Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN VĂN:Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai: Thực trạng và giải pháp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 119 trang )





LUẬN VĂN:

Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai:
Thực trạng và giải pháp









MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ, nhân loại đó tiến dài trong lịch sử phỏt triển của mỡnh. Trong thời
đại mới này, con người dường như không cũn cảm giỏc chớnh xác về khoảng cách không
gian và thời gian nhờ có hệ thống thông tin nối mạng toàn cầu. Con người không chỉ đi
du lịch khắp năm châu bốn biển bằng các phương tiện vận tải bỡnh thường mà có thể đi
thăm các hành tinh khác nhờ tàu vũ trụ. Đặc biệt hơn con người không thể tin được rằng
chính mỡnh lại cú thể sinh sản bằng một phương pháp mới - sinh sản vô tính.
Trong rất nhiều sự thật mới mẻ ấy, thế giới vẫn phải đón chịu một sự thật cố hữu,
một bất công, một nghịch lý trong cuộc sống, đó là đói nghèo.
Đói nghèo vẫn đang tồn tại, bao vây cuộc sống của mỗi gia đỡnh, đe dọa con
đường phát triển của mọi quốc gia, thách thức cả nhân loại.


Thực tế hiện nay gần 1/3 dân số thế giới sống trong nghèo khổ, ở các nước đang
phát triển, trong đó khoảng 800 triệu người không đủ ăn, và khoảng 500 triệu người thiếu
ăn thường xuyên. Ở các nước phát triển cũng có hơn 100 triệu người đang sống dưới mức
nghèo khổ và 5 triệu người không có nhà ở. Ngày nay giải quyết đói nghèo luôn là một
vấn đề hàng đầu của mỗi quốc gia, bởi họ luôn hiểu được rằng: Một quốc gia nghèo đói
là một quốc gia yếu kém, đói nghèo làm cho bất ổn trong nước và lệ thuộc vào nước
ngoài, nguy hại hơn nữa đói nghèo có thể dẫn đến bờ vực thẳm của sự diệt vong một dân
tộc.
Ở Việt Nam sau gần 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội
chủ nghĩa (XHCN), nền kinh tế nước ta đó đạt nhiều thành tựu to lớn, số dân cư giàu có
và trung lưu ngày một gia tăng nhưng vẫn cũn một bộ phận khụng nhỏ dõn cư nghèo đói.
Theo Báo cáo phát triển con người năm 2003 của Liên hợp quốc, Việt Nam đang
xếp thứ 39 trong tổng số 94 nước đang phát triển về chỉ số nghèo tổng hợp (HPI), 109

trong số 175 nước về chỉ số phát triển con người (HDI) và thứ 89 trong số 144 nước về
chỉ số phát triển thế giới (GDI).
Cũng theo tiêu chuẩn quốc tế và số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), tỉ lệ đói
nghèo của Việt Nam là khá cao: 70% năm 1990; 37,4% năm 1997; 32% năm 2000 và
28,9% năm 2002. Theo tiêu chuẩn của Việt Nam, nước ta năm 2000 vẫn cũn khoảng 2,8
triệu hộ nghốo, chiếm khoảng 17,2% dõn số. Đến cuối năm 2003 con số này giảm xuống
cũn 1,86 triệu hộ. Theo đánh giá của các nhóm công tác chuyên gia Chính phủ cho thấy:
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn, hiện nay có 90% số người nghèo sinh
sống ở nông thôn, 80% số người nghèo là nông dân và 64% số người nghèo của Việt
Nam tập trung tại các vùng miền núi.
Gia Lai là một tỉnh miền nỳi nghốo của Tõy Nguyờn. Gia Lai cú 82 xó của 15
huyện thị thuộc diện đặc biệt khó khăn (ĐBKK), phần lớn số hộ đói nghèo là nông dân
và đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Đói nghèo ở Gia Lai không chỉ đơn thuần dừng lại
ở vấn đề kinh tế mà nó đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến vấn đề văn hóa, dân tộc, tôn giáo,
chính trị của Tỉnh. Nghiên cứu vấn đề đói nghèo ở Gia Lai trở nên vô cùng cần thiết, vỡ
vậy tỏc giả đó chọn đề tài: "Xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai: Thực trạng và giải

pháp" để làm luận văn tốt nghiệp của mỡnh.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài
Nghèo đói là một hiện tượng rất phổ biến trong phạm vi cả thế giới, cho nên vấn
đề này đó được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Cho đến nay ở Việt Nam đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu, nhiều luận văn tốt
nghiệp đó đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo (XĐGN), trong đó có các công trỡnh
như:
Cỏc cụng trỡnh do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội làm chủ biên có:
- Đói nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993);
- Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993);
- Xóa đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996);

- Xóa đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997).
Về luận văn, luận án có các công trỡnh sau:
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn nước ta hiện nay, 1999;
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001;
- Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn đề cập đến vấn đề đói nghèo dưới các góc độ
khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trỡnh nghiờn cứu nào đề cập
đến vấn đề đói nghèo ở Gia Lai dưới góc độ kinh tế chính trị. Vỡ vậy, đề tài mà tác giả
lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trỡnh nghiờn cứu đó cụng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Luận văn làm rừ thực trạng và nguyờn nhõn đói nghèo của tỉnh Gia Lai hiện nay, từ
đó đưa ra các giải pháp chủ yếu góp phần XĐGN trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ
- Khái quát một số luận điểm về đói nghèo, tiêu chuẩn về đói nghèo của quốc tế

và trong nước.
- Tập trung phân tích thực trạng đói nghèo của tỉnh Gia Lai hiện nay và chỉ ra
những nguyên nhân cơ bản gây nên đói nghèo của Tỉnh.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc giải quyết vấn đề XĐGN của tỉnh Gia
Lai trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị và tập trung
nghiên cứu thực trạng tỡnh hỡnh đói nghèo của tỉnh Gia Lai trong giai đoạn từ 2001 đến
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chớnh trị Mỏc - Lờnin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về XĐGN của Đảng, Nhà
nước và của Đảng bộ tỉnh Gia Lai để nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết hợp các
phương pháp khác để nghiên cứu như điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh, tổng hợp, khái
quát, hệ thống
6. Những đóng góp của luận văn
Phân tích, đánh giá thực trạng đói nghèo ở Gia Lai và đưa ra các giải pháp chủ
yếu nhằm góp phần giải quyết vấn đề đói nghèo của Tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính
sách XĐGN trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề XĐGN ở các
địa bàn có đặc thù tương tự như Gia Lai, làm tư liệu giảng dạy và nghiên cứu môn kinh tế
chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

