Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP ngoại thương việt nam CN quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.34 KB, 87 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trên luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Anh Vũ


ii

MỤC LỤC
*Biểu hiện rủi ro tín dụng..........................................................................................7
1.2.2.3 Các nhân tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng.........................................16
2.1 Giới thiệu Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam..................21

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển.....................................................................21


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBTD

: Cán bộ tín dụng

CBTĐ


: Cán bộ thẩm định

CDS

: Giao dịch hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit default swap-CDS)

CIC

: Trung tâm Thông tin ứng dụng

CN

: Chi nhánh

DN

: Doanh nghiệp

HĐKD

: Hoạt động kinh doanh

HĐSXKD

: Hoạt động sản xuất kinh doanh

KTKSNB

: Kiểm tra kiểm soát nội bộ


NHNT

: Ngân hàng Ngoại thương

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NH TMCP

: Ngân hàng Thương mại Cổ phần

PGD

: Phòng giao dịch

RRTD

: Rủi ro tín dụng

SXKD

: Sản xuất kinh doanh

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TSĐB


: Tài sản đảm bảo

VCB

: Vietcombank

VND

: Việt Nam đồng


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số

Tên bảng

Trang

hiệu bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3

Tình hình huy động vốn VCB Quảng Nam từ năm 2006-2010
Tình hình cho vay của VCB Quảng Nam từ năm 2006-2010
Kết quả hoạt động kinh doanh VCB Quảng Nam từ năm 2006-


25
26
28

2010



1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trước tình hình kinh tế trong nước bị suy giảm do tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngành
Ngân hàng.
Suy thoái kinh tế và sự sụt giảm nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu chính của
Việt Nam đã dẫn đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp không cao, bên cạnh
đó các Ngân hàng thương mại còn chịu sự khống chế mức dư nợ tối đa của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam nhằm ổn định nền kinh tế. Giảm tăng trưởng tín dụng
đồng nghĩa với việc các ngân hàng giảm bớt lợi nhuận từ hoạt động truyền thống
chiếm tới 60-70% thu nhập của toàn hệ thống. Chính vì vậy nhận thức được vai trò
quan trọng của rủi ro trong hoạt động tín dụng, xác định các nguyên nhân để đề ra
các biện pháp hiệu quả trong việc phòng ngừa và hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng
đang là vấn đề sống còn và phát triển của các NHTM Việt Nam. Nợ xấu luôn là cái
bóng đè nặng lên các NHTM Việt Nam.
Sau nhiều sự kiện đổ vỡ xảy ra cho ngành ngân hàng như Nguyễn Thị Diệu
Hiền (Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy Sản Bình An)…. và gần đây là hàng loạt vụ
lừa đảo ngân hàng chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng trong đó cũng có không ít vụ được
sự giúp đỡ không nhỏ của cán bộ ngân hàng, chứng tỏ công tác quản lý rủi ro tín
dụng tại các ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức. Là một người làm công tác

tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam, bản thân
muốn chia sẻ một phần nào kinh nghiệm về phòng ngừa rủi ro tín dụng trong thời
gian công tác, cũng như đóng góp một vài giải pháp phòng ngừa chủ yếu nhằm giúp
ngân hàng phát triển, hiệu quả, an toàn và bền vững hơn trong thời gian tới.
Vì vậy, việc chọn đề tài “Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam” cho luận văn tốt nghiệp là rất cần
thiết, với mong muốn hoàn thiện lý luận chuyên môn của bản thân, tiếp cận nghiên
cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đề xuất một số giải pháp


2

nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN
Quảng Nam, góp phần đẩy mạnh sự phát triển hoạt động tín dụng trong điều kiện
hội nhập.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của các
NHTM.
- Phân tích tình hình kinh doanh và các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng, từ
đó nêu lên những tồn tại và nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn chủ yếu dựa vào phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,

phương pháp phân tích và tổng hợp để nghiên cứu luận văn.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng Ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng công tác Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam- CN Quảng Nam


