Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đánh giá hiệu quả công cụ tỷ lệ dữ trữ bắt buộc trong thị trường tài chính Việt Nam 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.6 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
**********

MÔN HỌC: TỔ CHỨC VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

ĐỀ TÀI : ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG CỤ TỶ LỆ DỰ TRỮ BẮT
BUỘC CỦA NGÂN HÀNG TRONG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM

Nhóm CH27C - 2
1. Nguyễn Việt Dương
2. Nguyễn Thị Hương
3. Trần Thanh Minh
4. Vũ Thị Minh Tú
5. Trần Sơn Tùng

Hà Nội, 2018


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... 2
I.
II.

Khái niệm, định nghĩa ............................................................................................. 3
Tác động, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc ......................................................... 3



1.

Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc đến thị trường tài chính, nền kinh tế. ................ 3

2.

Dự trữ bắt buộc với vai trò là công cụ áp chế tài chính của chính phủ. ........................ 5

3.

Ưu điểm – nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc .................................................... 5

3.1. Ưu điểm...................................................................................................................... 5
3.2. Nhược điểm ................................................................................................................ 6
III.
1.

Thực trạng áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc tại Việt Nam ....................................... 6
Khung pháp lý: ........................................................................................................... 6

2. Thực trạng tình hình sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng cao như một công cụ
áp chế tài chính ở Việt Nam. .............................................................................................. 7
2.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được Ngân hàng Nhà nước quy định đối với Ngân hàng trong giai
đoạn từ 1998-2018 ............................................................................................................. 7
2.2. Giai đoạn 2007 đến năm 2011 ..................................................................................... 9
2.3. Giai đoạn 2012 cho đến nay: ..................................................................................... 11
IV.

Kiến nghị và Giải pháp.......................................................................................... 11


TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 13

1


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

DTBB

Dự trữ bắt buộc

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại


NHTW

Ngân hàng trung ương

VBHN

Văn bản hợp nhất

2


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

I.

Tổ chức và thị trường tài chính

Khái niệm, định nghĩa

Áp chế tài chính là những biện pháp kiểm soát về lãi suất. Các áp chế tài chính có thể
được mở rộng hoặc siết chặt nhằm đạt được mục đích điều hành vĩ mô của Chính phủ ở tất cả
các quốc gia.
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của Ngân hàng trung ương
về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm
bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân
hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.

Dự trữ bắt buộc cũng là công cụ để chính phủ các nước áp dụng đối với hệ thống các
tổ chức tín dụng, chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Thông thường, chính phủ sử dụng
biện pháp này nhằm đảm bảo an toàn khi xảy ra khủng hoảng tài chính vì nếu khủng hoảng tài
chính xảy ra thường kéo theo việc rút tiền ồ ạt và để giảm chi phí các khoản nợ cho Chính
phủ. Tại Việt Nam, dự trữ bắt buộc được sử dụng như là công cụ để đảm bảo tính thanh khoản
ở các ngân hàng thương mại và kiềm chế lạm phát.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và lãi suất thấp mà ngân hàng nhận được từ dự trữ này phản
ánh mong muốn của chính phủ duy trì một công cụ thuế để tạo ra số thu ngầm ẩn đáng kể.
II.

Tác động, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc

1. Tác động của công cụ dự trữ bắt buộc đến thị trường tài chính, nền kinh tế.
1.1.
Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của
mỗi ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì
phần chênh lệch còn lại - vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho
vay ra của ngân hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một
đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động này mở ra một nguồn
vốn mới cho một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền
của hệ thống ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên
nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua đó
cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng, còn thực sự nó có làm
cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng
của các ngân hàng và nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
1.2.

Tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ


Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên
lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các ngân
hàng ở NHTW không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi dự trữ bắt buộc tăng lên
3


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Điều
này được các ngân hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường
tín dụng. Một khoản thuế dự trữ có nghĩa là ngân hàng phải tính lãi suất cao hơn đối với các
khoản vay cho tư nhân và/ hoặc trả lãi suất thấp hơn cho người tiết kiệm nhằm chi trả chi phí
cho việc dự trữ bắt buộc tại NHTW.
1.3.