1.1. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Quỏ trỡnh nhận thức về đói nghèo
1.1.1.1. Bản chất của đói nghèo qua các thời kỳ lịch sử
Đói nghốo là một thực trạng của quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế, xó hội, nú hiện hữu
trong cuộc sống như một yếu tố lịch sử, có thể sinh ra, tồn tại, phát triển và cũng có thể
mất đi ở mỗi con người, mỗi gia đỡnh, mỗi quốc gia hay mỗi xó hội.
Thời kỳ cộng sản nguyên thủy, con người vừa được tách ra khỏi thế giới động vật
đó tập hợp nhau lại để trở thành một tổ chức xó hội sơ khai. Tổ chức xó hội này chưa có
giai cấp, chưa có áp bức bóc lột, mọi người sống với nhau rất hũa thuận, cựng làm cựng
hưởng, không hề có sự chiếm đoạt của cải dư thừa thành của riêng, thành chiếm hữu tư
nhân để sinh ra bóc lột, áp bức và vì thế cũng chưa xuất hiện khái niệm giàu nghèo trong
cuộc sống của họ. Tuy nhiên cuộc sống săn bắt, hái lượm ấy, chỉ với một vài công cụ thô
sơ như cái gậy, hũn đá thỡ cũn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiờn và thường xuyên xảy ra
tỡnh trạng no quỏ khi cú nhiều thức ăn, đói quá khi thức ăn khan hiếm. Như vậy ý niệm
về no đói đó xuất hiện trước ý niệm giàu nghốo trong xó hội cộng sản nguyờn thủy. Ở
đây nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội là điển hỡnh sự thống trị của tự
nhiờn đối với con người.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ chỉ được coi như một thứ hàng hóa,
một công cụ sản xuất biết nói có thể trao đổi trên thị trường. Trong chế độ phong kiến,
người lao động tuy được tự do về thân thể nhưng cũng chỉ là kẻ đi cày thuê cuốc mướn
cho địa chủ phong kiến để kiếm miếng cơm, manh áo qua ngày. Trong xó hội lỳc này hầu
hết người lao động đều là người nghèo, đều là hệ quả áp bức xó hội của chế độ người bóc
lột người. Chính vỡ thế mà sự giàu cú của cực này dựa trên sự bóc lột, sự bần cùng hóa

của cực khác. Những chủ nô, địa chủ phong kiến càng giàu lên thỡ những người lao động

càng nghèo đi.
Trong chủ nghĩa tư bản, những người lao động, những công nhân làm thuê cho
chủ tư bản cũng chính là những người đó bị cưỡng đoạt ruộng đất, mất hết tư liệu sản
xuất phải chạy ra các đô thị, bổ sung vào đội quân thất nghiệp. Họ trở thành nạn nhân của
tỡnh trạng búc lột giỏ trị thặng dư tuyệt đối và tương đối của chủ nghĩa tư bản. Thông
qua máy móc, người công nhân bị bóc lột một cách tàn nhẫn, tinh vi hơn bao giờ hết. Kết
quả là, chỉ trong một vài năm mà số lượng hàng hóa do chế độ tư bản làm ra "bằng tất cả
các thế hệ trước cộng lại". Cũng theo C.Mỏc thỡ suy cho cựng, toàn bộ hàng húa của chủ
nghĩa tư bản đều là do lao động thặng dư của công nhân mà có, bởi vỡ số tài sản của giai
cấp tư sản nếu có trước đó cũng bị chi vào tiêu dùng cá nhân hết từ lâu rồi. Hậu quả của
chế độ bóc lột tàn bạo này đó dẫn tới sự phõn húa sõu sắc hai cực: Tớch lũy sự giàu cú
tột độ ở phía thiểu số, giai cấp tư sản. Tích lũy sự nghèo đói ở phía đa số, những người
lao động. Hơn thế nữa, sự phân hóa giàu nghèo đó được đẩy lên thành sự phân hóa giai
cấp. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ngày càng cao không
thể dung hũa được. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thỡ nguồn gốc trực tiếp dẫn đến tỡnh
trạng nghốo đói ở đây là phương thức phân phối phần giá trị thặng dư của xó hội cho giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản là không công bằng, người lao động chỉ được hưởng một
phần giá trị thặng dư vừa đủ để anh ta tiếp tục tái sản xuất, cũn bao nhiờu của cải đều
thuộc về nhà tư bản, những người không lao động trực tiếp. Nhưng nguồn gốc sâu xa
nhất của tỡnh trạng nghốo đói trong chủ nghĩa tư bản lại chính là ở chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, ở chế độ áp bức bóc lột và tỡnh trạng nụ dịch con người.
Do đó, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu, chế độ bóc lột mới có thể giải phóng giai cấp vô sản
và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành người lao
động tự do và làm chủ, tiến tới một xó hội cụng bằng, văn minh, đạt được sự hài hũa giữa
lợi ớch cỏ nhõn và xó hội. Như vậy nghèo đói trong chủ nghĩa tư bản chính là hậu quả
của áp bức bóc lột và sự tăng trưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Trong chủ nghĩa xã hội, khi mà nhân dân lao động đó xỏc lập được quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất, quyền làm chủ xó hội, cơ sở của bóc lột đó bị xúa bỏ nhưng cũng

không phải vỡ thế mà tự nhiờn nghốo đói sẽ biến mất, mọi người đều giàu có như nhau.