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Tín dụng Ngân hàng và Rủi ro tín dụng Ngân hàng
1.1.1 Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái xã hội khác
nhau. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì tín dụng là sự vay mượn vốn trên nguyên tắc có
hoàn trả, trong đó, hai chủ thể là người đi vay và người cho vay sẽ thỏa thuận theo
một thời hạn nợ và một mức lãi cụ thể. Còn theo nghĩa rộng thì tín dụng là sự vận
động của vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu theo nguyên tắc hoàn trả [3].
Từ tín dụng có nguồn gốc từ chữ Latinh Credittium có nghĩa là “tin tưởng”,
“tín nhiệm”. Nói cách khác, muốn quan hệ tín dụng tồn tại đòi hỏi phải tạo lập được
niềm tin và đây là cơ sở quan trọng để quan hệ tín dụng hình thành. Từ các cơ sở
trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tín dụng như sau:
Tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời
bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết nhận trả theo thời hạn đã thỏa thuận.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách

khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Quá trình vận động mang
tính chất hoàn trả của tín dụng là biểu hiện đặt trưng nhất cho sự khác biệt giữa
quan hệ tín dụng và các mối quan hệ tiền tệ khác.
Mặc dù tồn tại qua các hình thái kinh tế xã hội với nhiều hình thức khác nhau
nhưng tín dụng đều mang các đặc điểm cơ bản sau:
- Tín dụng chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể
khác mà không làm thay đổi quyền sở hữu chúng.
- Tín dụng bao giờ cũng có thời hạn.


4

- Giá trị của tín dụng không những được bảo toàn mà còn được nâng lên nhờ
lợi tức tín dụng. Người cho vay nhận giá trị sử dụng là lãi, hoạt động tín dụng tiềm
ẩn rủi ro rất lớn nên trong quan hệ tín dụng phải có lòng tin.
1.1.2 Rủi ro tín dụng Ngân hàng
Theo Hennie Van Greaning – Sonja B.Rajovic Bratonovic (the World Bank):
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền
lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây
là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc hoàn trả bị
trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được toàn bộ vốn gốc và lãi. Điều này
gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, gây ảnh hưởng đến khả năng thanh
toán của ngân hàng.
Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra
khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo
thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của
vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn (Bank
Management, University of South Carolina, The Dryden Press, 1995, page 107).
Theo Anthony Saunder và Marcia Millon Cornett: Rủi ro tín dụng nảy sinh do
một khả năng nào đó làm dòng tiền dự tính từ các khoản tài chính phải đòi được

nắm giữ bởi các tổ chức tài chính như các khoản cho vay sẽ không được trả đầy đủ.
Hầu như tất cả các tổ chức trung gian tài chính đều phải đối mặt với rủi ro này. Nếu
khoản nợ gốc được trả đầy đủ khi đến hạn và các khoản thanh toán lãi được thực
hiện vào những ngày đã thỏa thuận trước, các tổ chức tài chính sẽ luôn luôn nhận lại
được khoản gốc cho vay cộng thêm một khoản tiền lãi. Điều đó có nghĩa là họ
không phải đối mặt với rủi ro tín dụng. (Financial institution management, A risk
management approach, McGraw Hill international editor, 2006)
Theo ủy ban Basel thì “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay hoặc
bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã
cam kết. Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước
trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng
nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nợ và lãi”.


5

Còn theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” [5].
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các nội
dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả
nợtheo hợp đồng, bao gồm vốn và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayedpayment) hoặc không thanh toán (non-payment).
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến
thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
- Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu đa
dạng trong kinh doanh, các dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn,

vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy
nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ
quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
- Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng
biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì rủi ro
tiềm ẩn càng lớn).
- Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ
hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do
chúng gây ra.
Tuy nhiên một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ
xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín
dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng,
ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi


6

ro tín dụng được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ
và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
* Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầu
nghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các
loại khác nhau.
- Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau đây:

Rủi ro
tín dụng

Rủi ro danh mục


Rủi ro
nội tại

Rủi ro
tập
trung

Rủi ro giao dịch

Rủi ro
lựa
chọn

Rủi ro
đảm
bảo

Rủi ro
nghiệp
vụ

Rủi ro danh mục là rủi ro do việc quản lý danh mục cho vay của ngân hàng
không hiệu quả, không phù hợp với định hướng của nền kinh tế hoặc định hướng
phát triển của ngân hàng. Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ các yếu tố mà bản thân CBTD làm tốt
công việc của mình cũng không thể tránh khỏi. Nó mang tính riêng biệt của mỗi chủ
thể đi vay hoặc nền kinh tế.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro mà ngân hàng đã dồn dư nợ cho vay vào một số
khách hàng, một số thành phần kinh tế, ngành kinh tế hoặc một khu vực địa lý.