Tác động đến lượng tiền cung ứng

Một trong những chức năng của các tổ chức tài chính, cụ thể như ngân hàng thương
mại là chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng này được thể hiện trong quá trình Ngân
hàng thương mại cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương
mại, trong mối quan hệ với Ngân hàng trung ương đặc biệt là trong quá trình thực hiện chính
sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền
cơ sở do Ngân hàng trung ương phát hành qua hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ được tăng
lên gấp bội khi Ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ
thống ngân hàng được tính theo công thức:

D = m . MB
Trong đó:
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
m = 1/rd: hệ số nhân tiền
rd: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức
năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng
sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ. Từ đó góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Hoạt động này có tác động không nhỏ đến sự
phát triển của thị trường tài chính.
Tuy nhiên, ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân
hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Đây là một trong sáu công cụ áp chế tài chính
mà chính phủ sử dụng để tác động lên các hệ thống tài chính. Ngân hàng trung ương có thể
điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng
hoặc giảm khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại từ đó ảnh hưởng đến khả năng cấp tín
dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra.
Khi chính phủ thực hiện công cụ này, hệ thống ngân hàng tham gia cung tiền, tác động
tới lượng tiền cung ứng, qua đó tác động tới lạm phát và tăng trưởng kinh tế nói chung và thị
trường tài chính nói riêng. Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay
đổi tiềm năng tín dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà
4


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính


Ngân hàng trung ương (NHTW) muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc sẽ được nâng lên nếu NHTW thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục
tiêu kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng
sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTW sẽ hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể hiện qua
công thức tính hệ số nhân tiền:
Hệ số tạo tiền
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền trong nền kinh
tế là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô, khối lượng tín dụng mà
cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn giản chỉ làm tăng hay giảm đơn
thuần mà làm thay đổi theo số lần về tiền trong lưu thông.
2. Dự trữ bắt buộc với vai trò là công cụ áp chế tài chính của chính phủ.
Dự trữ bắt buộc trở thành một công cụ áp chế tài chính của chính phủ khi Ngân hàng
Trung ương ban hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao tại các ngân hàng. Thông thường, chính phủ
sử dụng phương pháp này nhằm đảm bảo an toàn khi xảy ra khủng hoảng tài chính, vì nếu
khủng hoảng tài chính xảy ra thường kéo theo việc rút tiền ồ ạt và để giảm chi phí các khoản
nợ cho chính phủ.
Tuy nhiên, việc áp dụng mức dự trữ bắt buộc cao cũng có mặt trái của nó. Một khi
khoản dự trữ này quá lớn sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực nghiêm trọng đến thị trường tài
chính.
Phương thức này được xem như là khoản thuế “chìm” mà các ngân hàng buộc phải
gánh chịu buộc các ngân hàng hạn chế cho vay và đầu tư vào các tài sản khác, lúc này các
ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng và/hoặc trả cho những
người gửi tiết kiệm một mức lãi suất thấp hơn để bù đắp lại chi phí cho việc nắm giữ nguồn
dự trữ không có lãi suất hoặc lãi suất rất thấp ở ngân hàng trung ương.
Cùng với đó là nguồn quỹ dành cho đầu tư của thị trường tài chính cũng sẽ giảm bởi
yêu cầu về mức dự trữ cao. Nói cách khác, nguồn vốn sẵn có bị chuyển khỏi những đối tượng
đi vay tiềm năng và chính phủ xem hệ thống ngân hàng trở thành một nguồn tài trợ, ưu tiên
cho những đối tượng vay khác, từ đó, hạn chế sự phát triển tự do của thị trường tài chính ở

các quốc gia.
Trong một hệ thống tài chính bình thường, dự trữ bắt buộc là công cụ để NHTW điều
hành chính sách tiền tệ (với mức thông thường dưới 10%). Trong một hệ thống tài chính bị áp
chế nặng nề, nhà nước duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc rất cao (trên 10%) với mục đích huy
động vốn cho chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng.
3. Ưu điểm – nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
3.1. Ưu điểm
Dự trữ bắt buộc là công cụ đầy quyền lực của NHTW, tác động nhanh và mạnh đến
lượng tiền cung ứng. Bởi lẽ, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì mức dự
trữ dư thừa và lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ thay đổi và dẫn đến thay đổi theo cấp số
nhân của khối lượng tiền cung ứng.
5


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

NHTW chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua việc thay đổi tỉ
lệ dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng
không phân biệt với những ngân hàng có điều kiện kinh doanh như nhau.
Ngoài ra, dự trữ bắt buộc còn được sử dụng để thiết lập mối quan hệ giữa việc tạo
tiền của hệ thống ngân hàng với nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW vì bằng việc năng tỉ lệ dự trữ
bắt buộc lên cao có thể buộc các ngân hàng phải tìm đến nguồn vốn từ NHTW.
3.2.