Cuộc sống của mỗi thành viờn trong xó hội lỳc này, giàu hay nghốo sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào chế độ phân phối công bằng và bỡnh đẳng của chủ nghĩa xó hội. Theo C.Mỏc
thỡ cỏi quyền được phân phối và bỡnh đẳng trong chế độ phân phối của chủ nghĩa xó hội
lại chớnh là cỏi quyền khụng ngang nhau đối với các lao động không ngang nhau và như
thế không có nghĩa là trong xó hội sẽ cú cuộc sống ngang nhau, bỡnh đẳng với tất cả mọi
thành viên:
Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đối với một
lao động không ngang nhau. Nó không thừa nhận một sự phõn biệt giai cấp
nào cả, vỡ bất cứ người nào cũng chỉ là một lao động như người khác; nhưng
nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do
đó về năng lực lao động của những người lao động coi đó là những đặc quyền
tự nhiên. Vậy theo nội dung của nó, đó là một thứ quyền không ngang nhau,
cũng như bất cứ quyền nào [26, tr. 479].
Mặc dù, nguyên tắc trên đây được coi là một nguyên tắc công bằng, nhưng
C.Mác cũng chỉ rừ, trong điều kiện của chủ nghĩa xó hội, sự phân phối công bằng đó
chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn cũn chứa trong nú sự chấp nhận một tỡnh trạng
bất bỡnh đẳng nhất định giữa các thành viên trong xó hội. C.Mỏc viết: "Với một cụng
việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiờu dựng của xó hội
thỡ trờn thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người
kia" [26, tr. 479].
Với cách giải thích hết sức khoa học như vậy cho ta thấy, trong chủ nghĩa xó hội
vẫn tồn tại sự giàu - nghốo, bỡnh đẳng, công bằng chỉ là những khái niệm tương đối chứ
không phải là tuyệt đối.
Ở nước ta khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xó hội, thời kỳ kinh tế hiện vật bao
cấp, tuy đó cú nhiều cố gắng trong việc thực hiện chớnh sỏch phõn phối cụng bằng bỡnh
đẳng nhưng vẫn không thể thoỏt khỏi tỡnh trạng đói nghốo vỡ nền kinh tế lỳc đó là một
nền kinh tế lạc hậu và chậm phát triển. Nguyên nhân đói nghèo trong thời kỳ này không

phải chủ yếu là do lười lao động, tay nghề kém… (những nguyên nhân chủ quan thuộc về
người lao động) mà chủ yếu là do cơ chế kỡm hóm sự phỏt triển của cỏ nhõn và xó hội

(những nguyờn nhõn khỏch quan). Do đó, có thể nói, nghèo đói trong thời kỳ bao cấp
luụn ở tỡnh trạng bựng nhựng khụng tỡm ra lối thoỏt. Nú là hậu quả của sự kỡm hóm, trúi
buộc sức sản xuất xó hội và năng lực sản xuất của con người.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế
thị trường đó mở ra những khả năng lớn để giải phóng sức sản xuất xó hội và cỏc năng
lực sản xuất của từng cá nhân nhưng cũng chính vỡ thế mà đó có những mức độ chênh
lệch khác nhau về nhiều mặt giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Kết quả là, sự phân
hóa giàu nghèo đó xuất hiện và ngày càng gia tăng trong xó hội. Như vậy, đói nghèo
trong nền kinh tế thị trường là đói nghèo trong tiến trỡnh của sự phát triển.
Đúi nghốo là một phạm trự lịch sử, vậy thỡ đến khi nào và ở xó hội nào sẽ khụng
cũn đói nghèo nữa?
Trả lời câu hỏi này, chủ nghĩa Mác - Lênin đó dự báo rằng: Xó hội loài người sẽ
cũn phải trải qua hai giai đoạn nữa: Xó hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn
đầu (giai đoạn XHCN), lao động và phân phối được thực hiện theo nguyên tắc "làm theo
năng lực, hưởng theo lao động", như trên đó phõn tớch thỡ ở giai đoạn này vẫn cũn đói
nghèo. Trong giai đoạn thứ hai (giai đoạn cộng sản chủ nghĩa) khi mà trong xó hội của
cải tuụn ra dào dạt như nước, lúc đó lao động của con người và phân phối của cải trong
xó hội được phân phối theo nguyên tắc "làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu", thỡ đói
nghốo sẽ khụng cũn trong xó hội ấy nữa. Tất nhiờn, nghèo đói ở đây chỉ được hiểu theo
nghĩa vật chất, chứ không được hiểu theo nghĩa tinh thần: văn hóa, tôn giáo, đạo đức…
1.1.1.2. Những cỏch nhỡn nhận về đói nghèo
Cựng với thời gian, quỏ trỡnh nhận thức về đói nghèo của con người ngày càng
đa dạng và phong phú, mở rộng và đầy đủ hơn. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, chưa
có một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về đói nghốo, bởi vỡ bản thõn quan niệm
này cũng đó thay đổi rất nhanh chóng trong suốt ba thập kỷ qua. Đầu những năm 70, đói
nghèo chỉ được coi là sự đói nghèo về tiêu dùng, với tư tưởng cốt lừi và căn bản nhất để

một người bị coi là nghèo đói đó là sự "thiếu hụt" so với mức sống nhất định. Mức thiếu
hụt này được xác định theo các chuẩn mực xó hội và phụ thuộc vào khụng gian và thời
gian. Tuy nhiờn, xó hội ngày càng phỏt triển, mức sống của con người ngày càng cao

hơn, những nhu cầu cho cuộc sống ngày càng nhiều hơn và quan niệm về nghèo đói cũng
được mở rộng ra rất nhiều. Các yếu tố như nguồn lực người nghèo, mối quan hệ xó hội,
khả năng tham gia vào các hoạt động văn hóa, xó hội và khả năng bảo vệ, chống đỡ các
rủi ro đó được đưa vào nội dung của khái niệm đói nghèo. Trong báo cáo phát triển con
người năm 1997, Chương trỡnh phỏt triển Liờn hợp quốc (UNDP) đó đề cập đến khái
niệm đói nghèo về năng lực, khác với quan niệm đói nghèo về thu nhập. Theo đó, đói
nghèo được tính đến điều kiện khó khăn trong phát triển con người cơ bản. Trong báo
cáo về tỡnh hỡnh thực hiện mục tiờu thiờn niờn kỷ của Liờn hợp quốc năm 2003 đó nhấn
mạnh sự cần thiết đưa phương pháp tiếp cận đói nghèo trên cơ sở quyền lợi cơ bản của
con người (bao gồm về kinh tế, văn hóa, xó hội chớnh trị và dõn sinh).