Rủi ro giao dịch là rủi ro phát sinh trong quá trình xem xét quyết định cho vay
và giải ngân một khoản vay. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm
bảo và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng.


7

+ Rủi ro đảm bảo: là rủi ro xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo, như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo và mức an toàn của nó.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay như xây
dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho việc thực hiện cho vay và
kiểm soát danh mục cho vay, tái xét và giám sát danh mục cho vay, bao gồm cả việc
sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro
thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro
khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người
vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay
trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do
nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý
làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ
cấucác loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử
dụng vốn vay…

*Biểu hiện rủi ro tín dụng
RRTD ẩn chứa trong những khoản cho vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Dưới đây là một số dấu hiệu cơ bản giúp nhận biết, phán đoán
và sớm có những biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn RRTD xảy ra:
- Nhóm dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng: nhóm dấu hiệu liên quan

đến mối quan hệ với ngân hàng. Có thể phát hiện rủi ro thông qua các hành vi ứng
xử của khách hàng như: Việc trì hoãn hoặc gây khó khăn đối với ngân hàng trong
quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình
tài chính, HĐSXKD của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết
phục; không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình tín
dụng; chậm gởi hoặc trì hoãn gởi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có
sự giải thích minh bạch, thuyết phục; không có các báo cáo hay dự toán về lưu
chuyển tiền tệ; mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá


8

nhu cầu dự kiến; TSĐB không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định
giá khi cho vay; tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc
biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng; sử dụng nhiều các nguồn tài trợ ngắn hạn
cho các hoạt động đầu tư dài hạn; đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần
không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục về việc gia hạn hay điều chỉnh ký
hạn nợ; sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gởi mở tại ngân hàng, xuất hiện
những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và
tổng mức lưu chuyển tiền gởi thanh toán của ngân hàng; chậm thanh toán các khoản
lãi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn; xuất hiện nợ quá
hạn, nợ xấu do khách hàng không có khả năng hoàn trả, hoặc khách hàng không
muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, gia tăng bất thường hàng tồn kho, các
khoản bán chịu và các khoản nợ, giảm bất thường giá bán hàng hóa, thu hồi công nợ
chậm hơn dự tính.[8]
- Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính
và HĐSXKD của khách hàng: Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất
lượng các khoản tín dụng, nhưng tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ
chính HĐSXKD của khách hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt
chẽ, sâu sát của NHTM. Các dấu hiệu cụ thể: có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay

dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng; những
thay đổi bất thường trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của
khách hàng; xuất hiện càng nhiều chi phí bất hợp lý như: gia tăng đột biến trong chi
phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức để gây ấn tượng với các thiết bị văn
phòng hiện đại, phương tiện đi lại đắt tiền; thay đổi thường xuyên ban điều hành,
xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá
trình quản lý; những thay đổi từ chính sách Nhà nước, đặc biệt là các tác động của
các chính sách thuế xuất nhập khẩu, thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến
chiến lược và kế hoạch SXKD của khách hàng; kết quả kinh doanh lỗ; khách hàng
gặp rủi ro khách quan (bão lụt, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh dịch xảy ra, bạn hàng của