Nhược điểm

Do dự trữ bắt buộc là công cụ quyền lực mạnh nên nó thiếu tính linh hoạt. Vì chỉ cần

một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ về tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động của
toàn hệ thống ngân hàng.
NHTW sẽ khó có thể thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ vì như đã
nói ở trên, dự trữ bắt buộc tác động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng.
Có thể khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình trạng
mất "khả năng thanh toán ngay". Đồng thời, việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc
khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh khoản, làm phát
sinh tăng chi phí.
Dự trữ bắt buộc còn được coi là một khoản thuế vô hình đối với các NHTM vì các
ngân hàng phải giữ lại một bộ phận tiền gửi cho yêu cầu dự trữ bắt buộc mà không được sử
dụng để kiếm lời trong khi vẫn phải trả lãi huy động cho bộ phận này.
Các kiểm soát lãi suất ngặt nghèo, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cao tương tác với lạm phát và
thường làm cho lãi suất tiền gửi ở vào mức âm  cản trở phát triển hệ thống tài chính theo
chiều sâu.
Áp chế tài chính làm tăng chi phí cho nền kinh tế, gây tổn hại đến lợi ích của người
tiết kiệm. Nguồn lực được phân bổ lệch lạc, gây méo mó thị trường tín dụng. Năng suất vốn
có tiềm năng bị suy giảm.
Sử dụng quy tắc Taylor, nghiên cứu của Swiss Re (2015) cho thấy từ khi khủng
hoảng tài chính nổ ra, chỉ riêng những người tiết kiệm Mỹ đã phải chịu tổn thất khoảng 470 tỉ
USD về thu nhập lãi do các chính sách áp chế tài chính.
III.

Thực trạng áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc tại Việt Nam

1. Khung pháp lý:
Tại Luật Ngân hàng nhà nước số 46/2010/QH12, “Dự trữ bắt buộc” (DTBB) được xác
định là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc với
từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cũng quy định việc trả lãi đối với tiền

gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng đối với
từng loại tiền gửi.
6


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

Đối với đối tượng tổ chức tín dụng là Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước quy định về tỷ
lệ dự trữ bắt buộc về cơ bản theo: loại tiền gửi (bằng đồng Việt Nam hay ngoại tệ); kỳ hạn
(không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng hay kỳ hạn từ 12 tháng trở lên); đối tượng Ngân hàng
(Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hay Ngân hàng Thương mại
khác)… Ví dụ như từ tháng 6/20181, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nhóm Ngân hàng Thương
mại (ngoài Agribank) tương ứng với từng loại tiền gửi là: Gửi bằng VND không kỳ hạn và
dưới 12 tháng/kỳ hạn từ 12 tháng trở lên lần lượt là 3%/1% trên tổng số dư tiền gửi phải tính
DTBB, trong khi đó đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lần lượt là 7%/5%.
Phương pháp tính xác định DTBB được quy định tại văn bản hợp nhất số 10/VBHNNHNN ngày 17/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước về quyết định về việc ban hành quy chế dự
trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.2
2. Thực trạng tình hình sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng cao như một
công cụ áp chế tài chính ở Việt Nam.
2.1.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được Ngân hàng Nhà nước quy định đối với Ngân hàng
trong giai đoạn từ 1998-2018

Căn cứ số liệu thu thập (tổng hợp ở Biểu đồ 2.1), có thể nhận thấy giai đoạn từ cuối
năm 2007 đến năm 2011 là giai đoạn nổi bật Ngân hàng Nhà nước sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc của Ngân hàng cao như một công cụ áp chế tài chính ở Việt Nam, thể hiện ở quy định tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cao nhất trong giai đoạn nghiên cứu (Tỷ lệ DTBB đối với khoản tiền gửi

bằng VNĐ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng/VNĐ kỳ hạn 12 tháng trở lên/tiền gửi bằng
ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng/ngoại tệ kỳ hạn 12 tháng trở lên lần lượt xác
lập 11%/5%/11%/5% vào tháng 1 năm 2008), bên cạnh đó là liên tục điều chỉnh, quy định
bằng các văn bản quyết định do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành (11 văn bản khác
nhau).
Do đó, nhóm tập trung nghiên cứu và nhận định về thực trạng tình hình sử dụng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc của Ngân hàng cao như một công cụ áp chế tài chính trong giai đoạn này và
sau đó cho đến thời điểm hiện tại.