Cho đến những năm 1970
Tiêu
dùng
Giữa những năm 1970 và
những năm 1980, tiếp cận
theo nhu cầu thiết yếu
Tiêu dùng
+ dịch vụ xó hội
+ nguồn lực
Từ những năm 1980, cách
tiếp cận theo năng lực và
cơ hội
Tiờu dựng + dịch vụ xó
hội+ nguồn lực + tớnh
dễ bị tổn thương
Từ 1980 đến năm 2000
Tiờu dựng + dịch vụ xó hội
+ nguồn lực+ tớnh dễ bị
tổn thương + phẩm giá

Bỏo cỏo về tỡnh trạng
nghèo khổ trên thế giới,
Tiờu dựng + dịch vụ xó hội + nguồn lực+
tớnh dễ bị tổn thương + phẩm giá + tự chủ

Ngân hàng thế giới năm
2000
Sơ đồ 1.1: Sự phát triển của khái niệm nghèo khổ kể từ những năm 1970
Ở Việt Nam quan niệm nghèo đói cũng ngày càng được mở rộng. Nếu như
những năm 90 nhu cầu hỗ trợ người nghèo chỉ giới hạn đến các nhu cầu tối thiểu như ăn
no, mặc ấm, thỡ ngày nay người nghèo cũn cú nhu cầu hỗ trợ về nhà ở, giỏo dục, y tế,
văn hóa… tức là nhu cầu giảm nghèo và phát triển. Điều này có nghĩa là, các chính sách
phát triển kinh tế cần hướng về người nghèo. Tăng trưởng kinh tế là cần thiết, nhưng lợi
ích từ tăng trưởng không tự động chuyển đến cho người nghèo. Người nghèo cần trở
thành mục tiêu trong việc hoạch định các chính sách phát triển.
Từ trước đến nay có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về nghèo của các học
giả, các nhà khoa học, dưới những góc độ khác nhau. Chỉ tính riêng trong từ điển tiếng
Việt năm 1994 đó cú 18 định nghĩa về nghèo và các từ đồng nghĩa với nghèo (Phụ lục 1).
Cho đến nay, khái niệm nghèo đói được dùng nhiều nhất là khái niệm đó được đưa ra tại
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói do Ủy ban kinh tế và xó hội của Chõu Á - Thỏi Bỡnh
Dương (ESCAP) tổ chức tháng 9-1993 tại Băng Cốc - Thái Lan.
Khái niệm: Nghốo là tỡnh trạng một số bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa món những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đó được xó hội
thừa nhận tựy theo trỡnh độ phát triển và phong tục tập quán của từng địa phương.
Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo, một khái niệm mở, có tính chất
hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo. Các
tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa (định lượng) được bỏ ngỏ bởi vỡ cũn phải tớnh
đến sự khác biệt chênh lệch giữa điều kiện tự nhiên, điều kiện xó hội và trỡnh độ phát
triển của mỗi vùng miền khác nhau. Vấn đề quan trọng nhất mà khái niệm này đó đưa ra
được đó chính là những nhu cầu cơ bản của con người, nếu không được thỏa món thỡ họ

chớnh là những người nghèo đói. Một khái niệm mở như vậy sẽ dễ dàng được các tổ

chức và các quốc gia chấp nhận. Khái niệm sẽ được mở rộng hơn theo sự phát triển của
xó hội, nhất là khi nhu cầu cơ bản của con người được mở rộng theo thời gian.
Từ khái niệm chung này, khi nghiên cứu thực trạng nghèo đói, người ta đó đưa ra
hai khái niệm khác, đó là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Đó là sự thiếu hụt so với mức sống (những nhu cầu) tối thiểu.
Nghèo tuyệt đối đề cập đến vị trí của một cá nhân, hộ gia đỡnh trong mối quan
hệ với đường nghèo khổ mà giá trị tuyệt đối của họ cố định theo thời gian. Nghèo tuyệt
đối thường được tính trên những nhu cầu dinh dưỡng và một số hàng hóa khác, do vậy
một đường nghèo tuyệt đối được dùng để thực hiện các so sánh nghèo đói.
Nghèo tương đối: Đó là sự thiếu hụt của các cá nhân/ hộ gia đỡnh so với mức
sống trung bỡnh đạt được.
Sự thiếu hụt này dựa trên cơ sở một tỷ lệ nào đó so với mức thu nhập bỡnh quõn
của dõn cư, có quốc gia xác định dựa trên 1/2 thu nhập bỡnh quõn, cú quốc gia lại dựa
trờn 1/3 thu nhập bỡnh quõn.
Để so sánh sự nghèo khổ giữa các quốc gia với nhau, người ta sử dụng khái niệm
nghèo tương đối. Để đấu tranh chống nạn nghèo cùng cực thỡ dựng khỏi niệm nghốo
tuyệt đối. Cách chọn khái niệm tùy theo mục đích mà mỡnh theo đuổi. Tuy nhiên, cả hai
khái niệm trên đều không hoàn toàn đầy đủ. Khái niệm nghèo tuyệt đối không tính đến sự
khác nhau về mức sống ở các nước. Khái niệm nghèo tương đối, không tính đến sự diễn
biến của bối cảnh kinh tế xó hội, do đó không tính đến diễn biến của những nhu cầu.
Ngoài khái niệm chung về nghèo đói, trong quá trỡnh tỡm hiểu, nghiờn cứu ta
thường gặp một số khái niệm khác chỉ những khía cạnh của nghèo đói như:
Đói: Là tỡnh trạng của một bộ phận dõn cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trỡ cuộc sống. Hay núi
một cỏch khỏc đói là một nấc thang thấp nhất của nghèo.
Nghèo đói kinh niên: Là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho đến thời
điểm đang xét.


Nghèo đói cấp tính: Là bộ phận dân cư rơi vào tỡnh trạng nghốo đói đột xuất vỡ
nhiều nguyờn nhõn như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét.
Vùng nghèo, vệt nghèo: Là nơi có tỷ lệ nghèo cao hơn nhiều và mức sống dân
cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước, trong cùng một thời điểm.
Quốc gia nghèo: Là một đất nước có bỡnh quõn thu nhập rất thấp, nguồn lực
(tài nguyên) cực kỳ hạn hẹp (về vật chất, lao động, tài chính) cơ sở hạ tầng môi trường
yếu kém, có vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế.
Và cũn nhiều khỏi niệm khỏc như: Nghèo không gian, nghèo thời gian, nghèo
môi trường, nghèo lứa tuổi, nghèo giới…Tất cả chỉ là xác định rừ hơn đặc điểm, mức độ,
nguyên nhân của các đối tượng nghèo và từ đó sẽ có những giải pháp thích hợp cho từng
đối tượng nghèo khác nhau.
1.1.2. Xác định chuẩn nghèo
Ở phần trên chúng ta đó xem xột đói nghèo theo định tính, ở phần này chúng ta
tỡm hiểu đói nghèo theo định lượng, với những tiêu chí kinh tế cụ thể trong từng giai
đoạn lịch sử.
Chuẩn nghèo (hay cũn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo, hoặc tiêu chí nghèo):
Là công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo.
Hầu hết chuẩn nghèo dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu. Những người được coi là
nghèo khi mức sống của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn mức tối thiểu chấp
nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo (đường nghèo). Những người có mức thu nhập
hoặc chi tiêu ở trên chuẩn này là người không nghèo hoặc đó vượt nghèo, thoát nghèo.
Chuẩn nghèo là công cụ để đo lường và giám sát nghèo đói. Một thước đo nghèo
đói tốt sẽ cho phép đánh giá tác động các chính sách của Chính phủ tới nghèo đói, cho
phép đánh giá nghèo đói theo thời gian, tạo điều kiện so sánh với các nước khác, và giám
sát chi tiêu xó hội theo hướng có lợi cho người nghèo.
1.1.2.1. Xây dựng chuẩn nghèo của thế giới