9

khách hàng gặp rủi ro hoặc bị phá sản, bị truy tố,…); tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu (hệ số
đòn bẩy) tăng.[8]
- Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính ngân hàng: Có thể nhìn nhận những
dấu hiệu rủi ro từ chính NHTM, bao gồm: Sự đánh giá và phân loại không chính
xác về mức độ rủi ro của khách hàng; cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc
chắn và thiếu tính bảo đảm; tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả
năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng; cho vay dựa trên
sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sát nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ
chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập; chính sách tín dụng quá cứng nhắc
hoặc quá lỏng lẻo để kẻ hở cho khách hàng lợi dụng; soạn thảo các điều kiện ràng
buộc trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp mập mờ không rõ ràng; cung cấp
tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối
ưu của ngân hàng, tỷ lệ tín dụng cao cho một ít khách hàng, khách hàng có trụ sở
ngoài lãnh địa hoạt động của ngân hàng; hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân
thủ hay tuân thủ không đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng; có xu
hướng cạnh tranh thái quá; chưa nhạy cảm với sự thay đổi các điều kiện môi trường

kinh tế; thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng khoản tín dụng.[8]
1.1.3 Nguyên nhân rủi ro tín dụng
RRTD xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nhóm nguyên nhân
chính sau đây:
- Nguyên nhân từ phía môi trường kinh doanh
Thứ nhất, môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế tác động mạnh đến HĐKD
của các NHTM. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả và sẽ có nhiều khả năng trả nợ NHTM. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi
vào tình trạng suy thoái, mất ổn định khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong hoạt động, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng. Điều
này tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ các khoản vay của NHTM.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động của các NHTM. Chẳng hạn: Chính phủ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng


10

kinh tế cao, điều này sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát leo thang, khi lạm phát tăng cao
sẽ làm tăng chi phí đầu vào trong kinh doanh của các khách hàng, gây khó khăn
trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hậu quả là năng lực trả nợ của các khách hàng đối
với NHTM bị suy giảm; hoặc Chính phủ thay đổi các chính sách tài chính, tiền tệ sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới HĐKD của NHTM.
Thứ hai, nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, những thay đổi nhu cầu của
người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật công nghệ của một ngành nào đó) có thể làm phá
sản cả một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có hiệu quả vào thua
lỗ, mất khả năng trả nợ. Điều này đặt các NHTM phải đối mặt với rủi ro mất vốn.
Thứ ba, nguyên nhân thông tin bất cân xứng. NHTM thực hiện các nghiệp vụ
tài sản Nợ, tài sản Có, chuyển vốn từ người gởi tiền sang người vay tiền – toàn bộ
các giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu
biết đầy đủ về nhau. Song thực tế là một bên thường không biết hết những gì cần

biết về phía bên kia và sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được như vậy
được gọi là “thông tin không cân xứng”. Việc thiếu thông tin trong các giao dịch sẽ
đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” và rủi ro đạo đức. Thông tin không cân xứng trên
thị trường tài chính khiến các NHTM phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra RRTD cho ngân hàng.
Khách hàng có thể đem lại rủi ro cho các NHTM khi:
Doanh nghiệp có năng lực tài chính thấp kém, tỷ lệ vốn tự có thấp, năng lực đi
vay của doanh nghiệp yếu kém, hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao do doanh
nghiệp chưa theo kịp các biến động của thị trường. Vốn tự có tham gia SXKD thấp
so với nhu cầu về vốn kinh doanh. Trong tình huống này, buộc khách hàng phải đi
huy động vốn. Nếu NHTM đáp ứng phần vốn còn thiếu hụt này của khách hàng thì
nguy cơ tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng sẽ tăng cao.
Công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh
cao, điều này sẽ khiến HĐKD của khách hàng gặp nhiều khó khăn. Một khi khách


11

hàng gặp khó khăn trong kinh doanh thì sẽ khiến các NHTM đối mặt với rủi ro
trong cho vay.
Trình độ quản lý của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, doanh nghiệp quản lý
vốn không hợp lý, dẫn đến thiếu thanh khoản, hay rủi ro từ thị trường cung cấp vật
tư, nguyên liệu, thị trường tiêu thụ. Năng lực quản trị điều hành của bộ máy lãnh
đạo các doanh nghiệp bị hạn chế, thiếu thông tin thị trường, thiếu thông tin về các
đối tác, về bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch SXKD. Một khi điều này xảy ra
sẽ khiến các NHTM đối mặt với nguy cơ rủi ro cao khi cho vay các khách hàng này.
Sự thiếu thông tin về khách hàng vay và thông tin về môi trường kinh tế mà
khách hàng đó hoạt động là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến RRTD. Sự thay đổi trong
ý muốn trả nợ của khách hàng phải xuất phát từ môi trường kinh doanh chưa ổn