1

Quyết định số 1158/QD-NHNN ngày 29/5/2018 của Ngân hàng Nhà nước quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
2
Hợp nhất Quyết định số 581/2003/QD-NHNN ngày 09/6/2003 của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế dự
trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng, được sửa đổi bổ sung bởi: Quyết định số 1130/2015/QD-NHNN ngày
01/8/2005, Thông tư số 27/2011/TT-NHNN ngày 31/8/2011, Thông tư số 23/2015/TT-NHNN ngày 20/11/2015
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

7


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

Biểu đồ 1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng giai đoạn 1998-2018
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)3
Sự điều chỉnh tỷ lệ DTBB mạnh mẽ trong giai đoạn 2007-2011 là một trong những nguyên
nhân tác động đến lãi suất huy động – cho vay trên thị trường, thể hiện qua biểu đồ sau:


Biểu đồ 2. Diễn biến lãi suất huy động kỳ hạn trên 12 tháng trung bình của hệ thống ngân
hàng và lạm phát, 2008 – 2016
(Nguồn: LienVietPostBank)
3

Không bao gồm quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các đối tượng Ngân hàng đặc thù theo các thời kỳ (như
Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn – Agribank). Căn cứ các quyết định số 135/1998/QD-NHNN ngày
11/4/1998, 52/199/QD-NHNN ngày 10/2/1999, 191/1999/QD-NHNN ngày 31/5/1999, 235/QD-NHNN ngày
05/7/1999, 441/QD-NHNN ngày 10/10/2000, 496/QD-NHNN ngày 01/12/2000, 560/QD-NHNN ngày
27/4/2001, 1277/QD-NHNN ngày 18/11/2002, 582/QD-NHNN ngày 09/6/2003, 1141/QD-NHNN ngày
28/5/2007, 187/QD-NHNN ngày 16/1/2008, 2560/QD-NHNN ngày 03/11/2008, 2811/QD-NHNN ngày
20/11/2008, 2951/QD-NHNN ngày 03/12/2008, 3158/QD-NHNN ngày 19/12/2008, 379/QD-NHNN ngày
24/2/2009, 74/QD-NHNN ngày 18/1/2010, 750/QD-NHNN ngày 09/4/2011, 1209/QD-NHNN ngày 01/6/2011,
1925/QD-NHNN ngày 26/6/2011, 1158/QD-NHNN ngày 29/5/2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam

8


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

Theo đó, lãi suất trong năm 2008 điều chỉnh mạnh với biên độ khoảng 10% và tăng trở lại
trong giai đoạn 2009 - 2011.
2.2.

Giai đoạn 2007 đến năm 2011


Năm 2007:
*
Tình hình chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 8,48% so
với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra nhưng tình hình lạm phát gia tăng kỷ lục (CPI năm 2007
tăng lên mức kỷ lục là 12,63% so với tháng 12/2006). Bên cạnh đó còn một số khó khăn với
nền kinh tế như Đồng Việt Nam lên giá, bùng nổ tín dụng, yêu cầu luồng nội tệ để mua ngoại
tệ, thị trường chứng khoán ảm đạm…
*
DTBB: Ngày 28/5/2007, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số
1141/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ DTBB lên đáng kể đối với cả nội tệ và ngoại tệ, cụ thể: với
tiền gửi bằng VND không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
là 4%; tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 10%, kỳ hạn từ 12
tháng trở lên 4%, cao nhất kể từ năm 1998.
Trong tình hình tăng trưởng tín dụng mạnh, nhưng tỷ lệ DTBB tăng đột ngột đã dẫn
đến tình trạng các Ngân hàng Thương mại lâm vào khủng hoảng thiếu thanh khoản và cạn
kiệt tín dụng trong ngắn hạn, lãi suất huy động khoảng 9.5%/năm và khởi đầu cho cuộc đua
lãi suất trong năm 2008
Năm 2008:
*
Tình hình chung: GDP của Việt Nam tăng 6,23%, lạm phát vẫn ở mức cao, những
khó khăn từ năm 2007 vẫn còn là cản trở với nền kinh tế. Thực hiện theo chủ trương của
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước điều hành theo định hướng nhằm ổn định tiền tệ, kiềm chế
lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
*
DTBB: Riêng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước 5 lần ban hành quyết định điều
chỉnh tỷ lệ DTBB đối với cả tiền gửi VNĐ và ngoại tệ, cụ thể:
VNĐ không kỳ
hạn và kỳ hạn
dưới 12 tháng