Xác định chuẩn nghèo dựa vào khẩu phần ăn
Trước tiên là phải xác định được số lương thực, thực phẩm thích hợp sau đó đưa
ra số Kcalo chuẩn nhất cho tiêu dùng của một người hàng ngày, tất nhiên không có sự

thống nhất giữa các quốc gia về lượng Kcalo tiêu dùng để xác định chuẩn nghèo.
Bảng 1.1: Lượng Kcalo tiêu dùng hàng ngày cho một người được sử dụng trong xây
dựng chuẩn nghèo
Việt Nam 2.100
Indonesia 2.100
Philippin 2.000
Thái Lan 1.978
Trung Quốc 2.150
Nguồn: [6, tr. 10].
Tất nhiên, phương pháp này không được chính xác nếu ta đem so sánh giữa
người nghèo nông thôn và người nghèo thành thị. Ở nông thôn luôn mua được lương thực
và thực phẩm rẻ hơn ở thành thị, kết quả là hàm Kcalo thu nhập cho các hộ gia đỡnh ở
nụng thụn sẽ cao hơn các hộ gia đỡnh thành thị và do đó chuẩn nghèo khu vực nông thôn
sẽ thấp hơn ở khu vực thành thị.
Xác định chuẩn nghèo dựa vào chi phí cho các nhu cầu cơ bản
Phương pháp này xác định giá trị của tiêu dùng cần thiết để đáp ứng các nhu cầu
cơ bản. Chuẩn nghèo được tính như sau:
Đường nghèo Z: Z = ZF + ZN
ZF = Đường nghèo lương thực, thực phẩm
ZN = Đường nghèo phi lương thực, thực phẩm
Xác định chuẩn nghèo từ thu nhập bỡnh quõn

Các quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa trên sự thiếu hụt của cá nhân, hộ gia
đỡnh so với mức sống trung bỡnh đạt được. Có quốc gia xác định chuẩn này dựa trên 1/2
thu nhập bỡnh quõn, cú quốc gia lại dựa trờn 1/3 thu nhập bỡnh quõn.
Trên thế giới hiện nay, trừ Mỹ có đường nghèo hầu như không đổi trong suốt 4
thập kỷ qua, cũn lại tất cả cỏc nước khi giàu lên họ thường có hướng điều chỉnh lại chuẩn
nghèo. Cộng đồng châu Âu định nghĩa nghèo là có thu nhập bỡnh quõn đầu người thấp
dưới 50% thu nhập của đối tượng trung lưu. Khi thu nhập của đối tượng trung lưu tăng
lên thỡ chuẩn nghốo cũng tăng lên. Ở Canada người ta sử dụng chuẩn nghèo tương đối để

theo dừi nghốo đói: Năm 1993 thu nhập bỡnh quõn một gia đỡnh 4 người là 62.000 USD
và họ quan niệm chuẩn nghèo của Canada là những gia đỡnh 4 người có thu nhập dưới
31.000USD [6, tr. 12].
Chuẩn nghèo 1 USD, 2 USD /ngày/người.
Để có điều kiện đánh giá hiệu quả của các chính sách chống đói nghèo theo thời
gian và so sánh tỷ lệ nghèo đói giữa các nước này với các nước khác, cũng như việc xác định
các nơi cần phải trợ giúp, một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới, đó sử dụng
mức tiờu chuẩn 1 USD, 2 USD/ngày/người. Trong đó các mức này được dựa trên sức mua
tương đương của đồng USD năm 1995. Chuẩn nghèo này là chuẩn nghèo tuyệt đối. Tuy
nhiên, cũng cần phải khẳng định là hiện tại cũn rất nhiều vấn đề liên quan đến cách tính 1
USD, 2 USD theo sức mua tương đương với đồng USD. Do vậy, phương pháp này chủ
yếu để so sánh quốc tế hơn là trong nước.
1.1.2.2. Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Trong những năm qua nước ta tồn tại song song một số phương pháp xác định
chuẩn nghèo phục vụ mục đích khác nhau. Đó là cách xác định chuẩn nghèo của Chính
phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội cụng bố và chuẩn nghốo của Tổng cục
Thống kờ và Ngõn hàng Thế giới
* Cách xác định đường nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới

Tổng cục Thống kờ với vai trũ thu thập, cụng bố và đánh giá số liệu cấp quốc gia
và có thể so sánh quốc tế đó cựng Ngõn hàng Thế giới ỏp dụng phương pháp xác định
chuẩn nghèo theo phương pháp đo lường mức sống của Ngân hàng Thế giới được triển
khai vào đầu thập niên 80 cho các nước đang phát triển. Phương pháp này cho phép các
kết quả tính toán có thể so sánh được với các nước trong khu vực và so sánh theo thời
gian.
- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là chi phí cần thiết mua rổ
lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng Kcalo tiêu dùng bỡnh quõn 1 người 1 ngày
(2.100 Kcalo). Năm 1998 chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là 1.287
ngàn đồng/người/năm
- Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về lương thực,

thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm của nhóm dân
cư 3 (nhóm có mức sống trung bỡnh). Chuẩn nghốo chung được xác định cho năm 1998
là: 1.790 ngàn đồng/người/năm.
Tuy nhiên, phương pháp này có một số hạn chế sau:
Phương pháp này sử dụng rổ hàng hóa từ năm 1993 đến nay đó hơn
10 năm không thể phản ảnh được thực tế tiêu dùng hiện tại của đại đa số người dân Việt
Nam.
Sử dụng một chuẩn nghèo duy nhất áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông
thôn chỉ cho phép đánh giá thực trạng nghèo đói của cả nước, không thể xác định và lập
được danh sách hộ nghèo cụ thể ở các địa phương.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội
Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội là cơ quan thường trực chương trỡnh quốc
gia XĐGN, đó tiến hành rà soỏt chuẩn nghốo qua cỏc thời kỳ. Lỳc đầu chuẩn nghèo được
xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang sử dụng chỉ tiêu thu nhập. Mục
đích của Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội là xỏc định được đối tượng cụ thể của
chương trỡnh trợ cấp thụn, xó, lờn danh sỏch hộ nghốo, chỉ ra cỏc nguyờn nhõn nghốo

