở tiêu diệt chủ nghĩa tư
bản và tạo ra một xã hội mới, chủ nghĩa xã hội tươi đẹp hơn. Ở chủ nghĩa xã
hội, đói nghèo sẽ từng bước được xóa bỏ, dần dần đưa đến ấm no và hạnh
phúc cho mọi người. Do vậy, để có chủ nghĩa xã hội, một trong những nhiệm
vụ quan trọng chính là tiêu diệt đói, nghèo. Xóa đói, giảm nghèo vừa là một
đòi hỏi tất yếu khách quan, vừa là một đòi hỏi tự thân và cấp bách cho sự hình
thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội.
* Cơ sở thực tiễn
- Thực tiễn đói nghèo của người Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi hoàn thành cuộc vũ trang xâm lược, xác lập
ách thống trị ở Đông Dương, đế quốc Pháp thi hành ở Việt Nam chính sách
kinh tế hết sức bảo thủ, tàn bạo và phản động. Chúng duy trì phương thức sản
xuất phong kiến với việc thiết lập rất hạn chế phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ là nền kinh tế thuộc địa,
mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, đồng thời có một số
yếu tố tiền tư bản chủ nghĩa.
Duy trì phương thức sản xuất phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu
ở xứ An Nam thuộc địa, thực dân Pháp vừa đạt được mục tiêu khai thác thuộc



25

địa mà không phải đầu tư tư bản, vừa kìm hãm kinh tế thuộc địa phát triển,
vừa có chỗ dựa là giai cấp địa chủ phong kiến để dễ bề thống trị, bóc lột.
Đồng thời với bóc lột kinh tế thuộc địa từ nông nghiệp, nông thôn và
từ tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam, thực dân Pháp còn thi hành chính
sách độc quyền về kinh tế. Mặt khác, chúng còn đặc biệt coi trọng chế độ bóc
lột bằng các thứ thuế: Thuế thân, thuế ruộng, thuế chợ, thuế đò, thuế vỉa hè,
thuế môn bài…
Chính sách tước đoạt và độc quyền kinh tế của thực dân Pháp làm cho
nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào kinh tế của nước Pháp, không thể phát
triển độc lập và toàn diện được, mang tính chất tư bản thực dân - phong kiến.
Trong nền kinh tế này, số lượng nông dân phải bỏ ruộng, thợ thủ công phải bỏ
nghề, tư sản dân tộc bị chèn ép rồi phá sản ngày càng nhiều, đời sống nhân
dân Việt Nam, nhất là nhân dân lao động rơi vào tình trạng đói nghèo, cùng cực.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, công nhân, nông dân, học sinh,
công chức và tư sản dân tộc Việt Nam không có quyền chính trị, không có
quyền tự do, sống một cuộc sống nghèo nàn, khổ cực. Công nhân Việt Nam
làm nhiều giờ, tiền lương ít, nạn thất nghiệp lại thường xẩy ra. Nông dân thì
nghèo khổ đã sẵn, lại bị sưu cao, thuế nặng, dẫn đến tình trạng phải bán vợ đợ
con, nếu gặp hạn hán bão lụt là chết đói đầy đường. Giai cấp tiểu tư sản đỡ
hơn nhưng cũng không thể sung sướng trong lúc cả nước bần cùng. Giai cấp
tư sản dân tộc cũng bị đế quốc và phong kiến đè nén, ngăn trở nên cuộc sống
cũng bấp bênh và thường dễ phá sản.
Có thể nói rằng, chính sách bóc lột của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân
ta vào một cảnh sống nghèo nàn, thiếu thốn, bần cùng, lạc hậu.
- Thực tiễn đói nghèo của người Việt Nam sau cách mạng tháng Tám.
Sau cách mạng tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới thành lập đã
phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Thử thách,
khó khăn đó chính là giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.



×