định, pháp luật còn nhiều kẻ hở, một số khách hàng cố ý sử dụng vốn vay sai mục
đích, cố ý lừa đảo ngân hàng.
Thiện chí trả nợ vay ngân hàng của các khách hàng vay vốn. Một khi khách
hàng thiếu thiện chí trả nợ các khoản đã vay thì các NHTM sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong thu hồi nợ vay. Khách hàng không duy trì được đầy đủ tất cả các điều
kiện quy định trong suốt quá trình sử dụng vốn vay, ý muốn trả nợ của khách hàng
không được duy trì trong suốt thời gian vay. Đây chính là rủi ro xuất phát từ đạo
đức của người đi vay.
Các nguyên nhân này ngân hàng có thể xác định được thông qua quá trình
thẩm định, tìm kiếm, nắm vững tình hình HĐSXKD của khách hàng cả nước, trong
và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án
SXKD.
- Nguyên nhân từ bản thân các ngân hàng
RRTD có thể xuất phát từ chính bản thân các NHTM, do trình độ quản lý yếu
kém của ngân hàng. Cụ thể:
• Do trình độ chuyên môn, kiến thức kinh doanh của nhân viên ngân hàng còn
nhiều hạn chế: bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
• Tư cách đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của CBTD còn nhiều yếu kém,
thiếu sự quan tâm kiểm tra giám sát của các cấp lãnh đạo.


12

• Do ngân hàng không dự đoán được sự biến động của nền kinh tế dẫn đến
việc cung cấp tín dụng cho những ngành suy thoái, kém phẩm chất trong tương lai.
Thiếu kỹ năng nắm bắt, phân tích thông tin thị trường, thiếu khả năng dự báo chiều
hướng biến động của thị trường, nhất là thị trường kinh doanh của các khách hàng
chiến lược.
• Do ngân hàng cho vay và đầu tư quá liều lĩnh hay là do tập trung vốn quá nhiều
để cho vay vào một số doanh nghiệp hoặc một số ngành kinh tế có nhiều rủi ro.

• Do thiếu am hiểu về thị trường, thiếu thông tin hoặc là việc phân tích khách
hàng chưa hoàn thiện, thận trọng. Vẫn cho những khách hàng có năng lực tài chính
yếu kém vay vốn. HĐKD của ngân hàng còn nhiều điểm hạn chế, hiệu quả thấp.
• Không chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tín dụng.
• Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, quy trình tín dụng còn lỏng
lẻo, nhiều sơ hở, công tác quản trị rủi ro chưa hữu hiệu, chưa chú trọng phân tích
khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện cho vay và khả năng trả nợ.
• Kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định hạn mức tín
dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là cấp tín
dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa phong phú. Ngân hàng chưa quan tâm đúng
mức đến công tác huy động vốn để cải thiện chất lượng cho vay. Các nguồn vốn đầu
vào có lãi suất cao là gánh nặng cho các doanh nghiệp, làm giảm khả năng trả nợ
của khách hàng.
• Ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến điều kiện tiên quyết khi cho vay là
dự án kinh doanh phải có lãi, vấn đề xử lý nợ chưa tốt.
Rủi ro từ tài sản thế chấp: đánh giá giá trị tài sản thế chấp không chính xác,
cao hơn giá trị thực của tài sản hay không dự đoán được giá trị tương lai của tài sản
hay nhận thế chấp bằng những tài sản khó phát mãi.
1.1.4 Những hậu quả từ rủi ro tín dụng
RRTD luôn đem đến những hậu quả rất khó lường cho nền kinh tế cũng như
chính bản thân các NHTM.


Đối với nền kinh tế


13

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các
cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản thì người gởi

tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các
ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá
sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình HĐSXKD của doanh nghiệp, không có tiền trả
lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn.
Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền
kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp
tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới
vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và mới
đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn
cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên
RRTD tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế tế các nước có liên quan.