đói và đề xuất các giải pháp hỗ trợ. Bên cạnh đó giúp Chính phủ theo dừi, đánh giá tác
động của các chính sách kinh tế và XĐGN, điều chỉnh chuẩn nghèo theo mức độ cải thiện
của đời sống dân cư và người nghèo.
Chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xó hội cụng bố
đó điều chỉnh qua 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1993 - 1995
Hộ đói: Bỡnh quõn thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối với hộ
thành thị và dưới 8 kg đối với hộ nông thôn.
Hộ nghèo: Bỡnh quõn thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20kg đối với khu
vực thành thị và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn.
Giai đoạn 1995 - 1997
Hộ đói: Là hộ cú mức thu nhập bỡnh quõn một người trong một tháng quy ra gạo
dưới 13 kg, tính cho mọi vùng.

Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo: dưới 13kg/người/tháng.
- Vùng thôn đồng bằng: dưới 20kg/người/tháng.
- Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng.
Giai đoạn 1997 - 2000
Hộ đói: Là hộ có mức thu nhập một người trong một tháng quy ra gạo dưới 13kg,
tương đương 45 ngàn đồng (giá năm 1997) tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập quy ra gạo theo mức quy định dưới đây:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15kg/người/tháng (tương đương
55.000 đồng).
- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương đương
70.000 đồng).

- Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng).
Giai đoạn 2001 - 2005
- Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
- Nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
- Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
[6, tr. 14-15].
Cách tiếp cận này có ưu điểm:
Đảm bảo từng bước thỏa món nhu cầu cơ bản của con người (ăn, mặc, ở, y tế,
giáo dục, văn hóa, đi lại…).
Chuẩn được điều chỉnh gắn với tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện điều kiện
sống của người dân, tỡnh hỡnh thay đổi cơ cấu chi tiêu, thu nhập từ lao động với mục tiêu
bảo đảm không ngừng nâng cao mức sống của người nghèo.
Tạo điều kiện cho các cơ sở có thể triển khai được việc lập danh sách hộ nghèo
và xác định các hỗ trợ cần thiết.
Cỏch tiếp cận này cũn hạn chế:
Mặc dù khi tính toán chuẩn nghèo có dựa trên nhu cầu về lương thực, thực phẩm
và phi lương thực, thực phẩm, song chưa tính toán đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng, tỷ lệ chi

cho nhu cầu phi lương thực, thực phẩm cũn thấp.
Độ tin cậy về số liệu khi xây dựng các phương án chưa cao do không có điều
kiện điều tra trên diện rộng. Bên cạnh đó việc thu thập thông tin về thu nhập cũn rất khú
chớnh xỏc, đặc biệt là thu nhập của người dân nông thôn và miền núi. Việc quan sát
tỡnh trạng nghốo của hộ gia đỡnh chỉ dựa chỉ tiờu đầu vào, chưa quan sát hộ gia đỡnh
trờn cỏc chỉ tiờu khỏc như đồ dùng, tài sản, nguồn lực… dẫn đến hiện tượng bỏ sót
hoặc đưa nhầm đối tượng vào chương trỡnh XĐGN ở một số xó trong quỏ trỡnh rà soỏt
và bỡnh xột. Tớnh thống nhất của chuẩn nghốo chưa được bảo đảm, việc điều chỉnh

chuẩn nghèo liên tục không cho phép công tác theo dừi, giỏm sỏt, đánh giá nghèo đói
một cách hệ thống.
* Xây dựng chuẩn nghèo mới áp dụng vào giai đoạn 2006 - 2010
[6, tr. 18-26].
- Yêu cầu của chuẩn nghèo mới.
+ Bảo đảm người nghèo được hưởng thành quả phát triển kinh tế - xó hội. Từng
bước nâng cao mức sống cho người nghèo theo mức sống chung của xó hội. Chuẩn
nghèo mới phải từng bước đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người nghèo.
+ Tạo điều kiện để phân loại hộ nghèo một cách dễ dàng, tập trung trọng tâm của
các chương trỡnh, chớnh sỏch vào vựng sõu, vựng miền nỳi, hải đảo, dân tộc, biên giới.
+ Tạo sự đồng bộ trong công tác XĐGN, bao gồm xác định người nghèo, tỡm hiểu
nguyờn nhõn, xõy dựng cỏc chớnh sỏch hỗ trợ, cung cấp thụng tin.
+ Từng bước hũa nhập quốc tế, nõng cao hiệu quả hợp tỏc khu vực và quốc tế
trong lĩnh vực XĐGN
- Định hướng xây dựng chuẩn nghèo mới:
Thống nhất về khái niệm, nội dung và phương pháp xác định chuẩn nghèo giữa
các cơ quan liên quan, đặc biệt là Bộ Lao động - Thương binh Xó hội và Tổng cục Thống
kờ để xây dựng một chuẩn nghèo duy nhất.
- Các phương pháp đo lường:
+ Phương pháp tiếp cận: Sử dụng phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo khách quan
trên cơ sở hệ nhu cầu tối thiểu để tính chuẩn nghèo là chính, các phương pháp khác bổ

sung.
+ Lựa chọn chỉ tiêu: Trước kia là dùng chỉ tiêu thu nhập, thực tế là rất khó phản
ánh chính xác mức sống của người dân do bị bỏ sót hoặc người dân không muốn khai
báo. Trong khi đó việc bảo đảm các nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, y tế, giáo dục… có
thể quan sát thông qua "đầu ra", mức chi tiêu hiện tại của hộ gia đỡnh. Điều quan trọng