VNĐ kỳ hạn
12 tháng trở
lên

Ngoại tệ không kỳ
hạn và kỳ hạn
dưới 12 tháng

Ngoại tệ kỳ
hạn 12 tháng
trở lên

16/01/2008 187/QĐ-NHNN

11%

5%

11%

5%

03/11/2008 2560/QĐ-NHNN

10%

4%

9%


3%

20/11/2008 2811/QĐ-NHNN

8%

2%

-

-

03/12/2008 2951/QĐ-NHNN

6%

2%

7%

3%

19/12/2008 3158/QĐ-NHNN

5%

1%

-


-

Ngày ban
hành

Văn bản

Đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước xác lập mức tỷ lệ DTBB cao kỷ lục nhằm thực
hiện các mục tiêu áp chế tài chính theo chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định
9


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

tiền tệ và kiềm chế lạm phát đã đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên tại thời điểm cuối năm 2008,
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và nới lỏng tín dụng, tỷ lệ DTBB đã điều chỉnh giảm xuống
còn 5%/1%/7%/3% tương ứng với từng loại tiền gửi như trên, tạo tiền đề vượt qua cơn sốc
lạm phát và chuẩn bị cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong năm tiếp theo. Việc điều
chỉnh này tác động một phần giúp ổn định lãi suất giảm mạnh trong thời gian từ đầu năm đến
cuối năm 2008. Mức lãi suất huy động từ tháng 1 là 8.5%/năm đã lên đến đỉnh điểm vào
tháng 6 là 18.5%/năm. Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, lãi suất huy động có sự thoái trào. Từ đỉnh
điểm 18.5%/năm, lãi suất huy động giảm về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa
21%/năm còn 12.75%/năm.
Năm 2009:
*
Tình hình chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 5,28%,
trong đó so với năm 2008 thì Quý I, II tăng trưởng thấp hơn nhưng Quý III, IV tăng 6,9%, thể
hiện kết quả của những biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ,

mặc dù ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn còn.
*
DTBB: Ngày 24/2/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số
379/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ DTBB lên đáng kể đối với cả nội tệ và ngoại tệ, cụ thể: với
tiền gửi bằng VNĐ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 3%, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là
1%; tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 7%, kỳ hạn từ 12 tháng
trở lên 3%.
Việc thay đổi này được đưa ra nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và có
thêm cơ hội hỗ trợ vốn cho các Ngân hàng có điều kiện huy động và mở rộng vốn hiệu quả
hơn.
Năm 2010:
*
Tình hình chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 6,78%, vượt
mục tiêu đề ra và cao hơn hẳn so với năm 2009. Kết quả do nền kinh tế thế giới dần phục hồi,
xuất khẩu phục hồi nhanh do thêm ưu thế về tỷ giá.
*
DTBB: Ngày 18/1/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định số
74/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ DTBB lên đáng kể đối với cả nội tệ và ngoại tệ, cụ thể: với
tiền gửi bằng VNĐ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 3%, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là
1%; tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 4%, kỳ hạn từ 12 tháng
trở lên 2%, thấp nhất trong giai đoạn.
Bên cạnh đó, hệ số nhân tiền trong giai đoạn 2009 đến tháng 10/2010 tăng mạnh (xét trong
quá khứ, hệ số nhân tiền đã gia tăng dần từ mức 1.6-1.7 vào các năm 1996-1997 lên mức 2.32.5 vào các năm 2000-2001, 3-3.5 vào các năm 2006-2007 và đạt mức 5-5.2 vào cuối năm
2010) do tỷ lệ tiền ngoại hệ thống vẫn trong xu hướng giảm thì tỷ lệ DTBB cũng giảm mạnh.
Năm 2011
*
Tình hình chung: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 5,89%,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách khống chế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ ở mức
dưới 20% trong năm 2011.
10



CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

*
DTBB: Trong năm 2011, Ngân hàng Nhà nước 3 lần ban hành quyết định điều chỉnh
tỷ lệ DTBB đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ (giữ nguyên đối với Việt Nam Đồng) tại
các quyết định số 750/QĐ-NHNN ngày 09/4/2011, số 1209/QĐ-NHNN ngày 01/6/2011, số
1925/QĐ-NHNN ngày 26/6/2011, theo đó đến cuối năm 2011, tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi
bằng ngoại tệ không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng là 8%, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 6%,
cao nhất trong giai đoạn.
Việc tăng tỷ lệ DTBB ngoại tệ phù hợp và giải quyết áp lực về tỷ giá và lạm phát
trong ngắn hạn.
2.3.