Đối với ngân hàng

- Làm giảm uy tín của NHTM. RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực HĐKD
của NHTM không tốt, làm suy giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường huy động
vốn do suy giảm lòng tin của công chúng gởi tiền, suy giảm tín nhiệm trên thị
trường tiền tệ quốc tế, gây khó khăn trong việc quan hệ vay vốn nước ngoài, thiết
lập quan hệ đại lý với nước đó, hạn chế năng lực cạnh tranh.
- Làm suy giảm năng lực thanh toán của NHTM. RRTD xảy ra làm cho
NHTM không thu hồi được gốc và lãi số vốn đã cho vay theo kế hoạch đã định.
Trong khi đó, ngân hàng vẫn phải thanh toán các nghĩa vụ tài chính đến hạn. Đó là
nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản.
- Làm giảm lợi nhuận trong hoạt động NHTM. Khi RRTD xảy ra, NHTM
không thu hồi được nợ vay như dự kiến ban đầu, làm chậm tốc độ quay vòng vốn,
mất cơ hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí thua lỗ; thu nhập
giảm sút, giảm phần nộp ngân sách, hạn chế tích lũy để hiện đại hóa công nghệ và
đầu tư đào tạo nhân viên. Ngân hàng bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí



14

phải xóa nợ. Các ngân hàng phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên làm giảm thu nhập
của ngân hàng.
- Làm tăng nguy cơ phá sản ngân hàng. RRTD gây thoát vốn, các NHTM có
thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn tới phá sản.
Tóm lại, RRTD của ngân hàng xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau: nhẹ nhất
là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, nặng nhất là ngân hàng không thu được vốn và
lãi, nợ thất thu với tỉ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng
này kéo dài, ngân hàng có thể bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh
tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản
trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm
giảm thiểu RRTD
1.2 Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng trong ngân hàng:
‘Phòng ngừa: là Phòng không cho những điều bất lợi, tại hại xảy ra’ (theo từ
điển Tiếng Việt Việt Nam). Tương tự phòng ngừa rủi ro tín dụng là quản lý mọi hoạt
động tín dụng không cho rủi ro xảy ra.
‘Hạn chế: là giữ lại, ngăn lại trong một giới hạn nhất định, không để cho vượt
qua’ (theo từ điển Tiếng Việt Việt Nam). Tương tự Hạn chế RRTD là những biện
pháp, cách thức tổ chức nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng trong một mức giới hạn
nhất định, không cho nó xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng ở mức giới hạn cho
phép.
Như vậy phòng ngừa và hạn chế rủi ro là những biện pháp, cách thức, tổ chức
quản lý mọi hoạt động tín dụng để không cho rủi ro xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì
cũng ở một mức chấp giới hạn cho phép.
1.2.1. Sự cần thiết của phòng ngừa và hạn chế RRTD trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng
Rủi ro là yếu tố gắn liền với mọi hoạt động đầu tư nói chung, trong đó có hoạt

động cho vay của các ngân hàng. Trong nỗ lực nhằm thu được lợi nhuận, các ngân
hàng không thể chối bỏ rủi ro, nghĩa là không thể không cho vay, mà chỉ có thể tìm


15

cách làm cho hoạt động này trở nên an toàn và hạn chế đến mức tối đa những tổn
thất có thể có bằng cách đề ra cho mình một chiến lược quản lý rủi ro thích hợp.
Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM là một
việc rất quan trọng bởi vì khi rủi ro tín dụng xảy ra không những ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả kinh tế mà nó tác động và ảnh hưởng to lớn về mặt xã hội..
1.2.2 Nội dung công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng trong quy trình
nghiệp vụ hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.2.2.1. Các nội dung phòng ngừa rủi ro tín dụng:
+ Về chính sách tín dụng:
 Tránh tập trung tín dụng, giảm thiểu rủi ro.
 Sàng lọc khách hàng đi vay.
 Sử dụng chính sách tín dụng linh hoạt.
+ Hoàn thiện và chấp hành nghiêm các quy định, quy trình của Ngân hàng
 Hoàn thiện quy trình cho cho vay.
 Sử dụng các hình thức đảm bảo tín dụng.
 Thiết lập các tín hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng.
1.2.2.2. Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng:
 Tiếp tục thực hiện hợp đồng tín dụng đã ký.
- Chuyển nợ quá hạn: Đây là biện pháp tác động vào khách hàng đi vay bằng
lãi suất cao để khách hàng ưu tiên trả nợ.
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Đây là biện pháp giảm số tiền trả nợ ở một vài kỳ
hạn nhất định trước mắt và tăng số tiền trả nợ ở các kỳ hạn phía sau nhưng không
kéo dài thời hạn đi vay.
- Gia hạn nợ: Đây là biện pháp kéo dài thời hạn cho vay nhằm giảm số tiền trả