là chúng ta phải quan tâm thực chất người nghèo sống như thế nào chứ không phải là họ
có thu nhập đủ sống hay không? Vỡ vậy chuẩn nghốo mới đó dựng chỉ tiờu "chi tiờu"
để đo lường mức sống của hộ gia đỡnh làm căn cứ để phân loại hộ nghèo và hộ không
nghèo.
+ Xác định nhu cầu dinh dưỡng 2006 - 2010: Nhu cầu năng lượng được xác định
dựa vào nhu cầu cho chuyển hóa cơ bản, thời gian và tính chất của các hoạt động trong
ngày. Dựa theo đề nghị của tổ chức y tế thế giới năm 1985, nhu cầu năng lượng bỡnh
quõn cho người Việt Nam do Viện Dinh dưỡng đề nghị đạt khoảng 2.100
Kcalo/ngày/người.
+ Lựa chọn nhóm dân cư làm căn cứ để tính toán nhu cầu lương thực, thực phẩm
và phi lương thực, thực phẩm.
Trong cuộc điều tra mức sống dân cư năm 2002, mức tiêu thụ Kcalo/ngày/người
của các nhóm như sau:
Bảng 1.2: Mức tiêu thụ kcalo một ngày năm 2002
Nhóm chi tiêu (20 %)
Lượng k.calo tiêu dùng

1 người 1 ngày
Lượng k.calo quy đổi
cho mỗi người
Nhóm 1: nghèo nhất 1735 1943
Nhóm 2: nghèo vừa 1875 2187
Nhúm 3: trung bỡnh 1952 2364
Nhóm 4: khá giả 1973 2539

Nhóm 5: giàu nhất 1835 2773
Nguồn: [6, tr. 20].
Từ bảng trên cho thấy, nhóm dân cư thứ hai là nhóm có mức tiêu dùng gần với
ngưỡng 2.100 kcalo lựa chọn (năm1998 là nhóm dân cư 3), do vậy khối lượng hàng hóa
lương thực, thực phẩm tiêu dùng bỡnh quõn đầu người của nhóm dân cư này sẽ được tính

toán để xác định rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm đáp ứng được nhu cầu 2.100
kcalo/người/ngày.
- Cập nhật chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010.
+ Tính toán rổ lương thực, thực phẩm: Sau 10 năm mức sống của các hộ gia
đỡnh Việt Nam được nâng lên, xu hướng tiêu dùng các mặt hàng lương thực giảm đi cũn
cỏc mặt hàng thực phẩm lại tăng lên (phụ lục 2).
Ở chuẩn nghèo mới này sẽ chỉ áp dụng một rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm
cho tất cả các vùng trong khu vực thành thị, nông thôn.
+ Chi phí cho rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm được tính theo công thức sau:
Chi phí rổ = Xi Pi
Trong đó: Xi: Hàng hóa i trong rổ hàng hóa lương thực, thực phẩm.
Pi: Giá mua hàng hóa i
+ Xác định chuẩn nghèo chung.
Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo lương thực, thực
phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm.
Chuẩn nghèo chung = Chi (LT, TP + phi LT, TP)
Xác định nhu cầu phi lương thực, thực phẩm cũng dựa trên mức chi tiêu thực tế của
nhóm hộ gia đỡnh được lấy làm chuẩn (nhóm 2), bởi vỡ nhúm hộ này khi đó đáp ứng
được nhu cầu về lương thực, thực phẩm thỡ cũng đáp ứng được nhu cầu về phi lương
thực, thực phẩm. Chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm được tính bằng cách
lấy chi phớ trung bỡnh 1 người/năm của nhóm chi tiêu 2 sau khi đó điều chỉnh chỉ số giá
vùng (giá thành thị và giá nông thôn) (phụ lục 3)
Bảng 1.3: Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010
(1000 đồng/người/tháng)



Thành thị Nông thôn
1. Lương thực - Thực phẩm 137 114
2. Chung 260 200
Nguồn: [6, tr. 27].
Hộ rất nghèo: Là hộ cú giỏ trị thu nhập bỡnh quõn đầu người/tháng dưới một
nửa chuẩn nghèo mới.
Hộ nghèo: Là hộ cú thu nhập bỡnh quõn dưới 250.000 đồng/người/tháng đối với khu
vực thành thị và dưới 200.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và giá trị tài
sản bỡnh quõn đầu người ở mức trung bỡnh của cộng đồng (xó) trở xuống.
Là những hộ cú thu nhập bỡnh quõn đầu người trên chuẩn nghèo 10.000 đồng
trở xuống đối với cả hai khu vực, nhưng giá trị tài sản bỡnh quõn đầu người ở mức thấp
hơn so với cộng đồng (xó).
+ Các yếu tố tác động đến chuẩn nghèo: Có nhiều yếu tố tác động đến chuẩn
nghèo đói, tuy nhiên có hai yếu tố quan trọng nhất, đó là tốc độ tăng giá cả các mặt hàng về
lương thực, thực phẩm; phi lương thực, thực phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, để
đảm bảo "quyền lợi" của người nghèo, chuẩn nghèo cần phải được điều chỉnh theo chỉ số tăng
của giá cả và mức tăng trưởng kinh tế.
- Ưu điểm của chuẩn mới:
Phương pháp tiếp cận xây dựng chuẩn nghèo khách quan cho phép phản ánh thực
trạng nghèo đói và phân bố nghèo đói ở Việt Nam. Cách tiếp cận này cũng phù hợp với
phương pháp tiếp cận quốc tế, nhất là các nước đang phát triển.
Sử dụng đầu ra để đánh giá mức sống của người nghèo là bảo đảm tính khách
quan khi đánh giá mức sống của người nghèo. Sử dụng chuẩn nghèo cho 2 khu vực thành
thị và nông thôn là phù hợp với trỡnh độ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010.
Áp dụng một chuẩn cho nông thôn và miền núi sẽ có lợi hơn cho người nghèo ở miền núi
do chuẩn áp cho khu vực này cao hơn mức thực tế người dân miền núi chi tiêu.