Giai đoạn 2012 cho đến nay:

*
Tình hình chung: Nền kinh tế qua thời kỳ khủng kinh tế thế giới, vào giai đoạn tăng
trưởng và phát triển ổn định, có nhiều thuận lợi. Tăng trưởng GDP từ mức 5,03% năm 2012
lên đến 6,7% năm 2017.
*
DTBB: Từ năm 2011 đến nay, tỷ lệ DTBB về cơ bản không hề điều chỉnh mà chỉ tập
trung ưu tiên cho một số Ngân hàng, tổ chức tín dụng hỗ trợ vốn tín dụng cho lĩnh vực nông
nghiệp nông thôn. Ví dụ như năm 2012, giảm tỷ lệ DTBB đối với 4 ngân hàng: Ngân hàng
Mekong, Agribank, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB),
LienVietPostBank, nhằm tiếp thêm nguồn vốn cho riêng khu vực này. Mặc dù tỷ lệ DTBB
không điều chỉnh nhưng các yếu tố về nhu cầu vốn tăng cao khiến lãi suất tương đối cao.

Đáng chú ý trong giai đoạn 2013-2014, mặc dù giữ nguyên tỷ lệ DTBB nhưng lượng
vốn của các Ngân hàng gửi tại Ngân hàng Nhà nước vẫn vượt quá yêu cầu, có hiện tượng thừa
vốn. Lãi suất ở thời kỳ này tương đối ổn định và có xu hướng giảm dần, chỉ khoảng 7%10%/năm. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước phải kết hợp các biện pháp khác để tránh tạo áp lực
lên lạm phát, mất giá Việt Nam đồng và biến động tỷ giá.
Kết luận: Tại Việt Nam, tỷ lệ DTBB được sử dụng khá linh hoạt trong những năm 20072010, khi kinh tế chịu tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đây là một phần nguyên nhân
giúp kiểm soát lãi suất, tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, NHNN duy trì tỷ lệ DTBB ở mức ổn định, sử dụng các công cụ khác trong chính
sách tiền tệ để đảm bảo nguồn cung vốn và tăng trưởng kinh tế hợp lý.
IV.

Kiến nghị và Giải pháp

Có thể nói, từ khi ra đời, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện Luật Ngân hàng cho đến
nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã dần được nâng cao hiệu quả điều hành qua những sửa đổi bổ
sung trong chính sách quản lí, góp phần thực thi tốt chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam.
Tuy nhên, công cụ này vẫn còn bộc lộ một số bất cập trong điều hành. Do đó việc đưa ra
những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều hành của công cụ này là hết sức cần
thiết đối với NHNN trong giai đoạn hiện nay.
Hệ thống tài chính cần phải được tự do hóa sau khi nền kinh tế đạt được ổn định vĩ mô,
các cải cách về giá cả và thương mại được thực hiện và hệ thống kiểm soát và giám sát tổ
chức tài chính được tăng cường.

11


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

Nhưng thay vì tự do hóa tài chính hoàn toàn, chính phủ nên thực hiện áp chế tài chính ở

mức độ vừa phải và thực hiện trong điều kiện nhất định. Ngoài việc sử dụng công cụ dự trữ
bắt buộc, chính phủ cần áp dụng linh hoạt các biện pháp khác như: lãi suất, tỷ giá, …
Áp chế tài chính ở mức độ vừa phải (mild financial repression) để tạo nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách trong điều kiện chính phủ không đảm bảo được khả năng thu thuế đầy đủ.
Kiềm chế tài chính (financial restraint) để kiểm soát thông tin bất cân xứng và hiệu
chỉnh thất bại thị trường trong các giao dịch tín dụng.

12


CH27C - Nhóm 2 - KTQD

Tổ chức và thị trường tài chính

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình kinh tế học (Tập II), 2013, Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
2) />3) Quyết định số 1158/QD-NHNN ngày 29/5/2018 của Ngân hàng Nhà nước.
4) Văn bản Hợp nhất Quyết định số 581/2003/QD-NHNN.

13



×