nợ hàng kỳ và tăng số kỳ trả nợ.
 Xử lý hợp đồng tín dụng.
- Yêu cầu người bảo lãnh trả nợ: Khi khách hàng vay không trả được nợ, các
TCTD sẽ yêu cầu người bảo lãnh trả nợ thay.


16

- Xử lý theo pháp luật: Khởi kiện ra tòa án, tố cáo với cơ quan công an... để
nhanh chóng xử lý khách hàng.
- Xử lý rủi ro từ quỹ dự phòng rủi ro: Các TCTD xử lý rủi ro từ quỹ dự phòng
XLRR, chuyển dư nợ từ nội bảng sang ngoại bảng để lành mạnh hóa dư nợ
1.2.2.3 Các nhân tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng.
Để việc hạn chế rủi ro tín dụng đạt hiệu quả cao thì phải việc ngân hàng thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, tuy nhiên các biện pháp này cũng chịu nhiều sự tác
động bởi các yếu tố chủ quan cũng như khách quan.
a. Nhân tố thuộc về ngân hàng.
Ngân hàng luôn đưa ra các công cụ để hạn chế rủi ro tín dụng: bao gồm chính
sách tín dụng, quy trình tín dụng, cách thức quản lý tiền cho vay của ngân hàng,
chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng, hệ thống thông tin tín dụng, đa dạng hóa
hoạt động.
b. Nhân tố thuộc về khách hàng
Ngân hàng thực hiện hoạt động tín dụng nhằm phục vụ khách hàng, các khoản
tín dụng nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của khách hàng. Vì vậy muốn
hạn chế rủi ro tín dụng, thì ngân hàng không thể làm một mình mà còn phải có sự
hợp tác từ phía khách hàng. Các yếu tố phụ thuộc về bản thân người vay như trình
độ, năng lực quản lý ảnh hưởng trực tiếptớ hiệu quả của phương án kinh doanh –
nguồn trả nợ đầu tiên cho ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới việc trả nợ cho ngân
hàng. Trong trường hợp phương án kinh doanh không hiệu quả thì năng lực tài
chính của người vay lại là yếu tố mang quyết định trong việc trả nợ ngân hàng. Bên

cạnh đó, khách hàng có phẩm chất đạo đức tốt, vị trí xã hội quan trọng đảm bảo dù
không chắc chắn rằng khách hàng không cố tình lừa đảo ngân hàng hay chây ỳ
trong việc trả nợ. Như vậy, các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng như trình độ
quản lý, năng lực tài chính, tư cách phẩm chất đạo đức có ảnh hưởng lớn tới việc
hạn chế rủi ro tín dụng trong ngân hàng.
Ngoài những yếu tố thuộc về bản thân khách hàng thì môi trường hoạt động
của họ cũng tác động tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Một khách
hàng tốt không may bị các nguyên nhân khách quan như bão lụt chẳng hạn làm ảnh