- Nhược điểm của chuẩn mới:

Phương pháp tiếp cận: Nhu cầu lựa chọn để tính chuẩn nghèo là nhu cầu thực tế,
chưa phải là nhu cầu "cần thiết" để người dân nông thôn và người dân miền núi được
bỡnh đẳng thực sự so với người dân thành thị.
Chưa phản ánh hết đặc thù nghèo đói tại Việt Nam, thực tế cho thấy người nghèo
được hỗ trợ nhiều từ chương trỡnh của Chớnh phủ và cỏc chương trỡnh khỏc. Cỏc hỗ trợ
này chưa được tính vào phần chi phí của các hộ gia đỡnh, do đó có xu hướng làm giảm
mức độ phúc lợi thực tế của hộ nghèo. Bên cạnh đó các đặc điểm của người nghèo như
trỡnh độ học vấn, việc làm, sức khỏe…chưa thể hiện đầy đủ.
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.2.1. Chiến lược và một số mụ hỡnh xúa đói giảm nghèo của thế giới
1.2.1.1. Quan niệm về giảm nghèo
Khái niệm
Giảm nghèo hay (XĐGN) chính là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức
sống, từng bước thoát khỏi tỡnh trạng nghốo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người
nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghốo là một quỏ trỡnh chuyển một bộ phận
dõn cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác, giảm nghốo là chuyển từ tỡnh trạng cú ớt điều kiện lựa chọn
sang tỡnh trạng cú đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi
người.
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái niệm nghèo,
khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh, hoặc khi khái niệm nghèo
và chuẩn nghèo thay đổi. Do đó, việc đánh giá mức độ giảm nghèo phải được đánh giá
trong một thời gian, không gian nhất định.
Giảm nghèo là một phạm trù cũng chỉ mang tính lịch sử, do đó chỉ có thể từng
bước giảm nghèo, chứ chưa thể xóa sạch được nghèo. Chỉ khi nào xó hội loài người đạt

tới trỡnh độ xó hội cộng sản như chủ nghĩa Mác - Lênin dự đoán thỡ hiện tượng nghèo sẽ
không cũn nữa và giảm nghốo cũng khụng cần.
Do cách đánh giá và nhỡn nhận nguồn gốc khỏc nhau nờn cũng cú nhiều quan
niệm về giảm nghốo khỏc nhau:

Nếu hiểu nghèo là dạng đỡnh đốn của phương thức sản xuất đó bị lạc hậu song
vẫn cũn tồn tại thỡ giảm nghốo chớnh là quỏ trỡnh chuyển đổi sang phương thức mới tiến
bộ hơn.
Nếu hiểu nghèo là do phân phối thặng dư trong xó hội một cỏch bất cụng đối với
người lao động, do chế độ sở hữu TBCN thỡ giảm nghốo chớnh là quỏ trỡnh xúa bỏ chế
độ sở hữu và chế độ phân phối này.
Nếu hiểu nghốo là hậu quả của tỡnh trạng chủ nghĩa thực dõn đế quốc kỡm hóm
sự phỏt triển ở cỏc nước thuộc địa, phụ thuộc thỡ giảm nghốo là quỏ trỡnh cỏc nước
thuộc địa, phụ thuộc giành lấy độc lập dân tộc để trên cơ sở đó phát triển kinh tế - xó hội.
Nếu hiểu nghèo là do sự bùng nổ gia tăng dân số vượt quá tốc độ phát triển kinh
tế thỡ phải tỡm mọi cỏch để giảm gia tăng dân số lại, tất nhiên không phải bằng cách của
Malthus đó làm.
Cũn nếu hiểu nghốo là do tỡnh trạng thất nghiệp gia tăng hoặc rơi vào tỡnh trạng
khủng hoảng kinh tế thỡ giảm nghốo chớnh là tạo việc làm, tạo xó hội ổn định và phát
triển.
Ở nước ta hiện nay nghèo đói không phải là do bóc lột của giai cấp tư sản và địa
chủ đối với lao động như trước đây mà do nền kinh tế nước ta đang trong quá trỡnh
chuyển đổi từ nền kinh tế lạc hậu kém phát triển sang nền kinh tế phát triển hiện đại.
Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều trỡnh độ sản xuất khác nhau. Có trỡnh độ
sản xuất cũ, lạc hậu vẫn cũn trong khi đó trỡnh độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng
vai trũ chủ đạo, thay thế các trỡnh độ sản xuất cũ. Do đó dẫn đến có sự giàu nghèo khác
nhau trong các tầng lớp dân cư.

Như vậy, giảm nghèo (XĐGN) ở nước ta chính là từng bước thực hiện quỏ trỡnh
chuyển đổi các trỡnh độ sản xuất cũ, lạc hậu cũn tồn đọng trong xó hội sang trỡnh độ
sản xuất mới cao hơn.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo (XĐGN) là quá trỡnh tạo điều kiện giúp đỡ
người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất,
trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng lựa chọn hơn giúp họ từng bước thoát ra khỏi tỡnh
trạng nghốo.

Trong tiến trỡnh phỏt triển, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có mối quan hệ
biện chứng. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở, điều kiện vật chất để giảm nghèo. Ngược
lại giảm nghèo là nhân tố đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế mang tính bền vững. Tuy nhiên
trong mối quan hệ này thỡ giảm nghốo vẫn là yếu tố chịu sự chi phối, phụ thuộc vào yếu
tố tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế, nếu tăng trưởng kinh tế chịu tác động của các quy
luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh, lợi nhuận, năng suất lao
động… thỡ giảm nghốo lại chịu tỏc động quy luật phân hóa giàu nghèo, vấn đề phân phối và
thu nhập, vấn đề lao động và việc làm, cỏc chớnh sỏch xó hội… Trong quỏ trỡnh vận động
các yếu tố, các quy luật tác động lên tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo theo nhiều chiều
hướng, có khi trái ngược nhau. Do vậy, để đảm bảo được tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo đũi hỏi Nhà nước có sự can thiệp sao cho sự tác động của các quy luật có hướng
đồng thuận. Đây là vấn đề không hề đơn giản và không phải quốc gia nào cũng làm được
trong quá trỡnh phỏt triển.
1.2.1.2. Chiến lược chống nghèo đói của thế giới
Vấn đề nghèo đói mang tính toàn cầu, tại các nước phát triển và các nước đang
phát triển đều có người nghèo. Bước sang thế kỷ 21 vẫn cũn khoảng 3 tỷ người (gần 1/2
dân số thế giới) sống ở dưới mức 2 USD/ngày. Trong số đó có 1,3 tỷ người sống với mức
cực kỳ nghèo, dưới 1 USD/ngày. Với mức gia tăng dân số là 80 triệu người mỗi năm thỡ
số người sống ở dưới mức 2 USD/ngày không chỉ dừng lại ở 3 tỷ như hiện nay mà sẽ
tăng lên rất nhiều. Trong báo cáo "Bước vào thế kỷ 21" của WB năm 2000 thỡ đến năm
2015, số người phải sống dưới mức 1USD/ngày là 1,9 tỷ người (1/3 dân cư trên trái đất).

×