17

hưởng đến hoạt động knh doanh làm cho họ không có khả năng trả nợ mặc dù họ
không có ý định không trả nợ.
1.2.3 Một số mô hình xếp hạng khách hàng
Trước đây, hầu hết các ngân hàng trên thế giới chỉ dựa duy nhất vào truyền
thống (định tính) để đánh giá RRTD khách hàng vay. Phương pháp này mất nhiều
thời gian, tốn kém lại mang tính chủ quan. Chính vì vậy, các ngân hàng không
ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng để ra quyết định cho vay. Tuy
nhiên, nhiều ngân hàng hiện nay khi cấp tín dụng cho khách hàng vẫn tiếp tục sử
dụng chủ yếu phương pháp truyền thống để đánh giá RRTD.
Ngày nay, bên cạnh phương pháp định tính, ngân hàng đã sử dụng mô hình
cho điểm để lượng hóa RRTD. Mô hình này cho phép xử lý nhanh chóng một khối
lượng lớn các đơn xin vay nhất là vay cá nhân nhằm mục đích tiêu dùng với chi phí
thấp và khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát RRTD ngân hàng.
Tùy theo từng loại khách hàng mà sử dụng các tiêu chí để tính điểm. Đối với khách
hàng cá nhân thì tiêu chí là thu nhập, tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhà ở,
tài sản hiện có… Đối với khách hàng doanh nghiệp thì sử dụng các tiêu chí tài
chính như hệ số khả năng thanh toán, hệ số đầu tư tài sản cố định, hệ số lãi (ROA,
ROE)… Sau khi các tiêu chí đã được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử dụng

để lượng hóa (cho điểm) và phân dạng RRTD.
Một số mô hình lượng hóa RRTD cơ bản thường được sử dụng nhất:
1.2.3.1 Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model)
Đây là mô hình E. I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD với
người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 +3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:


18

• X1 = Hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản.
• X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản.
• X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản.
• X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của
tổng nợ.


X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản.

Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z
thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn
1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao.
Bên cạnh các ưu điểm thì mô hình này có nhược điểm:
- Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm “vỡ nợ” và

“không vỡ nợ”. Trong thực tế thì vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả
hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay đến việc không hoàn trả nợ gốc và lãi tiền
vay. Do đó mô hình này chưa đo lường được chi tiết, hàm ý là cần có một mô hình
cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại khách
hàng thành nhiều nhóm tương ứng với các mức độ vỡ nợ khác nhau.
- Không có lý do để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số
theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Các biến X cũng không phải là bất biến. Ngoài
ra, mô hình này còn giả thiết các biến X hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc lẫn
nhau.
- Mô hình này không tính tới một số nhân tố quan trọng khó lượng hóa nhưng
lại ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ RRTD của khách hàng như thương hiệu của
khách hàng, mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng hay yếu tố vĩ mô như chu
kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung, các nhân tố này thường không được đề
cập trong mô hình ghi điểm tín dụng Z.


19

1.2.3.4 Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho
điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số
người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân,
thời gian công tác. Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu
nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh
giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân
hàng hình thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm như sau:
Tổng số điểm của khách hàng
Từ 28 điểm trở xuống
29 – 30 điểm
31 – 33 điểm

34 – 36 điểm
37 – 38 điểm
39 – 40 điểm
41 – 43 điểm

Quyết định tín dụng
Từ chối tín dụng
Cho vay đến 500 USD
Cho vay đến 1.000 USD
Cho vay đến 2.500 USD
Cho vay đến 3.500 USD
Cho vay đến 5.000 USD
Cho vay đến 8.000 USD

Tương ứng với từng mức độ của từng hạn mục sẽ cho được điểm tương ứng.
Mô hình này là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá
trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng. Tuy nhiên, mô hình
này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh một cách nhanh
chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đổi trong
cuộc sống gia đình.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


20

Chương một đã nêu ra cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng, đồng thời nêu ra một số
mô hình lượng hóa rủi ro trên thế giới. Qua đó, giúp cho việc phân tích đánh giá
thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam- CN
Quảng Nam ở chương tiếp theo.

Bên cạnh đó, chương một cũng đã đưa ra một số kinh nghiệm phòng ngừa rủi
ro tín dụng từ NHTM của các nước để tham khảo. Qua đó, có thể học hỏi kinh
nghiệm từ các NHTM Singapore, Trung Quốc và Mỹ để phòng tránh và giảm thiểu
rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Mỗi nước có một kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro tín
dụng khác nhau, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà có thể vận dụng một cách linh
hoạt để phòng ngừa rủi ro tín dụng cho ngân hàng một cách tốt nhất.

Chương 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ


×